The smallest bookstore still contains more ideas of worth than have been presented in the entire history of television.

Andrew Ross

 
 
 
 
 
Tác giả: Alain Wasmes
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Chiến Tranh Được Chế Ngự
rên thực tế, cuộc chiến tranh của Mỹ sẽ đẩy nhanh và xác nhận những lựa chọn của những người cách mạng Việt Nam mà phương hướng chủ yếu của những lựa chọn ấy đã được vạch ra từ Đại hội III của Đảng Lao động, tức Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó cũng sẽ kết thúc cuộc tranh luận về vai trò then chốt của khoa học và kỹ thuật, bởi từ những bom bi, đến bom từ trường được điều khiển bằng lade, từ những máy tính ở Tân Sơn Nhất đến những bộ tiền của Rand Corporation, Hoa Kỳ sẽ sử dụng toàn bộ sức mạnh về công nghệ và khoa học của họ vào chiến tranh ở Việt Nam. Để đương đầu với cuộc chiến tranh ấy, người Việt Nam cần phải khắc phục một cách nhanh nhất và tốt nhất những nhược điểm và hạn chế của một đất nước đương còn lạc hậu về trình độ khoa học kỹ thuật. Những lựa chọn của họ mang một tính chất cấp bách: họ phải chế ngự được cuộc chiến tranh mà Mỹ áp đặt cho họ để không bị đè bẹp. Bởi chỉ bằng ngọn tầm vông và chiến tranh du kích không thôi, họ sẽ không thể nào đánh bại được chiến tranh hiện đại...
Những điều người Việt Nam lựa chọn không phải là tuỳ tiện, chủ quan hay vô căn cứ: nó phản ánh những nhu cầu cần thiết.
Từ Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960, việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc được gắn liền với nhu cầu quốc phòng và công cuộc giải phóng miền Nam. Văn kiện Đại hội III chỉ rõ: “Bắc Việt Nam là căn cứ cách mạng của cả nước. Tăng cường và củng cố miền Bắc chẳng những nâng cao tư tưởng và hăng hái của đồng bào miền Nam, mà còn giúp cho các lực lượng cách mạng tiến lên phía trước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng miền Nam và để giành thắng lợi cuối cùng”.
Theo đường lối ấy, một chiến lược kinh tế thực sự sẽ được xác định để đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc, cũng như để tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Được áp dụng từ năm 1965, chiến lược kinh tế này được thủ tướng Phạm Văn Đồng xác định như sau: “1. Huy động tối đa toàn bộ các lực lượng của đất nước để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. 2. Duy trì và phát triển sản xuất phù hợp với điều kiện thời chiến để đáp ứng những nhu cầu trước mắt và đồng thời để chuẩn bị cho tương lai. 3. Thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân về ăn, mặc, ở và phương tiện đi lại, bảo đảm cho nhân dân được học hành và chăm sóc sức khoẻ.”
Mỹ lao vào đánh phá Bắc Việt Nam. Nhưng không quân Mỹ đã tỏ ra kém hiệu lực khi được dùng để đánh vào một đất nước chậm phát triển mà nông nghiệp là chủ yếu. Nhận ra nhược điểm ấy và để bù lại nó, Mỹ quay ra đánh vào dân thường bằng đủ loại vũ khí sát thương cá nhân, như bom bi bom phóng mũi tên v.v... Song hành động dã man ấy của Mỹ đã bị dư luận thế giới cực lực phản đối và ít nhiều nó đã bị hạn chế.
Là nền tảng của xây dựng kinh tế, nông nghiệp cũng trở thành nền tảng tự nhiên của kháng chiến. Cho nên nhiệm vụ kinh tế hàng đầu của nhân dân miền Bắc là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Đồng thời với nó là bảo đảm giao thông và phân tán các cơ sở công nghiệp. Bởi đó là những khu vực dễ bị tổn thương nhất do chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Chiến tranh sẽ gây ra cho thị trường chung toàn miền cũng như giao thông những rối loạn không thể tránh khỏi. Để bù đắp và khắc phục tình trạng đó, kinh tế địa phương cần phải được phát triển. Nền kinh tế này sẽ được xây dựng thành những cơ cấu độc lập về chiến đấu và sản xuất, bảo đảm cho các địa phương có khả năng tự túc những nhu cầu của bản thân mình trong một thời gian dài. Trong trường hợp xảy ra cuộc chiến tranh trên bộ, nếu Mỹ liều lĩnh gây ra thì các địa phương được quy hoạch trên cơ sở từ 1 đến 1,5 triệu dân sẽ trở thành những “pháo đài” vừa có thể độc lập chiến đấu, lại vừa có thể phối hợp với nhau cùng chiến đấu. Tất nhiên đó là một sơ đồ tổ chức lý tưởng. Nó dựa vào sức mình là chính. Nhưng nó cũng cần phải có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa...
Trong chiến tranh, nông nghiệp chẳng những phải làm ra đủ lương thực để cung cấp cho nhân dân và quân đội, mà nó còn phải dành ra một lực lượng quan trọng về nhân lực để bổ sung cho quân đội. Cho nên để đẩy mạnh sản xuất, nông nghiệp cần phải được nhanh chóng cải tiến về kỹ thuật và phương tiện sản xuất, đặc biệt là về thuỷ lợi và sử dụng đất và người một cách hợp lý.
Từ 1965, nông thôn miền Bắc thay hình đổi dạng. Những mảnh ruộng manh mún nay nhường chỗ cho những thửa ruộng rộng lớn được quy hoạch một cách hợp lý để tiện sử dụng nước. Việc đào đắp hơn 100 triệu mét khối đất chỉ có thể làm được bằng cách xây dựng những hợp tác xã bậc cao với trung bình khoảng trăm hecta đất. Số hộ nông dân ra nhập hợp tác ở nông thôn miền Bắc đã lên tới 95,7%.
Dựa trên công nghiệp địa phương, việc nửa cơ khí hoá trong nông nghiệp cũng phát triển. Nhiều máy móc nhỏ: máy xay xát, máy nghiền thức ăn gia súc, máy bơm nước... được đưa vào sử dụng. Từ 1965 đến 1972, số các hợp tác xã có trạm cơ khí nhỏ đã tăng lên từ 2,5% đến 52,3%. Máy cày cũng xuất hiện ngày một nhiều: nếu năm 1965, 2.750 hecta đất mới có một máy kéo 15 mã lực thì năm 1972, 390 hecta đất đã có một máy kéo.
Bên cạnh những cơ sở ban đầu của cuộc cách mạng kỹ thuật, nông thôn miền Bắc lại có thêm cuộc “cách mạng xanh”: từ 1966, các nhà nông học miền Bắc đã cung cấp cho nông dân một loại lúa mới - lúa xuân - vừa ngắn hạn vừa có năng suất cao, nhờ đó đã làm cho sản lượng thóc tăng lên một cách đáng kể. Máy bay Mỹ đã phá huỷ tất cả các nhà máy sản xuất phân bón hoá học. Đi đôi với việc phải nhập phân bón từ nước ngoài, nhà nước khuyến khích nông dân đẩy mạnh phong trào làm phân xanh. Kết hợp với cách mạng kỹ thuật, cách mạng xanh, các hợp tác xã cũng chú ý xây dựng một nền nếp làm việc dân chủ, chống thói quan liêu độc đoán của cán bộ cũng như những tư tưởng bảo thủ lạc hậu trong cán bộ và nông dân, đồng thời đẩy mạnh việc nâng cao trình độ văn hoá. Năm 1966, 17.000 nam nữ thanh niên xã viên đã được đào tạo qua một lớp sơ cấp về nông học; năm 1968, số trạm nghiên cứu nông học cũng tăng được 49,9% so với năm 1964.
Nhìn chung trong hoàn cảnh chiến tranh, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã có nhiều cố gắng để hiện đại hoá nền nông nghiệp của mình và trên cơ sở đó củng cố các quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, việc hiện đại hoá ấy cũng chỉ đạt tới một mức độ nhất định do thiếu sự hỗ trợ của công nghiệp bị chiến tranh tàn phá.
Nguyên lý coi công nghiệp hoá là “nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” vẫn có giá trị trong thời chiến, nhưng nó cần phải được vận dụng một cách phù hợp với tình huống thực tế. Điều cốt yếu là phải bảo vệ được các cơ sở công nghiệp và duy trì được sản xuất. Nguyên tắc đề ra là phải tăng cường các biện pháp bảo vệ và sơ tán những gì có thể sơ tán, đồng thời vẫn duy trì được khả năng sản xuất. Nhờ vậy mà như mỏ Hòn Gai chẳng hạn, trung tâm mỏ lớn nhất miền Bắc, 90% thiết bị kỹ thuật của nó vẫn được bảo vệ an toàn khỏi bom đạn và ngay sau ngày ký Hiệp định Paris, cán bộ công nhân ở đấy đã lập tức bắt tay vào sản xuất. Trong các ngành công nghiệp khác, người ta có thể ước tính 50-70% trang thiết bị được cứu thoát. Chỉ riêng ngành giao thông vận tải là bị thiệt hại nặng, ít nhất cũng phải 50% máy móc và phương tiện của nó bị phá huỷ.
Trong toàn bộ thời gian Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại, chính cơ cấu công nghiệp địa phương1 là cơ cấu đóng vai trò chủ yếu trong công nghiệp. Nó kết hợp giữa một số cơ sở công nghiệp trung ương cỡ vừa với công nghiệp nhỏ và thủ công nghiệp ở địa phương, những cơ sở chỉ đòi hỏi một trình độ kỹ thuật thấp hoặc bình thường... Tuy nhiên phần đóng góp của nó vào các mặt hàng tiêu dùng lại khá quan trọng, ví dụ như nó đã bảo đảm 45% nhu cầu về vải cho nhân dân. Sức nặng đáng kể của nó đối với nền kinh tế chung cũng là một điều dễ hiểu, bởi nó phản ánh sự lạc hậu của một đất nước chậm phát triển bị kìm hãm bởi chế độ thực dân trước đây. Song lúc này, nó lại đương trở thành một chỗ dựa về kinh tế để đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ: dưới bom đạn của máy bay, nó có khả năng hoạt động linh hoạt hơn và tỏ ra ít bị tổn thương hơn so với những khu công nghiệp tập trung lớn. Hơn nữa trong điều kiện nông nghiệp miền Bắc còn ở trình độ kỹ thuật thấp thì công nghiệp địa phương là chỗ dựa tốt nhất để cải tiến nó, đồng thời còn là sợi dây liên hệ cụ thể nhất và trực tiếp nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp: việc sửa chữa, cải tiến và sản xuất các công cụ nông nghiệp đơn giản là nằm trong tầm tay của nó. Công nghiệp địa phương sẽ bù một phần lớn cho những thiệt hại của công nghiệp nặng do bị chiến tranh gây ra: nếu chỉ số của công nghiệp nặng lại trở về chỉ số của năm 1960 thì ngược lại, chỉ số của công nghiệp nhẹ lại tăng từ 100 năm 1964 lên 134 năm 1974.
Một vài con số khác chứng tỏ sự đóng góp của công nghiệp địa phương trong chiến tranh: nó sản xuất ra 56% công cụ lao động, nguyên liệu và bảo đảm 65% nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Cuối năm 1968, khoảng hai trăm xưởng cơ khí với 22.000 công nhân được lập ra ở nhiều tỉnh, huyện, cung cấp cho địa phương và đóng góp với Trung ương máy công cụ, máy phát điện, máy bơm nước, máy cày đẩy tay... trong khi một mạng lưới các xưởng, trạm khác được trang bị máy móc đơn giản hơn cũng được bố trí rộng rãi ở nông thôn, tạo thành một mối liên hệ mật thiết với nông nghiệp địa phương: chẳng những nó sửa chữa, cung cấp công cụ lao động, mà nó còn trực tiếp góp phần thúc đẩy sản xuất của địa phương. Chỉ cần nêu một ví dụ đơn giản cũng đủ thấy rõ tác dụng của nó đối với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp: một máy bơm bơm được 273 mét khối nước trong một giờ, trong khi muốn làm được ngần ấy công việc trong ngần ấy thời gian thì người ta phải bổ sung tới 80 người tát nước bằng tay. Cũng trong khuôn khổ của công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp cũng được chú ý phát triển mạnh mẽ và riêng nó đã đóng góp 65% công cụ lao động đơn giản và vật liệu xây dựng cho nông nghiệp.
Công nghiệp nặng khu vực bị thiệt hại nặng nề nhất trong chiến tranh. Cuối năm 1972, theo ước tính, tiềm lực của nó đã bị phá huỷ từ 60 đến 70%. Tổng bí thư Lê Duẩn đánh giá một cách tổng quát là nền kinh tế của miền Bắc đã bị chậm lại mười năm do chiến tranh. Ví dụ như ở nhà máy gang thép Thái Nguyên: người ta dự kiến năm 1965 sẽ cho ra lò mẻ thép đầu tiên, thế mà phải mười năm sau, tức năm 1975, mẻ thép đầu tiên của nhà máy mới được ra lò...
Được xây dựng với sự giúp đỡ của Trung Quốc trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960-1965, khu liên hợp gang thép Thái Nguyên tiêu biểu cho quyết tâm tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Là một nhà máy thuộc quy mô trung bình, với dự kiến lúc ban đầu mỗi năm sẽ sản xuất được 120.000 tấn thép, khu liên hợp gang thép Thái Nguyên là kinh nghiệm duy nhất về xây dựng công nghiệp nặng của miền Bắc lúc đó: nó là nơi tập trung công nhân đông nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, với 8.000 công nhân của nhà máy và 14.000 công nhân làm việc ở các mỏ phụ thuộc vào nó. Trên thực tế, dự án lúc ban đầu của nhà máy đã không được hoàn thành đến chót. Đang xây dựng gần xong, khi lò cao cuối cùng của ba lò cao vừa bước vào hoạt động thì chiến tranh nổ ra ở miền Bắc. Năm 1967, chính phủ lệnh đình chỉ xây dựng và lần đầu tiên 10.000 tấn máy móc thiết bị của nhà máy được sơ tán. Bị đánh phá nặng trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nhà máy được khôi phục lại một phần vào năm 1969. Nhưng đến năm 1972, nó lại trở thành mục tiêu đánh phá trở lại của máy bay Mỹ... Sau Hiệp định Paris được ký kết, khi có dịp trở lại khu liên hiệp gang thép, vừa bước đi vừa rút chân khỏi những đám bùn lầy nhão nhoét và chỉ thấy xung quanh mình những khu nhà xưởng đổ nát, đứng im lìm bất động, và ở khoảng giữa hai lò cao bị bom đánh vỡ, trước là mấy con bò đang vục đầu vào cố bứt lấy mấy nhánh cỏ cằn cỗi...
Chú thích
1. Năm 1964, sản lượng công nghiệp địa phương chiếm 48% trong tổng sản lượng công nghiệp quốc dân.
Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam - Alain Wasmes Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam