Nguyên tác: Airport
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:16 +0700
Phần II .03
C
hiếc chìa khóa đó là chìa khóa phòng 224 khách sạn O’Hagan.
Trong phòng thay quần áo mờ tối tiếp giáp với phòng radar kiểm soát không lưu, Keith Bakersfeld nhận ra rằng anh đã nhìn chằm chằm vào chiếc chìa khóa có thẻ nhựa đã mấy phút. Hay chỉ là vài giây thôi? Có thể lắm. Gần đây, giống như rất nhiều thứ khác, anh đã mất cảm giác thời gian và mất khả năng định hướng. Thỉnh thoảng ở nhà, Natalie thấy anh đứng đờ người, nhìn vào hư vô. Và khi cô lo lắng hỏi, Tại sao anh lại đứng đó? Chỉ sau đó anh mới nhận thức được nơi anh đang đứng, khả năng hành động và suy nghĩ có ý thức mới trở lại.
Anh cho rằng điều đã xảy ra - lúc ấy và cũng như lúc này - là do tâm trí mệt mỏi, kiệt quệ của anh ta đã tự tắt. Một nơi nào đó bên trong bộ não phức tạp - của các mạch máu, mô não, nơi lưu trữ suy nghĩ và cảm xúc - có một công tắc nhỏ, một cơ chế tự bảo vệ giống như cái relay nhiệt trong động cơ điện, hoạt động khi động cơ chạy quá nóng và bằng cách tự đốt cháy chính nó. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa động cơ và não người là động cơ không hoạt động bất cứ khi nào cần thiết.
Bộ não con người không như thế.
Ánh sáng từ những chiếc đèn pha đặt bên ngoài tháp KSKL rọi vào cũng đủ sáng để Keith nhìn thấy mọi vật, qua tấm cửa sổ duy nhất trong phỏng thay quần áo. Không phải anh cần xem gì. Ngồi trên một trong những chiếc băng ghế gỗ, bên cạnh anh, những chiếc bánh sandwich mà Natalie đã làm chưa được đụng tới, anh không làm gì khác hơn là cầm chìa khóa phòng khách sạn O'Hagan và suy nghĩ, nhận xét về nghịch lý của bộ não con người.
Bộ não con người có thể tạo nên những hình tượng cao cả, thơ ca và kính viễn vọng, tạo ra Nhà nguyện Sistine và máy bay Concorde siêu âm. Tuy nhiên, bộ não con người - cũng giữ lại ký ức và lương tâm - cũng có thể dày vò, hành hạ con người, không cho nó nghỉ ngơi; chỉ có cái chết mới có thể chấm dứt mọi chuyện.
Cái chết... với sự lãng quên, xóa sạch các hồi ức; mang lại sự yên bình cuối cùng.
Đó là lý do đẩy Keith Bakersfeld đi đến quyết định sẽ tự sát đêm nay.
Anh phải sớm quay lại phòng radar. Vẫn còn vài giờ nữa mới hết ca làm việc của anh và anh đã tự giao ước phải hoàn thành nhiệm vụ kiểm soát không lưu tối nay. Anh không chắc tại sao, ngoại trừ việc đó có vẻ là điều đúng đắn, và anh luôn cố gắng, tận tâm làm điều đúng đắn. Có lẽ có ý thức trách nhiệm là một đặc điểm gia đình; anh và anh trai Mel dường như luôn có nhiều điểm chung.
Dù sao, khi nhiệm vụ đã hoàn thành - nghĩa vụ cuối cùng của anh kết thúc - anh sẽ được tự do đến khách sạn O'Hagan, nơi anh đã đặt phòng vào chiều nay. Không lãng phí thời gian, lúc đó anh sẽ uống bốn mươi viên thuốc Nembutal - tất cả sáu mươi grain [19] - đang nằm trong hộp thuốc trong túi của anh. Số thuốc đó anh phải tích dần hai ba viên một, từ mấy tháng nay. Bác sĩ cấp đơn cho anh thuốc ngủ, và mỗi lần Natalie mua ở hiệu thuốc về, anh lại cẩn thận trích xuất một nửa và giấu đi. Vài ngày trước, anh đã đến thư viện, kiểm tra một cuốn sách tham khảo về độc tính lâm sàng để đảm bảo với bản thân rằng số lượng Nembutal mà anh ta có đã vượt quá liều gây tử vong.
Ca làm việc hôm nay của anh sẽ kết thúc vào nửa đêm. Ngay sau đó, khi anh uống những viên thuốc, giấc ngủ sẽ đến nhanh chóng và mọi chuyện kết thúc.
Anh đưa chiếc đồng hồ đeo tay ra phía ánh sáng bên ngoài để xem giờ. Đã gần chín giờ. Đã đến lúc quay trở lại phòng radar chưa? Không, nên đợi một vài phút nữa. Anh muốn trở lại đó với đầu óc thật bình tĩnh, để thần kinh vững vàng cho bất cứ tình huống nào có thể xảy ra trong mấy tiếng đồng hồ làm nhiệm vụ cuối cùng này.
Keith Bakersfeld lại cầm trong tay chiếc chìa khóa phòng khách sạn O'Hagan. Phòng 224.
Thật kỳ lạ về sự trùng hợp của các con số; là số phòng của anh tối nay, một cách tình cờ, trong đó có số 24. Có những người tin vào điều đó - numerology [20]; ý nghĩa huyền bí của các con số. Keith thì không, nhưng anh nhận ra con số 2 còn lại, đặt trước số 24, có thể được hiểu là số 24 lần thứ hai.
Số 24 lần thứ nhất là một ngày - ngày 24 - trước đây một năm rưỡi. Đôi mắt của Keith mờ đi, cũng như rất nhiều lần trước đây khi anh nhớ lại. Ngày đó khắc sâu vào ký ức anh với sự tự trách móc và thống khổ. Đó là nguồn gốc của bóng tối phủ dần ý thức và đẻ ra nỗi sầu muộn tuyệt vọng của anh. Đó là lý do anh sẽ kết thúc cuộc đời tối nay.
* * *
Một buổi sáng mùa hè. Thứ năm, ngày 24 tháng sáu.
Đó là một ngày cho các nhà thơ, những cặp tình nhân và các nhà nhiếp ảnh màu; loại ngày mà mọi người sẽ cất giữ mãi mãi trong tâm trí họ, để mở ra như một cuốn sổ lưu niệm tất cả những gì tốt nhất mọi lúc mọi nơi, khi họ muốn nhớ vào những năm sau đó. Ở Leesburg, Virginia, không xa bến phà Harpers lịch sử, bầu trời trong sáng vào lúc bình minh - CAVU, các báo cáo thời tiết, đã ghi lại tầm nhìn cao và xa không giới hạn; và các điều kiện vẫn như vậy cả ngày, ngoại trừ một vài búi mây rải rác vào buổi chiều. Mặt trời ấm áp, nhưng không ngột ngạt. Một làn gió nhẹ từ dãy núi Blue Ridge mang theo mùi hương của cây kim ngân.
Trên đường lái xe đi làm sáng hôm đó - đến Trung tâm KSKL khu vực Washington tại Leesburg - Keith Bakersfeld đã nhìn thấy những khóm hồng dại nở rộ. Anh nghĩ về một dòng thơ của Keats mà anh đã học ở trường trung học - “Cho mùa hè tràn đầy khắp nơi...” Câu thơ đó có vẻ phù hợp với một ngày như vậy.
Như thường lệ anh lái xe qua ranh giới bang Virginia từ Adamstown, bang Maryland, nơi anh và Natalie cùng hai cậu bé của họ thuê một ngôi nhà xinh xắn. Phần mui của chiếc Volkswagen đã hạ xuống, anh đi không vội vã, tận hưởng sự tràn trề của không khí và ánh nắng mặt trời, và khi những tòa nhà thấp, hiện đại quen thuộc của Trung tâm KSKL xuất hiện, anh cảm thấy bớt căng thẳng hơn bình thường. Về sau, anh tự hỏi liệu có phải chính điều đó là nguyên nhân của những biến cố xảy ra tiếp theo không.
Ngay cả bên trong tòa nhà chính - với những bức tường dày và không có cửa sổ, nơi ánh sáng ban ngày không bao giờ xuyên qua - Keith có cảm tưởng rằng ngày hè rực rỡ bên ngoài đã phần nào xâm nhập vào bên trong. Bảy mươi kiểm soát viên hoặc hơn, mặc áo sơ mi đang làm nhiệm vụ có vẻ nhẹ nhàng thoải mái, trái ngược với sự nghiêm túc do áp lực công việc trong hầu hết các ngày trong năm. Có lẽ có một lý do, là lưu lượng giao thông ít hơn bình thường, do thời tiết đặc biệt trong sáng. Nhiều chuyến bay không phải thương mại - như máy bay tư nhân, quân sự, thậm chí một vài máy bay thương mại - đang hoạt động bằng VFR [21], quy tắc bay trực quan, hay phương pháp nhìn thấy nhau, phi công có thể theo dõi trực tiếp bằng mắt các máy bay khác và tự theo dõi lấy vị trí của mình mà không cần phải nhờ hướng dẫn bằng radio từ Trung tâm KSKL.
Trung tâm KSKL khu vực Washington tại Leesburg là một điểm kiểm soát quan trọng. Từ phòng kiểm soát của nó, người ta quan sát và hướng dẫn tất cả giao thông hàng không trên sáu tiểu bang phía đông. Tính ra, khu vực được kiểm soát rộng đến hơn một trăm nghìn dặm vuông. Trong khu vực đó, bất cứ khi nào một chiếc máy bay đã có kế hoạch bay cụ thể rời khỏi sân bay, nó sẽ nằm dưới sự quan sát và kiểm soát của Leesburg. Nó vẫn nằm dưới sự kiểm soát đó cho đến khi hành trình hoàn thành hoặc đi ra khỏi khu vực. Máy bay đi vào khu vực được bàn giao từ các trung tâm kiểm soát khác, có hai mươi trung tâm như thế trên khắp lục địa Hoa Kỳ. Trung tâm Leesburg là một trong những trung tâm bận rộn nhất của quốc gia. Nó kiểm soát đầu phía nam của “hành lang đông bắc”, nơi đứng đầu thế giới về số lượng máy bay bay qua trong một ngày.
Điều kỳ quặc là Leesburg cách xa các sân bay, sân bay gần nhất mà trung tâm này mang tên, nằm ở mãi Washington D.C., tức là cách đó bốn mươi dặm. Trung tâm này nằm ở vùng nông thôn Virginia - một cụm các tòa nhà hiện đại, thấp, có bãi đậu xe - và được bao quanh ba phía bởi đất nông nghiệp. Gần đó là một dòng suối nhỏ tên là Bull Run - danh tiếng của nó được lưu giữ mãi mãi bởi hai trận đánh trong thời kỳ Nội chiến. Keith Bakersfeld đã từng đến suối Bull Run sau giờ làm việc, để ngẫm nghĩ về sự tương phản hoàn toàn và kỳ lạ giữa quá khứ và hiện tại của Leesburg.
Sáng hôm đó, tuy ngày hè nắng đẹp và trong sáng bên ngoài, mọi thứ trong phòng kiểm soát chính rộng rãi, cao như nhà thờ vẫn hoạt động như bình thường. Toàn bộ khu vực điều khiển - lớn hơn sân bóng đá - như mọi khi, được chiếu sáng lờ mờ để cho phép quan sát chính xác vài chục màn hình radar, được sắp xếp theo các hàng và dãy dưới các mái hiên nhô ra. Độ ồn của phòng kiểm soát là điều mà bất kỳ người mới nào cũng chú ý đầu tiên. Từ khu vực dữ liệu các chuyến bay, với hàng dãy khổng lồ máy tính, các loại thiết bị điện tử và máy điện báo tự động, phát sinh tiếng rít liên tục và tiếng máy móc đang hoạt động. Gần đó, từ hàng chục vị trí mà các kiểm soát viên ngồi hướng dẫn giao thông trên không, xuất hiện một loạt các cuộc trao đổi bằng giọng nói trên một loạt các tần số radio. Tiếng máy móc và giọng nói của con người hợp nhất, thành một mức độ tiếng ồn đều đều, lan tỏa khắp nơi, nhưng bị tắt tiếng kỳ lạ bởi những bức tường và trần nhà cách âm, hấp thụ âm thanh.
Cao hơn hẳn tất cả máy móc và người làm việc là một chiếc cầu dài để quan sát, chạy dài suốt phòng kiểm soát, nơi khách tham quan thỉnh thoảng được đến để nhìn cảnh làm việc ở phía dưới. Nhìn từ chiếc cầu này, hoạt động của phòng kiểm soát không giống như hoạt động của một sàn giao dịch chứng khoán. Kiểm soát viên hiếm khi liếc lên cây cầu, họ được huấn luyện để bỏ qua bất cứ điều gì có thể làm giảm sự tập trung vào công việc của họ, và vì chỉ có một vài khách đặc biệt mới được đến đây, kiểm soát viên và người ngoài hiếm khi gặp nhau. Điều cuối cùng thêm vào là sự vắng mặt hoàn toàn của phụ nữ, do đó công việc không chỉ là áp lực cao, mà còn khô khan như tu viện.
Trong căn phòng phụ giáp với phòng kiểm soát, Keith cởi chiếc áo khoác ra, chỉ mặc chiếc áo sơ mi trắng bong giống như đồng phục cho những kiểm soát viên không lưu. Không ai biết tại sao kiểm soát viên mặc áo sơ mi trắng khi làm nhiệm vụ; không có quy định về đồng phục, nhưng hầu hết trong số họ đều mặc như vậy. Khi anh vượt qua các kiểm soát viên khác, hướng đến chỗ ngồi của mình, một vài đồng nghiệp đã chào anh một câu dài đầy đủ, và điều đó cũng thật bất thường. Thông thường, cảm giác áp lực ngay lập tức khi đi vào phòng kiểm soát khiến người ta thường nói một tiếng chào ngắn gọn hoặc gật đầu vội vàng - thậm chí đôi khi không có gì cả.
Khu vực kiểm soát mà Keith thường xuyên làm việc là một phần của vùng Pittsburgh - Baltimore. Khu vực này được theo dõi bởi một nhóm ba người. Keith là kiểm soát viên radar, công việc của anh là duy trì liên lạc với máy bay và đưa ra các hướng dẫn radio. Hai trợ lý kiểm soát viên xử lý dữ liệu chuyến bay và thông tin liên lạc sân bay; một giám sát viên phối hợp hoạt động của ba người kia. Ngoài ra, hôm nay nhóm có một kiểm soát viên thực tập do Keith hướng dẫn trong nhiều tuần qua.
Những người khác trong nhóm bước vào phòng cùng lúc với Keith Bakersfeld, đang đứng ở vị trí phía sau những kiểm soát viên họ sẽ thay thế, để trong một vài phút, họ ghi nhớ “hình ảnh” vào tâm trí. Tất cả mọi người trong phòng kiểm soát rộng lớn tại quý vị trí khác, cũng đang làm điều tương tự như thế.
Đứng ở khu làm việc của mình, đằng sau kiểm soát viên radar sắp hết ca, Keith đã cảm thấy sự nhạy bén về tinh thần, tốc độ suy nghĩ của anh đang tăng tốc một cách có ý thức. Trong tám giờ kế tiếp, trừ hai đợt nghỉ giải lao ngắn ngủi, não của anh phải tiếp tục vận hành theo cách đó.
Anh quan sát thấy mật độ giao thông bận rộn ở mức trung bình trong thời gian ban ngày, có tính đến thời tiết tốt lan rộng. Trên nền tối của màn hình radar, có khoảng mười lăm điểm sáng màu xanh - hay là “mục tiêu” như các kiểm soát viên gọi chúng - biểu thị những chiếc máy bay trong không trung. Ở hướng Allegheny có chiếc Convair 440 ở độ cao tám nghìn feet, đang tiếp cận Pittsburgh. Đằng sau Allegheny Right, ở các độ cao khác nhau, là National DC-8, American Airlines 727, hai máy bay tư nhân - Learjet và Fairchild F-27 - và chiếc National khác, lần này là chiếc Electra phản lực cánh quạt. Keith lưu ý là một số máy bay khác có thể xuất hiện trên màn hình bất cứ lúc nào, từ các khu vực khác hoặc vừa cất cánh từ sân bay Friendship, Baltimore. Đi ngược hướng Baltimore, là một chiếc Delta DC-9, sắp chuyển giao cho kiểm soát tiếp cận sân bay Friendship. Đằng sau máy bay này là một chiếc TWA, một chiếc của hãng Piedmont Airlines Martin, một chuyến bay tư nhân khác, hai chiếc United và Mohawk. Keith quan sát thấy sự phân tách độ cao bay và khoảng cách của tất cả các máy bay đều đạt yêu cầu, ngoại trừ việc hai chiếc United hướng tới Baltimore hơi gần nhau. Dường như đọc được ý nghĩ của Keith, kiểm soát viên vẫn đang ngồi cạnh màn hình cho chiếc United thứ hai chuyển sang hướng khác.
“Tôi nhớ được hình ảnh rồi”, Keith khẽ nói. Kiểm soát viên đang ngồi gật đầu và di chuyển ra ngoài.
Giám sát viên của Keith, Perry Yount, cắm tai nghe vào và nhìn xuống màn hình, đánh giá về tình hình giao thông. Perry là một người da đen cao, gầy, trẻ hơn Keith vài tuổi. Anh ta có trí nhớ nhanh nhạy, có thể ghi nhớ lâu dài một khối lượng lớn dữ liệu chuyến bay, để sau đó có thể lặp lại nó, toàn bộ hoặc theo từng phần với độ chính xác của máy tính. Perry là người đàn ông mang lại sự yên tâm khi có rắc rối.
Keith đã nhận một số chuyến bay mới và bàn giao những chuyến bay khác khi người giám sát chạm vào vai anh. “Keith, hôm nay tôi giám sát hai nhóm - nhóm này và nhóm bên cạnh. Chúng tôi còn thiếu một người. Anh có ổn một lúc được không?”
Keith gật đầu. “Roger”. Anh hướng dẫn đường bay đúng cho chiếc Eastern 727 qua radio, sau đó quay sang phía kiểm soát viên thực tập, George Wallace, đã ngồi vào chỗ cạnh anh. “Tôi đã có George để mắt đến tôi rồi”.
“Được”. Perry Yount rút tai nghe ra và chuyển sang nhóm kiểm soát viên kế bên. Những tình huống tương tự đôi khi đã từng xảy ra trước đây, và đã được xử lý không khó khăn gì. Perry Yount và Keith đã làm việc cùng nhau trong nhiều năm; mỗi người đều biết rằng mình có thể tin tưởng người kia.
Keith bảo kiểm soát viên thực tập cạnh anh, “George, bắt đầu ghi nhớ hình ảnh đi”.
George Wallace gật đầu và nhích lại gần màn hình radar. Anh ta ở tuổi đôi mươi, đã là kiểm soát viên thực tập được gần hai năm; trước đó, anh ta đã nhập ngũ, vào Không quân Hoa Kỳ. Wallace đã thể hiện mình là người có đầu óc tỉnh táo, nhanh trí, cộng với khả năng giữ bình tĩnh trong những phút căng thẳng. Trong một tuần nữa anh ta sẽ là một kiểm soát viên chính thức, mặc dù thực ra bây giờ anh ta hoàn toàn đảm đương được nhiệm vụ.
Keith cố tình cho khoảng cách giữa hai chiếc BAC-400 của American Airlines và National 727 trở nên nhỏ hơn mức cần thiết; anh đã sẵn sàng cho các hướng dẫn nhanh tách chúng ra xa nếu có gì nguy hiểm. George Wallace phát hiện ra tình trạng này ngay lập tức và cảnh báo Keith để chỉnh lại vị trí.
Đây là loại bài tập đáng tin cậy duy nhất để kiểm tra đánh giá năng lực của người kiểm soát viên mới. Tương tự như vậy, khi một kiểm soát viên thực tập ở lại một mình và gặp khó khăn, anh ta phải thể hiện sự tháo vát và tự giải quyết tình huống. Vào những lúc đó, kiểm soát viên hướng dẫn thường ngồi yên, với bàn tay nắm chặt và người toát mồ hôi. Ai đó đã từng mô tả việc đó như là “bám trên tường bằng mấy cái móng tay”. Khi nào cần can thiệp hay giải quyết là một quyết định quan trọng, không được đưa ra quá sớm hay quá muộn. Nếu người hướng dẫn giải quyết, sự tự tin của người thực tập có thể bị suy yếu vĩnh viễn và không bao giờ có thể trở thành kiểm soát viên giỏi được nữa. Mặt khác, nếu một người hướng dẫn không can thiệp kịp thời, một vụ va chạm trên không khủng khiếp có thể xảy ra.
Do những rủi ro liên quan, và thêm áp lực tinh thần, nhiều kiểm soát viên đã từ chối hướng dẫn những người thực tập. Họ chỉ ra rằng nhiệm vụ hướng dẫn thực tập cho người khác không được công nhận chính thức cũng như không thêm được đồng lương nào. Hơn nữa, nếu có tai nạn, kiểm soát viên hướng dẫn hoàn toàn chịu trách nhiệm. Vậy tại sao phải chịu thêm quá nhiều căng thẳng và trách nhiệm mà chẳng được gì?
Tuy nhiên Keith đã thể hiện năng khiếu hướng dẫn cũng như sự kiên nhẫn trong việc đào tạo những người thực tập. Mặc dù đôi khi cũng phải chịu đựng và toát mồ hôi, anh vẫn nhận trách nhiệm ấy, bởi anh cho đó là cần thiết. Lúc này, anh tự hào rằng George Wallace sẽ trở thành một kiểm soát viên giỏi.
Wallace lặng lẽ nói lần nữa, “Tôi sẽ cho chiếc United 284 rẽ phải ngay để tách biệt độ cao với chiếc Mohawk”.
Keith gật đầu đồng ý và nhấn nút micro. “Trung tâm Washington gọi United 284. Rẽ phải, hướng 060”.
Ngay lập tức có tiếng trả lời lạo xạo. “Trung tâm Washington, đây là United 284. Roger; 060”. Ở đó, trên bầu trời trong xanh, nơi mặt trời đang rực rỡ, cách trung tâm nhiều dặm, chiếc máy bay phản lực khổng lồ sẽ lặng lẽ rẽ theo đúng chỉ dẫn, trong khi các hành khách vẫn tiếp tục ngủ hoặc đọc sách. Và trên màn hình radar chấm sáng màu xanh, tín hiệu của chiếc United 284 bắt đầu chuyển sang hướng mới.
Bên dưới phòng kiểm soát, trong một căn phòng đặt tầng tầng giá đỡ đáng kinh ngạc, trên đó là các máy ghi âm bằng băng cuộn, sự trao đổi giữa mặt đất và không trung đã được ghi lại - để nghe lại sau nếu có chuyện phát sinh. Mỗi cuộc đàm thoại từ từng vị trí trong phòng kiểm soát, đều được ghi lại và lưu trữ. Định kỳ, một số băng được các giám sát viên phát lại và lắng nghe nghiêm túc. Nếu có điều gì sai sót, người ta sẽ phân tích cho kiểm soát viên biết ngay; nhưng không có kiểm soát viên nào biết khi nào bản ghi của chính mình được chọn để phân tích. Trên cánh cửa của phòng ghi âm là lời nhắc nhở hài hước nhưng nghiệt ngã, “Anh cả đang nghe bạn”.
Buổi sáng tiếp tục trôi qua.
Thỉnh thoảng, Perry Yount lại xuất hiện. Anh ta vẫn đang giám sát hai vị trí và ở lại đủ lâu để đánh giá tình hình giao thông hiện tại. Những gì anh ta thấy dường như hài lòng, và anh dành ít thời gian phía sau Keith hơn ở vị trí kia, nơi có một số vấn đề dường như đang xảy ra. Khoảng giữa buổi sáng, lượng máy bay trên không giảm nhẹ; nhưng nó sẽ đông đúc trở lại trước giữa trưa. Ngay sau 10:30 AM, Keith Bakersfeld và George Wallace trao đổi vị trí. Kiểm soát viên thực tập vào vị trí hướng dẫn máy bay, còn Keith kiểm tra bên cạnh. Keith không thấy có nhu cầu phải can thiệp; Wallace trẻ tuổi đã chứng minh có kinh nghiệm và cảnh giác. Căn cứ vào tình hình, Keith cho phép mình thư giãn đôi chút.
Lúc mười một giờ kém mười, Keith cảm thấy phải đi vệ sinh. Trong những tháng gần đây, anh bị vài cơn đau đường ruột; anh ngờ rằng đây là sự khởi đầu của một cơn khác. Anh ra hiệu cho Perry Yount và nói với anh.
Người giám sát gật đầu. “George làm có ổn không?”
“Như một cựu chiến binh”. Keith nói đủ lớn để George có thể nghe thấy.
“Tôi sẽ để ý đến anh ta”, Perry nói. “Anh có thể tự do, Keith”.
“Cảm ơn”.
Keith ký vào sổ trực và ghi nhận thời gian bắt đầu ra ngoài. Perry ký nguệch ngoạc một chữ cái trên dòng nhật ký tiếp theo, chấp nhận trách nhiệm giám sát Wallace. Trong vài phút nữa, khi Keith trở lại, họ sẽ làm theo quy trình tương tự.
Khi Keith rời khỏi phòng kiểm soát, người giám sát đang chăm chú nhìn vào màn hình, tay đặt nhẹ lên vai George Wallace.
Nhà vệ sinh nằm ở trên phòng kiểm soát một tầng; một cửa sổ bằng kính mờ tiếp nhận ánh sáng ban ngày bên ngoài. Khi Keith đi vệ sinh và rửa tay sạch sẽ xong, anh đi đến cửa sổ và mở ra. Anh không biết liệu thời tiết có còn tuyệt vời như hồi sáng sớm hay không. Trời vẫn nắng đẹp.
Từ phía sau tòa nhà nơi đặt cửa sổ, anh có thể nhìn thấy xa ngoài khu vực dịch vụ của trung tâm là đồng cỏ xanh, cây cối và hoa dại. Bây giờ trời đã nóng hơn. Xung quanh là một đám côn trùng dường như buồn ngủ.
Keith đứng nhìn ra ngoài, không muốn rời khỏi ánh mặt trời vui vẻ và trở về với sự ảm đạm của phòng kiểm soát. Gần đây nó thường xảy ra với anh, rằng anh cũng có cảm giác tương tự vào những lúc khác - có lẽ quá nhiều lần; và anh thành thật nghĩ rằng đó không phải vì cái vẻ tranh tối tranh sáng ở đó, mà là do áp lực tinh thần. Có thời kỳ Keith làm việc không thấy gì khó khăn và dễ đàng chịu đựng sự căng thẳng mà công việc đòi hỏi. Nhưng dạo này thỉnh thoảng anh phải tự ép mình mới quay lại làm việc được.
* * *
Trong khi Keith Bakersfeld đang đứng ở cửa sổ và suy nghĩ, một chiếc phản lực 727 của Northwest Orient, trên đường từ Minneapolis - St. Paul, đang ở gần Washington, D.C. Trong cabin của mình, một nữ tiếp viên đang cúi xuống một hành khách nam cao tuổi. Khuôn mặt ông ta tái nhợt; dường như không thể nói được. Nữ tiếp viên tin rằng ông ta đang bị đau tim. Cô vội vã vào buồng lái để thông báo cho cơ trưởng. Một lát sau, hành động theo lệnh của cơ trưởng, người phi công thứ nhất của Northwest Orient đã yêu cầu Trung tâm kiểm soát khu vực Washington cho phép hạ cánh khẩn cấp xuống Sân bay Quốc gia Washington.
* * *
Keith đôi khi tự hỏi - giống như bây giờ - anh có thể buộc tâm trí đôi khi mệt mỏi của mình tiếp tục làm việc bao nhiêu năm nữa. Anh đã làm kiểm soát viên trong mười lăm năm. Nay anh đã ba mươi tám tuổi.
Điều đáng buồn là trong công việc này, bạn có thể bị kiệt quệ về mặt tinh thần, thành một ông già ở tuổi bốn mươi lăm hoặc năm mươi, nhưng việc nghỉ hưu chính thức còn phải mười hoặc mười lăm năm nữa. Đối với nhiều kiểm soát viên không lưu, những năm cuối cùng là một con đường dài quá mệt mỏi, mà cuối cùng họ không vượt qua được.
Cũng như hầu hết các kiểm soát viên khác, Keith biết rằng tác hại của công việc đến cơ thể của những người làm nghề kiểm soát không lưu đã được công nhận từ lâu. Hồ sơ của các chuyên gia y học hàng không đầy các bằng chứng y tế. Các bệnh án liên quan trực tiếp đến công việc của kiểm soát viên, bao gồm tăng huyết áp, đau tim, loét dạ dày, nhịp tim nhanh, suy nhược tâm thần, cộng với một loạt các bệnh nhẹ hơn. Nổi bật là các nhà nghiên cứu y học độc lập, trong các nghiên cứu học thuật, đã xác nhận những phát hiện như vậy. Theo một bài nghiên cứu: “Một kiểm soát viên sẽ trải qua những giờ phút căng thẳng, mất ngủ mỗi đêm để tự hỏi nhờ phép màu nào mà anh ta giữ được tất cả những chiếc máy bay đó không đâm vào nhau. Ngày hôm nay anh ta đã xoay sở để không gây ra thảm họa, nhưng liệu ngày mai anh ta còn gặp may mắn không? Sau một thời gian, một cái gì đó bất thường bên trong anh ta chắc chắn sẽ phá vỡ thể chất hoặc tinh thần - đôi khi là cả hai”.
Được trang bị những kiến thức này và hơn thế nữa, Cơ quan Hàng không Liên bang đã vận động Quốc hội quy định tuổi nghỉ hưu của các kiểm soát viên không lưu là năm mươi, hoặc sau hai mươi năm phục vụ. Hai mươi năm, các bác sĩ tuyên bố, tương đương bằng bốn mươi năm trong hầu hết các công việc khác. FAA đã cảnh báo các nhà lập pháp rằng an toàn công cộng có liên quan; kiểm soát viên sau hơn hai mươi năm phục vụ, có khả năng không bảo đảm an toàn nữa. Keith nhớ Quốc hội đã bỏ qua cảnh báo và từ chối phê chuẩn dự luật.
Sau đó, một Ủy ban đặc biệt do Tổng thống thành lập cũng biểu quyết chống để nghị giảm bớt thời hạn phục vụ của các kiểm soát viên, và FAA - khi đó là một cơ quan trực thuộc tổng thống - đã được yêu cầu chấm dứt và hủy bỏ vấn đề này. Bây giờ, chính thức người ta đã làm như thế. Tuy nhiên, riêng tư mà nói như Keith và những người khác biết, các quan chức FAA ở Washington vẫn bị thuyết phục hơn bao giờ hết; họ đoán rằng vấn đề này sẽ xuất hiện trở lại, mặc dù chỉ khi một hoặc một loạt thảm họa hàng không có liên quan đến sự mệt mỏi của một kiểm soát viên nào đó, tiếp theo sẽ là dư luận báo chí và công chúng.
Suy nghĩ của Keith quay trở lại cảnh nông thôn trước mắt. Ngày hôm nay thật rực rỡ; các cánh đồng mời gọi, ngay cả khi nhìn từ cửa sổ phòng vệ sinh. Anh ước mình có thể ra ngoài đó và ngủ dưới ánh mặt trời. Chà, không thể được, và chính là điều đó. Anh ta cho rằng mình nên quay lại phòng kiểm soát. Anh sẽ quay lại ngay, một chút nữa.
* * *
Sau khi được phép của Trung tâm Washington chiếc Northwest Orient 727 bắt đầu hạ độ cao. Ở các độ cao thấp hơn, các chuyến bay khác đang nhanh chóng chuyển hướng, hoặc được lệnh tăng độ cao, giữ khoảng cách an toàn. Một cái lỗ xiên đang được dọn sạch, qua đó chiếc Northwest Orient tiếp tục đi xuống, trong lúc giao thông giữa trưa ngày càng tăng. Kiểm soát tiếp cận tại sân bay quốc gia Washington đã được cảnh báo trước; sẽ sớm tiếp nhận chiếc Northwest Orient được Trung tâm Washington chuyển giao. Tại thời điểm này, trách nhiệm hướng dẫn chuyến bay Northwest Orient và các máy bay khác đã chuyển sang nhóm bên cạnh Keith - khu vực mà chàng da đen trẻ, Perry Yount, đang giám sát.
Mười lăm chiếc máy bay đang được tung hứng trong một không gian rộng vài dặm, với tốc độ tổng cộng 7.500 dặm một giờ. Không có máy bay nào phải bay gần chiếc khác. Chuyến bay Northwest Orient phải được đưa xuống an toàn, thông qua cả đám máy bay đó.
Những tình huống tương tự như vậy thường xảy ra vài lần trong một ngày; còn trong thời tiết xấu có thể là vài lần một giờ. Đôi khi các trường hợp khẩn cấp đến cùng lúc với nhau, khi đó các kiểm soát viên phải đánh số chúng - sự cố một, sự cố hai, sự cố ba…
Trong tình huống hiện tại, Perry Yount - ít nói, lạnh lùng và tài năng - đã xử lý bằng kỹ năng và kinh nghiệm như mọi khi. Làm việc với những người khác trong cùng nhóm, anh ta đang phối hợp thực hiện theo quy trình khẩn cấp - bằng giọng đều đều một cách bình tĩnh, vì thế người ngoài cuộc không bao giờ có thể đoán ra đang có tình trạng khẩn cấp. Các máy bay khác không thể nghe thấy các cuộc trao đổi với máy bay Northwest Orient, vì nó đã được chỉ dẫn chuyển sang tần số radio khác biệt.
Mọi việc vẫn diễn ra tốt đẹp. Máy bay Northwest Orient vẫn tiếp tục hạ thấp theo đúng hướng đã định. Vài phút nữa tình hình khẩn cấp sẽ kết thúc.
Thậm chí giữa áp lực như vậy, Perry Yount vẫn tranh thủ để nhìn lướt qua vị trí nhóm liền kề - điều mà thông thường anh sẽ chú ý như nhau - để kiểm tra George Wallace. Mọi thứ đều ổn, mặc dù Perry biết rằng anh sẽ yên tâm hơn khi Keith Bakersfeld trở lại. Anh liếc về phía cửa phòng kiểm soát. Không thấy bóng dáng của Keith đâu.
* * *
Keith vẫn tiếp tục đứng bên cửa sổ mở rộng, nhìn ra vùng nông thôn Virginia và đang nhớ Natalie. Anh thở dài. Gần đây đã có những bất đồng giữa họ, do công việc của anh gây ra. Có những quan điểm mà vợ anh có thể hoặc không thể nhìn thấy. Natalie quan tâm đến sức khỏe của Keith. Cô muốn anh từ bỏ nghề kiểm soát không lưu; xin thôi việc, và chọn một nghề nghiệp khác trong khi anh còn trẻ và phần lớn sức khỏe của anh vẫn tốt. Bây giờ anh nhận ra, thật là sai lầm khi tâm sự những lo lắng của mình với Natalie, để mô tả những gì anh đã thấy xảy ra với những kiểm soát viên khác mà công việc đã khiến họ mau già đi và ốm yếu. Natalie đã hoảng hốt, có lẽ là có lý do. Nhưng anh đã có những cân nhắc chuyện từ bỏ công việc, bỏ đi sau nhiều năm được đào tạo và có kinh nghiệm. Anh cho rằng những lo lắng của Natalie - hoặc của bất kỳ người phụ nữ nào khác - thật khó mà thông cảm được.
* * *
Trên bầu trời Martinsburg, bang West Virginia - cách trung tâm Washington khoảng ba mươi dặm về phía tây bắc - một máy bay tư nhân Beech Bonanza, bốn chỗ ngồi, đang bay ở độ cao bảy nghìn feet, vừa rẽ từ đường hàng không V166 sang đường V44. Chiếc Beech Bonanza bé nhỏ, có thể nhận dạng bằng mắt thường với cái đuôi bướm, đang phi hành ở tốc độ 175 dặm/giờ, điểm đến của nó là Baltimore. Nó đang chở gia đình Redfern: Irving Redfern, kỹ sư kinh tế - nhà tư vấn tài chính, vợ của anh ta, và hai đứa con, Jeremy mười tuổi và Valerie chín tuổi.
Irving Redfern là người cẩn thận, kỹ lưỡng. Hôm nay, vì điều kiện thời tiết thuận lợi, anh ta có thể bay bằng VFR. Tuy nhiên, anh ta cho rằng nên thận trọng hơn khi nộp kế hoạch bay và kể từ khi rời sân bay nhà ở Charleston, West Virginia, anh ta đã bay theo đường hàng không, giữ liên lạc với kiểm soát không lưu. Mới một lát trước đây, Trung tâm Washington đã hướng dẫn anh ta rẽ sang đường bay V44. Anh ta vừa thực hiện xong và kim la bàn từ tính của anh ta, nãy giờ hơi lắc lư, bây giờ đang dần dần đứng yên.
Gia đình Redferns bay đến Baltimore một phần vì công việc của Irving Redfern, và một phần để giải trí, buổi tối cả gia đình định đi xem hát. Trong khi người cha đang tập trung vào việc bay của mình, những đứa trẻ với Merry, đang trò chuyện về việc họ sẽ ăn món gì vào bữa trưa tại sân bay Friendship.
Kiểm soát viên Trung tâm Washington, người đã cho Irving Redfern những chỉ dẫn mới nhất là George Wallace, kiểm soát viên thực tập gần như chính thức, đang ngồi ở chỗ của Keith Bakersfeld. George đã xác định chính xác chiếc Beechcraft của Redferns trên màn hình radar, nơi nó xuất hiện dưới dạng một chấm màu xanh tươi sáng, nhỏ hơn và di chuyển chậm hơn hầu hết các phương tiện bay khác - hiện giờ chủ yếu là máy bay phản lực. Tuy nhiên không có máy bay nào bên trên chiếc Beechcraft và dường như có rất nhiều không phận xung quanh nó. Perry Yount, giám sát viên của nhóm, đã trở lại vị trí nhóm kế bên. Bây giờ anh ta đã giúp giải quyết tình huống khó khăn của chiếc Northwest Orient 727 khi nó đã được chuyển giao an toàn cho đài kiểm soát tiếp cận tại sân bay quốc gia Washington. Theo định kỳ, Perry liếc ngang qua George và gọi, “Tất cả mọi thứ đều ổn chứ?” George Wallace gật đầu, mặc dù anh ta bắt đầu đổ mồ hôi một chút. Giao thông buổi trưa hôm nay dường như đông đúc sớm hơn bình thường.
Bất ngờ đối với George Wallace hoặc Perry Yount hoặc Irving Redfern, một chiếc phản lực huấn luyện T-33 của lực lượng Vệ binh Quốc gia đang bay - lúc này đang lười biếng bay theo vòng tròn - một vài dặm về phía bắc của đường bay V44. Chiếc T-33 đến từ sân bay Martin, gần Baltimore và phi công Vệ binh Quốc gia của nó là một nhân viên bán ô tô tên Hank Neel.
Trung úy Neel, người đang hoàn thành yêu cầu huấn luyện quân sự bán thời gian của mình, đã được cho phép bay đơn do đã bay thành thạo VFR. Bởi vì hắn ta đã được chỉ định bay trong một khu vực khống chế nghiêm ngặt ở phía tây bắc Baltimore, nên không có kế hoạch bay nào được nộp; do đó Trung tâm KSKL khu vực Washington không hay biết rằng chiếc T-33 đang ở trên không. Điều này sẽ không có vấn đề gì nếu Neel không trở nên buồn chán với nhiệm vụ của mình và nếu Neel không là một phi công bạt mạng. Trong khi giữ chiếc máy bay phản lực lượn những vòng tròn lười biếng, tình cờ hắn ta nhận ra rằng mình đã trôi dạt về phía nam trong khi luyện tập, thực tế, hắn ta đã bay lệch xa hơn nhiều điều hắn ta nghĩ. Hắn ta ở xa về phía nam đến mức vài phút trước, chiếc máy bay phản lực của Lực lượng Vệ binh Quốc gia đã lọt vào khu vực kiểm soát radar của George Wallace và bây giờ xuất hiện trên màn hình của Wallace tại Leesburg dưới dạng một chấm màu xanh, lớn hơn một chút so với chiếc Beech Bonanza của gia đình Redfern. Một kiểm soát viên có kinh nghiệm hơn sẽ nhận ra ngay lập tức dấu chấm biểu thị cho cái gì. Tuy nhiên, George vẫn bận rộn với những chiếc máy bay khác, chưa quan sát thấy tín hiệu không xác định mới xuất hiện.
Trung úy Neel đang ở cao độ mười lăm nghìn feet, đã quyết định sẽ kết thúc buổi tập bay bằng vài cú nhào lộn - hai vòng lộn, một vài vòng lật nghiêng chậm - và sau đó quay trở lại căn cứ. Hắn ta rẽ chiếc T-33 vào một khúc cua dốc và lật nghiêng để thực hiện đúng quy định, nhìn xem có máy bay nào ở dưới hay ở trên hắn ta không. Làm như thế hắn ta lại càng tiến gần hơn đến đường hàng không V44.
* * *
Keith Bakersfeld nghĩ, điều mà vợ anh không hiểu được là người đàn ông không thể bỏ công việc của mình ngay một cách vô cớ, vô trách nhiệm ngay cả khi anh ta muốn. Nhất là khi người đàn ông có gia đình để nuôi, có con cái phải đi học. Đặc biệt là trong công việc này, anh đã kiên trì tích lũy được nhiều kinh nghiệm mà không thể dùng vào đâu được nữa. Trong một số ngành dịch vụ, nhân viên có thể chuyển sang nơi khác mà vẫn sử dụng được những kinh nghiệm và kiến thức cũ. Kiểm soát viên không lưu thì không có chuyện đó. Kiến thức được đào tạo và kinh nghiệm của họ không có chỗ trong ngành công nghiệp tư nhân; không ai cần họ.
Keith nhận ra mình đã bị mắc kẹt - đó là những gì đã xảy ra - là một sự vỡ mộng đi kèm với những sự vỡ mộng khác. Tiền thu nhập là một. Khi bạn còn trẻ, nhiệt tình, muốn trở thành một phần của ngành hàng không, thang lương dịch vụ dân sự của kiểm soát viên không lưu có vẻ đầy đủ hoặc tốt hơn. Chỉ sau đó, mọi thứ trở nên rõ ràng - liên quan đến trách nhiệm kinh khủng của công việc - mới hiểu thang lương đó là như thế nào. Hiện nay trong giao thông hàng không hai loại chuyên gia khéo léo nhất là phi công và kiểm soát viên không lưu. Tuy nhiên, các phi công kiếm được ba mươi nghìn dollar một năm trong khi mức lương cao nhất của một kiểm soát viên cao cấp nhất chỉ đạt tới mức mười nghìn. Ai cũng cho rằng không thể trả cho các phi công thấp hơn. Nhưng ngay cả các phi công, những người nổi tiếng là ích kỷ và chỉ biết mình cũng phải cho rằng những kiểm soát viên đáng được trả lương cao hơn.
Hơn nữa, trái với nhiều người làm các ngành nghề khác, khả năng tiến thủ của các kiểm soát viên không lưu cũng không có gì sáng sủa lắm. Chức giám sát viên cao cấp không nhiều và chỉ rất ít người may mắn nhận được chức ấy.
Còn nữa... là không có lối thoát, trừ khi bạn liều lĩnh hoặc không quan tâm - mà những kiểm soát viên thì không phải như vậy, theo bản chất công việc của họ. Vì vậy, mình sẽ không có chuyện bỏ việc, Keith quyết định. Anh phải có một cuộc nói chuyện khác với Natalie; đã đến lúc cô phải chấp nhận rằng dù tốt hay xấu, đã quá muộn để thay đổi công việc. Ở tuổi này, anh không có ý định rũ bỏ công việc một cách không chính đáng để bắt đầu làm lại cuộc đời.
Bây giờ đã đến lúc anh phải về vị trí thật rồi. Nhìn đồng hồ anh không khỏi cảm thấy có lỗi khi nhận ra đã gần mười lăm phút trôi qua kể từ lúc anh rời phòng kiểm soát. Phần lớn thời gian đó anh như ở trong trạng thái mơ màng, điều rất ít khi xảy ra với anh, và vừa rồi xảy ra rõ ràng là do tác động của ngày hè êm ả. Keith khép cửa sổ buồng vệ sinh lại. Rồi ra ngoài hành lang, anh vội vã đi xuống phòng kiểm soát.
* * *
Trên vùng trời hạt Frederick, bang Maryland, Trung úy Neel đã lấy lại thăng bằng chiếc T-33 của Vệ binh Quốc gia và bay thẳng về phía trước. Neel đã hoàn thành việc kiểm tra bình thường của mình và không thấy máy bay nào khác. Bây giờ, bắt đầu vòng lộn nhào và lật nghiêng chậm đầu tiên, hắn ta đưa chiếc máy bay phản lực chúi sâu xuống.
* * *
Bước vào phòng kiểm soát, Keith Bakersfeld nhận ra ngay lập tức nhịp độ đã gia tăng. Tiếng ồn lớn hơn khi anh rời đi. Những kiểm soát viên khác đã quá bận tâm để liếc lên - như họ đã làm vào sáng sớm hôm nay - khi anh đi ngang qua họ trên đường đến vị trí của mình. Keith nguệch ngoạc một chữ ký trong sổ trực và ghi chú thời gian, sau đó di chuyển ra phía sau George Wallace, ghi nhớ “hình ảnh”, để mắt anh điều chỉnh quen dần với độ sáng của phòng kiểm soát, trái ngược hoàn toàn với ánh sáng mặt trời bên ngoài. George lẩm bẩm “Chào” khi Keith trở lại, sau đó tiếp tục truyền các hướng dẫn radio cho các máy bay. Trong một hoặc hai phút, khi Keith ghi nhớ xong “hình ảnh”, anh sẽ thay thế George và chui vào chỗ ngồi của mình. Được ở một mình có lẽ tốt cho George, Keith nghĩ, nó sẽ cải thiện sự tự tin của anh ta. Từ vị trí nhóm kế bên, Perry Yount đã ghi nhận sự trở lại của Keith.
Keith nghiên cứu màn hình radar và các điểm sáng đang di chuyển - các máy bay mục tiêu mà George đã xác định, sau đó là các ghi chú trên các thẻ nhựa nhỏ di chuyển trên màn hình. Một chấm sáng màu xanh chưa được nhận dạng đã lọt vào mắt Keith. Anh hỏi George một cách gay gắt, “Máy bay nào bay cạnh chiếc Beech Bonanza 403 thế này?”
* * *
Trung úy Neel đã hoàn thành vòng lộn nhào và lật nghiêng chậm thứ nhất của mình. Hắn ta đã leo trở lại cao độ mười lăm nghìn feet, và vẫn còn ở hạt Frederick, mặc dù ở xa hơn một chút về phía nam. Hắn ta lấy lại thăng bằng cho chiếc phản lực T-33, sau đó chúi mũi mạnh xuống và bắt đầu vòng lộn nhào thứ hai.
* * *
“Máy bay nào…?” George Wallace nhìn theo ánh mắt của Keith qua màn hình radar. Anh ta thở dốc; rồi trong một giọng nói bị bóp nghẹt “Chúa ơi!”
Với chỉ một động tác nhanh nhẹn, Keith giật chiếc tai nghe radio khỏi George và gạt anh ta sang một bên. Keith bật công tắc tần số và ấn nút micro gọi đi. “Beech Bonanza NC-403, đây là Trung tâm Washington. Bên trái bạn có chiếc máy bay lạ. Lập tức rẽ sang phải ngay!”
* * *
Chiếc T-33 của Vệ binh quốc gia đã xuống tới điểm thấp nhất trong vòng lộn. Trung uý Neel kéo cần điều khiển trở lại và bằng toàn bộ sức mạnh, bắt đầu bay lên cao nhanh và dốc. Ngay phía trên hắn ta là chiếc Beech Bonanza nhỏ bé, đang chở gia đình Irving Redfern, vẫn bay trên đường hàng không V44.
* * *
Trong phòng kiểm soát... mọi người nín thở... im lặng... cầu nguyện vội vã... họ nhìn những chấm xanh sáng đang tiến lại gần nhau.
Tiếng radio kêu lạo xạo. “Trung tâm Washington, đây là Beech...” Đột nhiên liên lạc bị cắt đứt.
* * *
Irving Redfern là một kỹ sư tư vấn kinh tế. Anh là một phi công nghiệp dư có năng lực, nhưng không phải là chuyên nghiệp.
Một phi công hàng không thương mại, sau khi nhận được mệnh lệnh của Trung tâm Washington, sẽ phải cho máy bay của anh ta rẽ sang phải ngay lập tức. Anh ta sẽ cảm nhận được sự khẩn cấp trong giọng nói của Keith, sẽ hành động ngay không cần chờ đợi để xác nhận, hoặc đặt câu hỏi. Một phi công của hãng hàng không sẽ bỏ qua tất cả các hậu quả nhỏ trừ sự khẩn cấp thoát khỏi tình trạng nguy hiểm gần kề mà thông điệp của trung tâm kiểm soát đã ngụ ý không thể nhầm lẫn được. Đằng sau anh ta, trong cabin hành khách, cà phê có thể bị đổ, bữa ăn có thể tung tóe, thậm chí có thể có thương tích nhẹ. Sau đó sẽ có những khiếu nại, xin lỗi, kiện cáo, thậm chí là một cuộc điều tra của Ủy ban Hàng không dân dụng. Nhưng - với may mắn thông thường - ít ra thì tất cả vẫn sống sót. Hành động nhanh chóng là để bảo đảm điều đó. Nó cũng sẽ bảo đảm sự sống cho gia đình Redfern.
Phi công hàng không chuyên nghiệp thích ứng được với điều đó nhờ qua huấn luyện và sử dụng hàng ngày, nên có phản xạ nhanh chóng, chính xác. Irving Redfern thì không được như vậy. Anh ta là một người đàn ông chính xác, kiểu bác học, quen suy nghĩ trước khi hành động và làm theo đúng quy trình. Suy nghĩ đầu tiên của anh ta là phải xác nhận lại hướng dẫn của Trung tâm Washington. Do đó, anh ta đã sử dụng hết hai hoặc ba giây - là tất cả thời gian anh ta có. Chiếc T-33 của Lực lượng Vệ binh Quốc gia, bốc lên nhanh từ phía dưới vòng nhào lộn của nó, va chạm với chiếc Beech Bonanza của Redferns ở bên trái, cắt đứt cánh trái của chiếc máy bay tư bằng một tiếng rít xé của kim loại. Chiếc T-33 cũng bị hư hại nặng nề, tiếp tục đi lên trong một khoảng thời gian ngắn trong khi phần mũi của nó rơi lả tả. Chẳng biết chuyện gì đang xảy ra - hắn ta chỉ thoáng thấy chiếc máy bay kia - Trung úy Neel bật ghế phóng thoát ra khỏi chiếc T-33 và chờ chiếc dù của hắn ta mở. Ở xa phía dưới, chiếc Beechcraft Bonanza bị mất kiểm soát và quay điên cuồng với gia đình Redfern vẫn còn bên trong, đang lao thẳng xuống đất.
* * *
Hai tay của Keith run rẩy khi anh cố gọi lại. “Beech Bonanza NC-403, đây là Trung tâm Washington. Nghe rõ không?”
Bên cạnh Keith, đôi môi của George Wallace cứ mấp máy không ra tiếng. Mặt anh ta cắt không còn giọt máu.
Trong khi họ cứng đờ người và kinh hoàng, hai chấm sáng trên màn hình nhập lại làm một, đột ngột lóe lên, rồi tắt ngấm.
Perry Yount nhận ra có điều gì đó chẳng lành, quay sang nhóm của họ. “Cái gì vậy?”
Miệng Keith khô khốc. “Tôi nghĩ rằng chúng tôi có một vụ va chạm trên không”.
Sau đó một chuyện đã xảy ra: một âm thanh ác mộng mà những người đã nghe thấy nó ước rằng họ đừng bao giờ nghe, để rồi âm thanh ấy ăn sâu vào trí nhớ họ suốt đời.
* * *
Trên ghế phi công của chiếc Beech Bonanza xấu số đang quay cuồng rơi xuống, Irving Redfern - có lẽ là phản xạ vô tình, hay như một hành động tuyệt vọng cuối cùng - nhấn nút micro gọi đi của mình. Radio vẫn còn hoạt động.
* * *
Tại Trung tâm Washington, Keith đã chuyển sang nghe trên loa ngoài khi bắt đầu việc truyền tin khẩn cấp. Lúc đầu chỉ có những tiếng lạo xạo, sau đó ngay lập tức là một tiếng thét xuyên thấu, điên cuồng, ớn lạnh. Ở nơi khác trong phòng kiểm soát, bao nhiêu cái đầu đều quay lại. Các khuôn mặt gần như trắng nhợt. George Wallace nức nở như người điên. Các giám sát viên cao cấp từ các bộ phận khác đều vội vàng chạy đến.
Đột nhiên, vượt lên phía trên tiếng thét là một giọng nói rõ ràng duy nhất - kinh hoàng, tuyệt vọng, cầu khẩn. Lúc đầu, không thể nghe được rõ tất cả các lời. Chỉ sau đó, khi đoạn băng ghi âm cuối cùng được phát đi phát lại nhiều lần, người ta mới nghe rõ tất cả, giọng nói được xác định là của cô bé Valerie Redfern chín tuổi.
“... Mẹ ơi! Bố ơi!... Làm gì cứu con với! Con không muốn chết... Ôi Chúa lòng lành, con là người tốt... Con xin chúa! Con không muốn...”
May mà đoạn thông tin liên lạc ghi âm được đến đó là hết.
Chiếc Beech Bonanza vỡ tan và cháy gần ngôi làng Lisbon, bang Maryland. Những gì còn lại từ bốn thi thể không thể nhận ra và được chôn cất trong một ngôi mộ chung.
Trung úy Nil thì nhảy dù tiếp đất an toàn, cách nơi xảy ra tai nạn năm dặm.
* * *
Tất cả ba kiểm soát viên có liên quan đến thảm kịch - George Wallace, Keith Bakersfeld, Perry Yount - ngay lập tức bị đình chỉ nhiệm vụ, chờ điều tra.
Sau đó, kiểm soát viên thực tập George Wallace, không bị kết tội vì lý do kỹ thuật, anh ta không phải là kiểm soát viên chính thức khi tai nạn xảy ra. Tuy nhiên, anh ta bị sa thải khỏi các ngành phục vụ của chính phủ và vĩnh viễn bị cấm làm việc trong nghề kiểm soát không lưu.
Giám sát viên da đen trẻ tuổi Perry Yount chịu trách nhiệm hoàn toàn. Ủy ban điều tra - sau nhiều ngày nhiều tuần để nghe lại băng, kiểm tra các bằng chứng và xem xét các quyết định mà chính Yount phải đưa ra trong vài giây, dưới áp lực - cho rằng anh ta nên dành ít thời gian hơn cho trường hợp khẩn cấp của chiếc Northwest Orient 727 và hơn thế nữa, dành nhiều thời gian hơn để giám sát George Wallace trong thời gian Keith Bakersfeld vắng mặt. Việc Perry Yount nhận làm gấp đôi công việc, mà thực ra anh ta hoàn toàn có quyền từ chối - đã bị phán quyết không liên quan. Yount chính thức bị khiển trách, và bị giáng chức.
Keith Bakersfeld hoàn toàn được miễn tội. Ủy ban điều tra hết sức cố gắng chỉ ra rằng Keith đã yêu cầu được đi ra ngoài một lúc, rằng yêu cầu của anh là chính đáng, và anh đã tuân theo các quy định trong việc ký vào sổ trực khi đi ra ngoài cũng như khi quay trở lại phòng làm việc. Anh đã phát hiện ra ngay nguy cơ xảy ra tai nạn và cố gắng ngăn chặn nó. Vì suy nghĩ và nỗ lực hành động nhanh chóng - mặc dù không thành công - anh đã được Ủy ban khen ngợi.
Câu hỏi về sự vắng mặt của Keith trong phòng kiểm soát ban đầu không xuất hiện. Gần cuối cuộc điều tra - nhận thức được cách mọi thứ đang diễn ra đối với Perry Yount - Keith đã tự nêu vấn để đó ra, nhận lỗi về phía rnình và chấp nhận chia sẻ trách nhiệm. Nỗ lực của anh được đối xử một cách lịch sự, nhưng rõ ràng Ủy ban điều tra coi đó là một cử chỉ cao thượng - và không còn gì nữa. Khi biết lời khai của Keith định lái vấn để đến chỗ nào, người ta còn không để anh nói hết. Sự nỗ lực can thiệp của anh đã không được đề cập trong báo cáo kết luận của Ủy ban điều tra.
Một cuộc điều tra độc lập của Lực lượng vệ binh quốc gia đã đưa ra bằng chứng cho thấy trung úy Hank Neel đã sơ suất vi phạm lệnh chỉ được bay trong phạm vi căn cử không quân Middletown và cho phép chiếc T-33 của hắn ta trôi dạt gần đường hàng không V44. Tuy nhiên, vì vị trí thực tế của hắn ta không thể được chứng minh một cách thuyết phục, nên không buộc tội hắn ta được. Trung úy vẫn tiếp tục buôn bán ô tô và cuối tuần vẫn bay.
Khi biết quyết định của ủy ban điều tra, giám sát viên Perry Yount đã bị suy sụp thần kinh. Anh phải nhập viện và được chăm sóc tâm thần. Anh ta dường như phục hồi thì nhận được thư, từ một địa chỉ nặc danh, một bản tin của một nhóm cánh hữu ở California phản đối - trong số nhiều thứ khác - quyền công dân của người da đen. Bản tin này đã cố tình xuyên tạc sự thật về vụ tai nạn Redfern. Nó miêu tả Perry Yount là một kẻ bất tài, vụng về, thờ ơ với trách nhiệm của mình và không quan tâm đến cái chết của gia đình Redfern. Toàn bộ vụ tai nạn, bản tin lập luận, là lời cảnh báo cho những “người tự do tim khô máu”, đã giúp bọn da đen giữ những chức vụ quan trọng hoàn toàn không phù hợp với khả năng trí óc của chúng. Một cuộc “dọn nhà” đã được phát động nhằm loại bỏ người da đen làm việc trong ngành kiểm soát không lưu, trước khi điều tương tự xảy ra một lần nữa.
Vào lúc khác, một người đàn ông thông minh như Perry Yount sẽ bỏ qua bản tin, đó là một sự điên rồ kinh tởm. Nhưng vì tình trạng của anh ta chưa bình phục, anh ta bị tái phát sau khi đọc nó, và có thể vẫn phải điều trị vô thời hạn nếu hội đồng xét duyệt của chính phủ không từ chối thanh toán viện phí cho anh ta, lấy cớ rằng bệnh của anh không phải do chấn thương thần kinh trong khi thi hành công vụ. Yount được xuất viện nhưng không trở lại nghề kiểm soát không lưu nữa. Khi Keith Bakersfeld nghe thấy lần cuối về anh ta, anh ta đang làm việc trong một quán bar bên bờ sông ở Baltimore và uống rượu khủng khiếp.
George Wallace thì biến mất tăm. Có tin đồn rằng cựu kiểm soát viên thực tập đã tái nhập ngũ vào Bộ binh Quân đội Hoa Kỳ, chứ không phải Không quân - và hiện đang gặp rắc rối nghiêm trọng với Quân cảnh. Theo những câu chuyện đó, Wallace thường hay gây sự và đánh nhau liên tục, nhưng bao giờ cũng tìm cách để người khác đánh anh ta trước. Tuy nhiên những lời đồn ấy cũng chưa có gì là bằng chứng.
Đối với Keith Bakersfeld, dường như trong một thời gian cuộc sống của anh sẽ tiếp tục như bình thường. Khi cuộc điều tra kết thúc, công việc của anh được phục hồi; trình độ của anh và đánh giá chuyên môn của chính phủ vẫn không thay đổi. Anh trở lại làm việc tại Leesburg. Các đồng nghiệp, nhận thức được bi kịch xảy ra với anh rất dễ xảy ra với bất kỳ ai trong số họ, nên rất thân thiện và thông cảm. Và thời gian đầu mọi chuyện đều tốt đẹp.
Sau lần cố lưu ý ủy ban điều tra tới sự kiện là trong cái ngày định mệnh ấy, anh đã luẩn quẩn trong phòng vệ sinh quá lâu, Keith không tâm sự với ai về chuyện ẩy nữa - kể cả Natalie. Tuy nhiên, ký ức bí mật đó chẳng bao giờ rời khỏi tâm trí anh.
Ở nhà, Natalie luôn thấu hiểu và yêu anh như mọi khi. Cô cảm thấy Keith đã trải qua một chấn thương tỉnh thần mà anh sẽ cần thời gian để hồi phục, và cô đã cố gắng đáp ứng tâm trạng của anh - chuyện trò vui vẻ hoặc làm điều gì đó náo nhiệt khi anh cảm thấy thích như vậy, và im lặng khi anh không thích. Trong những lúc yên tĩnh, riêng tư với Brian và Theo, Natalie đã giải thích với các cậu bé, tại sao chúng cũng nên làm như thế, thể hiện sự quan tâm dành cho cha của chúng.
Theo một cách nào đó, Keith hiểu và biết ơn những gì Natalie đang cố gắng làm. Phương pháp của cô cuối cùng có thể đã thành công, ngoại trừ một điều - kiểm soát viên không lưu rất cần giấc ngủ. Nhưng Keith ngủ rất ít và có khi anh thức trắng cả đêm.
Vào những lúc anh ngủ được, anh lại rơi vào một cơn ác mộng dai dẳng, cứ lập đi lập lại, anh nằm mơ thấy cảnh trong phòng kiểm soát Trung tâm Washington, những khoảnh khắc trước khi va chạm giữa không trung... những điểm sáng trên màn hình radar... tin nhắn tuyệt vọng cuối cùng của anh... những tiếng la hét; giọng nói của Valerie Redfern...
Đôi khi giấc mơ đó hơi thay đổi. Khi Keith cố gắng di chuyển về phía màn hình radar để thu giữ tai nghe radio của George Wallace và đưa ra cảnh báo, tay chân của Keith cứ cứng đờ, tất cả mọi cử động của anh đều chậm chạp, tựa hồ không khí xung quanh trở thành bùn đặc. Tâm trí anh cảnh báo điên cuồng, giá như anh có thể di chuyển tự do, bi kịch có thể bị đảo ngược... Lần khác, anh lấy được tai nghe, nhưng giọng của anh không nói thành lời. Anh biết rằng nếu anh ta có thể nói được, một cảnh báo là đủ cứu được tình huống. Tâm trí anh chạy đua, phổi và thanh quản căng thẳng, nhưng không có âm thanh nào phát ra... Mặc dù cơ thể anh căng thẳng và cố sức đến mấy, anh vẫn luôn không kịp cứu được mục tiêu của mình.
Dù thế nào đi nữa, giấc mơ luôn kết thúc theo cùng một cách - những lời cuối cùng của chiếc Beech Bonanza phát qua radio khi anh nghe nó rất nhiều lần trong suốt cuộc điều tra, trên băng ghi âm phát lại. Và sau đó, với Natalie ngủ bên cạnh, anh sẽ tỉnh táo, suy nghĩ, ghi nhớ, ước sao có phép gì đó có thể thay đổi lại mọi chuyện đã qua. Dần dần anh sợ, không dám ngủ nữa, xua đuổi những cơn buồn ngủ, để không phải chịu đựng sự tra tấn của giấc mơ một lần nữa.
Đó là lúc cô đơn trong đêm, lương tâm sẽ nhắc nhở anh về những phút bị đánh cắp, lãng phí trong phòng vệ sinh của trung tâm KSKL; những phút quan trọng khi anh có thể và đáng lẽ phải trở lại nhiệm vụ, thay vì chìm đắm vào những suy tư cá nhân. Keith biết - điều những người khác không biết - rằng trách nhiệm thực sự đối với bi kịch Redfern là của riêng anh, không phải của Perry Yount. Perry đã là một sự hy sinh vô tình, nạn nhân của một loạt những tình huống bất ngờ. Perry đã từng là bạn của Keith, vào ngày hôm đó đã tin tưởng Keith có lương tâm sẽ quay trở lại phòng kiểm soát nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, Keith, mặc dù biết bạn mình đang chịu trách nhiệm gấp đôi, nhận thức được những áp lực tăng thêm phải làm việc thay cho hai người, đã ở lại phòng vệ sinh gấp đôi thời gian cần thiết, và do đó đã phụ lòng tin của Perry. Vì vậy, cuối cùng, Perry Yount đã bị buộc tội và bị kết án tại vị trí của Keith, phải chịu tội thay cho Keith.
Perry thay cho Keith thành con dê tế thần.
Mặc dù sai lầm nghiêm trọng, nhưng Perry vẫn còn sống. Còn gia đình Redfern đã chết. Chết vì Keith để đầu óc mơ màng, đắm mình dưới ánh nắng mặt trời, để lại một thực tập viên bán kinh nghiệm gánh vác trách nhiệm quá lâu, mà chính ra là trách nhiệm của anh, của Keith có trình độ cao hơn. Nếu anh trở lại sớm hơn, anh đã phát hiện ra chiếc T-33 xâm nhập từ lâu trước khi nó đến gần máy bay của gia đình Redfern. Bằng chứng là anh đã phát hiện ra nó ngay khi quay trở lại, nhưng quá muộn không thể cứu được mọi chuyện.
Cứ thế... hết lần này đến lần khác trong đêm... như thể bị buộc vào một guồng quay... Tâm trí của Keith cứ lao vào tự hành hạ bản thân, đau lòng, tự trách. Cuối cùng anh ngủ vì kiệt sức, rồi cơn ác mộng lại xuất hiện, và tỉnh táo trở lại.
Ngày cũng như đêm, ký ức về gia đình Redfern không lúc nào rời bỏ anh. Irving Redfern, vợ, con của ông ấy cứ ám ảnh Keith mặc dù anh chưa bao giờ biết đến họ. Sự hiện diện của những đứa con của Keith, Brian và Theo - còn sống và khỏe mạnh - dường như là lời trách móc thường xuyên với anh. Anh cảm thấy hình như anh có lỗi cả trong việc anh đang sống và hít thở.
Hậu quả của những đêm mất ngủ, rối loạn tinh thần, thể hiện nhanh chóng trong công việc của anh. Phản xạ của anh chậm chạp, phân vân do dự trước khi quyết định điều gì. Một vài lần, do bị áp lực quá, Keith đã “mất hình ảnh” và phải nhờ đồng nghiệp giúp đỡ. Sau đó anh nhận ra mình đang bị giám sát chặt chẽ. Kinh nghiệm khiến cấp trên của anh biết rằng chuyện gì có thể xảy ra và tình trạng quá suy nhược có thể dẫn đến hậu quả như thế nào.
Sau đó là các cuộc nói chuyện thân thiện, thân mật trong các văn phòng cấp trên, nhưng không đạt được gì. Thấy vậy, theo đề nghị từ Washington, và với sự đồng ý của Keith, anh đã được chuyển từ Bờ biển phía Đông đến miền Trung Tây - đến sân bay Quốc tế Lincoln làm việc ở tháp KSKL. Một sự thay đổi vùng miền, được tin rằng sẽ có tác dụng tốt với anh. Chính thức mà nói, khi đưa ra để nghị nhân đạo ấy, người ta cũng nhận thức được rằng anh trai của Keith, Mel, là tổng giám đốc tại sân bay Lincoln; có lẽ nhờ ảnh hưởng của Mel Bakersfeld, Keith cũng sẽ ổn định. Natalie, mặc dù yêu Maryland, đã chấp nhận chuyển đến nơi mới mà không kêu ca một lời.
Nhưng không biện pháp nào mang lại kết quả gì.
Cảm giác tội lỗi của Keith vẫn tồn tại; những cơn ác mộng cũng phát triển và thay đổi hình thức đôi chút, mặc dù vẫn luôn là những cơn ác mộng cũ. Anh chỉ ngủ được với sự trợ giúp của thuốc ngủ theo chỉ định của một bác sĩ, bạn của Mel.
Mel hiểu một phần vấn đề của em trai mình, nhưng không phải tất cả; Keith vẫn giữ bí mật ký ức trong phòng vệ sinh ở Leesburg cho riêng mình. Ít lâu sau, nhận thấy tình trạng của em trai ngày càng xấu đi, Mel cố thuyết phục Keith đi chữa bệnh tâm thần hay tìm sự giúp đỡ tâm hồn, nhưng Keith đã từ chối. Anh suy nghĩ rất đơn giản. Tại sao anh phải tìm kiếm một thứ thuốc vạn năng hay một phép màu theo một tín điều nào đó để giải thoát cảm giác tội lỗi của mình, khi cảm giác tội lỗi là có thật, khi không có gì trên trời hay dưới đất hay biện pháp tâm thần lâm sàng nào có thể thay đổi nó?
Sự tuyệt vọng của Keith ngày càng sâu sắc cho đến khi bản chất kiên cường của Natalie cuối cùng cũng không chịu đựng nổi nữa. Mặc dù biết rằng anh ngủ rất ít, Natalie hoàn toàn không biết gì về những cơn ác mộng của chồng. Một ngày nọ, cô đã hỏi trong sự tức giận và thiếu kiên nhẫn, “Có phải chúng ta nên mặc bộ áo khổ hạnh này cho đến hết đời hay sao? Có phải chúng ta không bao giờ được phép vui vẻ, cười đùa nữa hay sao? Nếu anh cứ tiếp tục sống như thế, anh nên hiểu một điều - em không thể sống như thế, em cũng không để Brian và Theo lớn lên trong không khí khốn khổ này”.
Khi Keith không trả lời, Natalie tiếp tục, “Trước đây em đã nói với anh rằng cuộc sống của chúng ta, cuộc hôn nhân của chúng ta, những đứa trẻ, là quan trọng hơn công việc của anh. Nếu anh không thể đảm nhận công việc đó nữa thì tại sao cứ phải tự hành hạ mình như thế? Tại sao không từ bỏ nó ngay bây giờ, tìm một công việc gì đó khác? Em biết những gì anh luôn nói với em: tiền sẽ ít hơn; lương hưu không còn. Nhưng đó không phải là tất cả; chúng ta sẽ xoay xở bằng cách nào đó. Em sẽ chịu đựng được tất cả những khó khăn vất vả mà thu nhập thấp có thể mang lại, Keith Bakersfeld, và có lẽ em sẽ phàn nàn một chút, nhưng sẽ không nhiều, bởi vì mọi thứ sẽ tốt hơn so với cách chúng ta sống bây giờ”. Cô đã gần như sắp khóc. “Em đang cảnh báo anh rằng em sẽ không để mất nhiều hơn nữa. Nếu anh cứ tiếp tục như vậy, anh phải ở một mình”.
Đó là lần duy nhất Natalie nói bóng gió về khả năng hôn nhân của họ có thể tan vỡ. Đó cũng là lần đầu tiên Keith nghĩ tới chuyện tự sát.
Ý nghĩ đó càng ngày càng ăn sâu hơn và cuối cùng trở thành quyết định dứt khoát.
* * *
Cánh cửa phòng thay đồ mờ tối bật mở. Công tắc đèn bật lên. Một lần nữa Keith trở lại tháp điều khiển tại sân bay Lincoln, chớp mắt trong ánh sáng chói lòa trên cao.
Một kiểm soát viên khác, trong phút nghỉ giải lao của mình, đang bước vào. Keith cất chiếc bánh sandwich chưa được đụng tới, đóng tủ khóa và quay trở lại phòng radar. Người kia liếc nhìn anh tò mò. Cả hai không nói một lời.
Keith tự hỏi liệu tình huống khẩn cấp của chiếc máy bay quân sự KC-135 bị hỏng radio, đã giải quyết được chưa. Có thể nó đã được giải quyết xong; máy bay và phi hành đoàn của nó đã hạ cánh an toàn. Anh hy vọng như vậy. Anh mong rằng tối hôm nay có người nào đó gặp được chuyện gì tốt lành.
Trong lúc trở lại phòng radar, anh sờ chiếc chìa khóa buồng khách sạn trong túi quần để một lần nữa tin chắc nó vẫn còn đấy. Chiếc chìa khóa này anh sắp cần đến.