Nguyên tác: Lost Victory
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Chương 3: Mỗi Nước Một Câu Trả Lời Khác Nhau
T
ham vọng của Đảng cộng sản Đông Dương ở Hà Nội không dừng lại ở Nam Việt Nam. Hai yếu tố đã thu hút sự chú ý của các nhà lãnh đạo Bắc Việt đối với nước Lào ở kề bên. Yếu tố thứ nhất là địa lý. Do vùng núi của Lào ở kề bên với thung lũng sông Hồng tới mức có thể trở thành một mối đe dọa đối với nó, nên các nhà lãnh đạo Bắc Việt muốn bảo đảm cho mình là sẽ khôngcó một sự nguy hiểm nào đến từ phía đó. Yếu tố thứ hai là lịch sử. Lào cũng như Việt Nam trước đây đều thuộc Pháp chịu ảnh hưởng của Pháp cả về văn hóa và thể chế. Cho rằng Lào và Việt Nam đều thuộc Đông Dương, cho nên với tham vọng thống trị Đông Dương, các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam cũng muốn thiết lập quyền lực của mình đối với Lào.
Vương quốc Lào chia rõ rệt thành hai phần. Một phần là nhân dân Lào sống ở phía Tây, dọc theo sông Mê Kông và ở phía chân núi. Còn phần kia là các bộ tộc sống trên vùng núi phía Đông, mà về mặt chủng tộc cũng như văn hóa, họ giống như những tộc người sống ở các vùng núi Tây Nam Trung Quốc, Miến Điện, Việt Nam và Thái Lan. Để thực hiện các mục tiêu của mình đối với nước Lào, Bắc Việt xây dựng một lực lượng để làm công cụ chính trị cho họ, đó là Pathet Lào. Các nhà lãnh đạo lực lượng này trên thực tế đều phụ thuộc vào sự giúp đỡ và chỉ đạo của Hà Nội.
Có hai trào lưu chính về chính trị đối đầu nhau ở Lào. Trào lưu thứ nhất, thực sự chống cộng, chủ yếu thuộc giới quân sự và các viên chức thuộc địa; những người này sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ của Thái Lan và Hoa Kỳ. Trào lưu thứ hai là những người có khuynh hướng trung lập và không liên kết. Giống như những người có cùng khuynh hướng này ở một số nước Châu Á như Ấn Độ, Indonesia, họ cố gắng để không bị dính líu vào những cuộc xung đột giữa các cường quốc, và mong muốn người ta hãy để cho họ được yên đi.
Cuối những năm 50 và đầu những năm 60, đối với vấn đề Lào, chính quyền Eisenhower thi hành chính sách giúp đỡ cho quân đội Lào và ủng hộ các thủ lĩnh quân sự quốc gia, những người muốn xây dựng một chính quyền ổn định.
Sau khi Kennedy được bầu làm tổng thống, vấn đề Lào đột nhiên được đưa lên hạng nhất. Trên màn truyền hình Mỹ, tổng thống mới xuất hiện đứng trước tấm bản đồ của đất nước xa xôi ấy và khẳng định cộng sản đã lan tràn tới mức nước Lào đang đứng trên bờ vực của sự sụp đổ. Muốn chứng tỏ quyết tâm của mình, Kennedy ra lệnh chuẩn bị lực lượng cả lục quân và không quân để gửi sang Thái Lan, nhằm có sẵn quân trong tay để can thiệp vào Lào nếu tình hình ở đấy xuống cấp. Tổng thống chẳng phải lo âu về vấn đề này, bởi Khrusov đinh ninh rằng Lào sẽ rụng vào tay ông ta như một “quả cà chua chín”, đã nhận lời đề nghị của Kennedy là thương lượng về sự trung lập của Lào.
Kennedy cử Averell Harriman đi thương lượng, với mục tiêu là đạt được trung lập ở Lào và bảo đảm các bộ máy kiểm soát quốc tế sẽ làm cho nền trung lập ấy được tôn trọng. Kennedy và Khrusov giải quyết số phận của Lào ở Vienne năm 1961. Những cuộc đàm phán do Harriman tiến hành đã dẫn đến Hiệp nghị mười bốn nước, trong đó có cả Bắc Việt Nam, ký kết tại Genève năm 1962, theo đó, mười bốn nước tham gia đã cam kết thừa nhận và tôn trọng một “nước Lào trung lập và độc lập”.
Một trong những điều kiện hiệp định Genève quy định là tất cả các nước phải rút hết khỏi Lào lực lượng “quân sự và bán quân sự” của mình. Chấp hành điều kiện ấy, máy bay Liên Xô đã biến mất khỏi bầu trời Lào. Mỹ cũng làm vậy và các thành viên của lực lượng đặc biệt đã rời khỏi Lào cùng với những cố vấn bán quân sự của C.I.A. Nhưng Bắc Việt thì ngược lại, họ đã để lại khoảng bảy nghìn quân, trong đó phần lớn ở Bắc Lào, nơi bộ máy kiểm soát quốc tế khó thanh tra đến. Họ báo với Uỷ ban kiểm soát là họ đã cho hồi hương “bốn mươi binh sĩ” có mặt ở Lào.
Với tư cách là người đàm phán chính của Mỹ ở Genève và phái viên của tổng thống Hoa Kỳ, Averell Harriman có nhiệm vụ phải làm cho hiệp định được thực hiện. Vì vậy khi tôi được giao phụ trách phân cục C.I.A Viễn Đông năm 1962, ông làm cho tôi hiểu rõ là Mỹ phải chấp hành nghiêm chỉnh hiệp định. Không phải Harriman không nghi ngờ Bắc Việt đã không tôn trọng cam kết, nhưng ông muốn rằng nếu có ai đó vi phạm hiệp định thì người đó không phải là Mỹ. Chấp hành mệnh lệnh của ông, các cố vấn bán quân sự của chúng tôi rời khỏi Lào và các máy bay “tư nhân” của hãng hàng không Mỹ (Air America) cũng thôi không thả dù tiếp tế vũ khí và phương tiện cho người Mông và các tộc khác mà chúng tôi đã có quan hệ từ những năm trước. Harriman chỉ miễn cưỡng cho chúng tôi để lại hai sĩ quan C.I.A. ở vùng núi để theo dõi tình hình và báo cáo cho chúng tôi biết những gì đã xảy ra. Nhưng kèm theo sự cho phép ấy, ông nghiêm cấm chúng tôi không được tiếp tế bất cứ thứ vũ khí hay phương tiện quân sự nào cho hai sĩ quan ấy. Mọi liên lạc bằng máy bay với họ đều phải xin phép trước và được ông đích thân cho phép.
Khả năng của C.I.A. trong thực hiện những chương trình bí mật đã trở thành chiếc chìa khóa của lập trường của Mỹ đối với Lào. Trong chừng mực mà những hoạt động ấy còn “chính thức” là bí mật, thì nó sẽ phải được tiến hành không một ai “chính thức” được biết, đặc biệt là Liên Xô. Vì thế Liên Xô có thể “chính thức” không biết là có những hoạt động ấy. Đó đúng là trường hợp trong mười năm ở Lào: Đại sứ quán Liên Xô vẫn có những quan hệ với đại sứ quán Mỹ trong khi họ biết rõ ràng Mỹ đang có những hoạt động bí mật ở Lào. Vì đã tôn trọng hiệp định bằng việc rút khỏi Lào và không chịu trách nhiệm gì đối với Bắc Việt (mà thực ra họ có rất ít ảnh hưởng) nên Liên Xô có thể hài lòng với hiệp định “giữ nguyên trạng” mà Khrusov và Kennedy đã ký kết. Thêm nữa, đối với Liên Xô, việc C.I.A là người chịu trách nhiệm về những hoạt động của Mỹ ở Lào có nghĩa là quân đội Mỹ, với các bộ tham mưu đồ sộ và các cơ cấu yểm trợ cồng kềnh của nó, đã không can thiệp vào Lào. C.I.A. ở Sài Gòn nhận chỉ thị trực tiếp của đại sứ Mỹ, và Harriman trông nom để người ta cử đến những nhân vật có cá tính mạnh như William Sullivan hay Mc Murtrie Godley, những người không sợ gì mà không nhấn mạnh đến quyền hành tuyệt đối của ông đại sứ cũng như dám chịu trách nhiệm về những nhiệm vụ nguy hiểm và đầy bất trắc, rủi ro.
Chúng tôi phái sang Lào những sĩ quan ưu tú nhất của C.I.A. và nhấn mạnh với họ rằng trách nhiệm của họ không chỉ là bán quân sự mà còn là cả chính trị nữa. C.I.A. đã phát hiện ra một đồng minh, một thủ lĩnh tự nhiên ở con người Vàng Pao, một người bộ tộc Mông. Là một viên đội cũ trong quân đội Pháp, Vàng Pao được đề bạt lên thiếu tá trong quân đội Hoàng gia Lào sau ngày độc lập. Làm việc với Vàng Pao ở chiến khu rừng núi, chúng tôi càng thấy rõ những phẩm chất của ông ấy: lòng dũng cảm, sự hiểu biết nhân dân của ông, khả năng tiến hành chiến tranh du kích chống lại quân Bắc Việt rất phù hợp với núi rừng miền Bắc. Chúng tôi và Vàng Pao thống nhất ông sẽ là người chỉ huy và điều hành chiến tranh, còn các cố vấn Mỹ sẽ giúp ông về mặt khí tài, vật chất, thông tin, vận tải đường không và huấn luyện bộ đội nhưng không có ý định làm thay ông ta.
Một trong những vấn đề tế nhị về chính trị mà chúng tôi phải giải quyết, đó là quan hệ giữa lực lượng Mông do C.I.A. hỗ trợ với chính phủ Lào mà lực lượng này phụ thuộc về mặt lý thuyết. Mới đầu Harriman ngờ về phía mình, C.I.A. định ủng hộ một thủ lĩnh quân sự có xu hướng quốc gia và không khoan nhượng, có nghĩa là muốn đứng độc lập và như vậy thì ý định ấy trái ngược với đường lối của ông là muốn chứng tỏ với người đứng đầu chính phủ Lào, hoàng thân Souvanna Phouma, về sự hợp tác thành thực của Hoa Kỳ đối với ý tưởng một nước Lào “độc lập và trung lập”. Cuối cùng chúng tôi cũng đã thuyết phục được Harriman tin rằng C.I.A. thực hiện đúng các chỉ thị của ông, trong khi Bắc Việt lại làm cho hoàng thân hiểu là họ không hề có ý định tôn trọng nền độc lập và trung lập của Lào. Souvanna Phouma cũng nhận thấy sự giúp đỡ của Mỹ đối với quân đội và chế độ của ông đã được thực hiện một cách kín đáo và êm ả (do C.I.A. thực hiện), không gây nguy hiểm gì cho lời tuyên bố trung lập của ông. Không những không cưỡng lại với sự can thiệp của Mỹ, ông còn đi tới chỗ vui mừng đón nhận sự can thiệp ấy.
Tuy nhiên huân chương nào cũng có mặt trái của nó. Người Mông sẽ phản ứng ra sao đối với một sự giúp đỡ trực tiếp của Mỹ? Họ sẽ nhìn thấy ở sự giúp đỡ ấy một biểu hiện là Mỹ thừa nhận việc đứng tách riêng ra của họ hay nói cách khác là thừa nhận quyền tự quyết của họ đối với vương quốc Lào, một vương quốc mà họ không ưa thích và coi nó như một kẻ bóc lột dân tộc họ từ bao đời nay? C.I.A. cố gắng lẩn tránh vấn đề đó để làm sao cho cuộc chiến đấu của người Mông được hòa nhập vào nỗ lực chung của quốc gia Lào. Sau vài lần can thiệp kín đáo của Mỹ, Vàng Pao được phong làm tướng của quân đội Hoàng gia. Trong một bầu không khí được tuyên truyền rầm rộ, đích thân vua Lào đến một làng Mông, nơi ông được đón tiếp một cách trọng thể. Chương trình phát thanh do C.I.A. tổ chức để có được sự giao lưu với nhau giữa các bộ tộc Lào, sống rất phân tán, được gọi là đài “Đoàn kết các bộ tộc Lào” để nêu bật tính chất quốc gia chứ không phải chủng tộc của cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù.
Ngoài tầm quan trọng địa - chính trị, các chương trình của C.I.A. ở Lào đã giúp cho việc chứng minh các kết luận của phái đoàn điều tra sau vụ Vịnh Con Lợn là sai lầm. C.I.A. đã tiến hành ở Lào một chương trình hành động bán quân sự quy mô lớn kéo dài tới mười năm và sử dụng từ ba đến bốn trăm nhân viên. Chấp hành những chỉ thị nghiêm ngặt cấm họ không được tham gia chiến đấu, các nhân viên C.I.A. chỉ bị tổn thất rất ít: họ mất không đến mười người mà phần lớn là do tai nạn rớt trực thăng.
Các chương trình của C.I.A. được thực hiện với đội bay riêng của họ Air America gồm máy bay thường và trực thăng vận tải, phục vụ rất tốt cho từ việc tiếp tế lương thực đến việc thả các quan sát viên xuống rừng núi để theo dõi đường mòn Hồ Chí Minh. Chúng tôi cũng đào tạo cả các người lái Mông làm nhiệm vụ thám thính trên vùng đất của họ để chuẩn bị cho các cuộc oanh tạc của không quân Mỹ chống lại kẻ thù chung.
Điều có ý nghĩa nhất là không thấy kẻ thù động tĩnh gì hết. Trong vòng mười năm, vị trí của các chiến binh Lào hầu như được giữ nguyên, trong khi quân Bắc Việt đổ vào đây đã phải tăng từ bảy nghìn lên tới bảy mươi nghìn người (vậy là số quân này đã bị giam chân ở Lào không thể vào Nam chiến đấu). Ở Lào sự trái ngược với các trận chiến đấu ở Việt Nam thật rất ấn tượng. Lực lượng Mông đánh du kích: họ tiến hành phục kích, tập kích quân đội Bắc Việt. Khác với các trận chiến đấu ở Nam Việt Nam, vai trò của hai bên ở đây đã đảo ngược.
Nhưng cuối cùng, do ưu thế về lực lượng, quân đội chính quy Bắc Việt đã thắng thế. Tuy lực lượng Mông có được người Thái giúp đỡ nhưng bất lợi đã nghiêng về phía họ khi sự chi viện của Mỹ bị giảm đi. Quân đội Hoàng gia Lào không trực tiếp tham gia cuộc chiến, họ chỉ giữ nguyên vị trí ở lưu vực sông Mê Kông mà ở đấy, một số tướng (trừ Vàng Pao cùng các sĩ quan của ông, cũng như C.I.A. hay Air Ameriea) để lợi dụng tình thế để buôn thuốc phiện hơn là chiến đấu. Nhưng thành công của những nỗ lực của C.I.A. đã xuất hiện rõ ràng khi cuối cùng Bắc Việt đã phải chấp nhận một hiệp định thứ hai năm 1973 công nhận nền độc lập và trung lập của Lào và quy định về việc rút các lực lượng quân sự và bán quân sự nước ngoài khỏi Lào. Lại một lần nữa như năm 1962, Hoa Kỳ (và C.I.A.) đã chấp hành nghiêm chỉnh hiệp định, còn Bắc Việt thì ngược lại họ chỉ rút một trong số ba sư đoàn của họ có mặt ở đấy. Họ tiếp tục gây sức ép với Lào trong khi Hoa Kỳ (và cả C.I.A.) chẳng có một phản ứng nào hết. Giờ đây, Lào là một nước cộng sản theo Hà Nội, còn những người trước đây là bạn của C.I.A. thì hoặc chết hoặc bị đàn áp hay phải đi lưu vong.
Nước Thái Lan láng giềng cũng là một miếng mồi hấp dẫn đối với cộng sản. Từ cuộc kháng chiến chống người Pháp, có một số đông người Việt đã từ Lào và Bắc Việt Nam chạy sang đây. Dưới tác động của cán bộ Bắc Việt sang xâm nhập, họ đã trở thành một mối uy hiếp đối với nền an ninh của Thái. Không những thế, cả Trung cộng cũng bắt đầu dòm ngó vào đây. Từ làn sóng di cư ào ạt đánh dấu bước ngoặt của thế kỷ, số dân của Thái đã có một bộ phận quan trọng là người Hoa. Tại Vân Nam Trung Quốc, một đài phát thanh - đài “Tiếng nói nhân dân Thái” xuất hiện và tích cực kêu gọi họ hãy đoàn kết với các lực lượng cách mạng Châu Á dưới sự lãnh đạo của Trung Hoa. Một mạng lưới bí mật hoạt động mạnh mẽ ở Thái có cán bộ và huấn luyện viên từ Trung Quốc sang giúp đỡ. Ở phía Nam, tại vùng biên giới giáp với Malaysia, lực lượng tàn dư của cuộc nổi loạn của cộng sản đã làm rung chuyển Malaysia trong những năm 50, mặc dù thất bại, vẫn tiếp tục lôi kéo những người cảm tình và tấn công vào một số cơ sở ở nơi này nơi khác.
Đầu những năm 60, nhận thấy những vụ rối loạn ngày càng gia tăng ở Lào và Nam Việt Nam, người Thái hiểu rằng họ cần phải chuẩn bị để đối phó. Vốn là một dân tộc rất sùng đạo Phật và gắn bó với Hoàng gia nên các nhà lãnh đạo Thái đánh giá rất đúng rằng đất nước họ sẽ khó có nguy cơ bị chia rẽ như các nước láng giềng. Hơn nữa, Thái Lan có một truyền thống độc lập từ lâu đời và trên thực tế, đó là nước duy nhất ở khu vực này không phải chịu chế độ thuộc địa. Trong đời sống dân tộc, quân đội đóng một vai trò quan trọng nhưng để hỗ trợ cho chính quyền, chính cảnh sát mới là lực lượng bảo đảm chủ yếu cho an ninh ở nông thôn.
Có thế mạnh vì truyền thống ấy, người Thái đã tự đề ra cho mình một phương pháp để chống lại các lực lượng cách mạng lật đổ, còn đối với C.I.A., điều tốt nhất để sử dụng ảnh hưởng của mình là ủng hộ và khuyến khích họ trong việc áp dụng phương pháp đó. Cảnh sát Thái Lan, đặc biệt là cảnh sát biên phòng, được sự hỗ trợ của một đơn vị không quân đã hợp lực với quân đội và chính quyền để lập ra một lực lượng tự vệ tình nguyện, có nhiệm vụ hoạt động ở các làng bị uy hiếp. Chương trình ấy được phối hợp chặt chẽ ở các cấp trung ương và địa phương, trong đó cả ba thành phần: cảnh sát, quân đội và chính quyền đều có mặt. Mục tiêu chính của chương trình là phòng thủ ngay cả khi biết kẻ địch có dự kiến tấn công.
Người của Mỹ đóng góp vào chương trình ấy là đại sứ Graham Martin. Từ rất sớm, ông đã rõ ràng cho biết chính ông, chứ không phải giới quân sự sẽ là người chỉ đạo đường lối và các chương trình của Mỹ ở Thái Lan. Ông cũng nhấn mạnh việc xác định chiến lược, chiến thuật cho chương trình ấy như thế nào là người Thái chứ người Mỹ sẽ không áp đặt ý kiến của riêng mình. Do bộ phận C.I.A. ở đấy đã có một người phụ trách thẳng thắn, dễ có thiện cảm và đã gây được những quan hệ tốt với lãnh đạo cao cấp Thái Lan nên sau khi Martin tới đấy được ít lâu, tôi quả thực cũng có chút e ngại sợ Martin cảm thấy mình bị đứng ngoài rìa và do đó muốn thay đổi nhân sự, tôi đã phải dặn kỹ người phụ trách C.I.A. ở đấy là phải làm cho Martin hiểu ông ta sẽ làm việc theo sự chỉ đạo của ông đại sứ chứ không phải chỉ phục vụ cho riêng cơ quan của mình. Tôi phải thừa nhận rằng nhờ có họ, mọi việc đã tiến hành trôi chảy. Người phụ trách bộ phận C.I.A. hiểu cần phải giúp đỡ Martin trong nhiệm vụ đại sứ cũng như ngược lại. Martin nhanh chóng quyết định sẽ sử dụng người của C.I.A. để nói và làm những việc mà không một đại sứ nào có thể tự cho phép mình nói và làm.
Thế là hai con người thoạt nhìn không phải sinh ra để hợp nhau cuối cùng lại tạo thành một êkíp rất tốt. Họ thống nhất với nhau trên một điểm hết sức quan trọng: đó là giới quân sự không nên đưa ra cho người Thái những lời khuyên có tính chất chỉ huy về cách thức chống nổi dậy của họ.
Giải pháp do người Thái áp dụng, tức là các chương trình có sự phối hợp tập thể đã tỏ ra hữu hiệu. Cuối những năm 60, nguy cơ nổi loạn trên thực tế đã biến mất và người ta quy công ấy cho các nhà lãnh đạo. Họ đã hiểu rằng để có thành công ấy, điều quan trọng là phải tạo ra được một nỗ lực chung của tất cả các thành phần: các nhà cầm quyền dân sự, cảnh sát và quân đội, hơn là cứ nhăm nhăm đi tìm cách tiêu diệt kẻ địch.
Ở Nam Việt Nam, bên kia biển Trung Hoa, người Philippines những năm 60 đã phải đương đầu với sự bùng phát trở lại của một phong trào khởi nghĩa đã dấy lên từ mười năm trước đấy. Đáp lời kêu gọi nhân dân thế giới đứng lên đấu tranh cách mạng do Khrusov và Lâm Bưu tung ra và nhận thấy phong trào khởi nghĩa của cộng sản ở Nam Việt Nam đang dấy lên sôi nổi, phong trào Hukbalahap lại xuất hiện. Ngay cả nếu lần này phong trào ấy không vấp phải uy tín của tổng thống Magsaysay thì nó cũng phải tính đến một chính quyền Philippines có đầy đủ chương trình và cơ cấu sẵn sàng hoạt động một cách có hiệu quả ở cấp địa phương. Chính quyền Philippines chỉ cần kết hợp các chương trình phát triển nông thôn với các nỗ lực của chính quyền địa phương và sự năng động của cảnh sát địa phương thì họ đã có thể khuyến khích dân chúng cùng chung sức chống lại quân phiến loạn và tạo nên một tương lai tươi sáng với sự giúp đỡ của chính phủ trung ương. Trong sơ đồ ấy, C.I.A. chỉ đóng một vai trò nhỏ bé, còn người Philippines thì họ hiểu rất rõ họ phải làm gì. Tuy nhiên, trong khi truyền đạt cho họ kinh nghiệm của chúng tôi và ủng hộ họ một cách nhiệt tình, chúng tôi đã giúp đỡ họ. Trong suốt những năm ấy, không có lúc nào sự đe doạ của cộng sản trở nên nghiêm trọng. Đương nhiên, tất cả những cái đó sau đấy đã thay đổi, dưới sự thống trị độc tài tha hóa của tổng thống Marcos.
Còn ở Campuchia, đó lại là một chuyện khác. Nhờ sự khéo léo và uy tín của mình, ông hoàng Shihanuk đã đoàn kết được dân tộc, chỉ dành một ít chỗ cho phe đối lập. Không vì thế mà tán thành lập trường trung lập của Shihanuk, chính sách của Mỹ tuy nhiên vẫn phải chấp nhận lập trường ấy, trong chừng mực mà Shihanuk bảo đảm rằng Campuchia sẽ không bao giờ là nguyên nhân của một cuộc khủng hoảng giữa Mỹ và Hà Nội. Chúng tôi vẫn phải tôn trọng nền trung lập của Campuchia trong khi hoàn toàn biết rằng đất của Campuchia vẫn được sử dụng làm căn cứ cho cộng sản để tấn công Nam Việt Nam.
Khi các tướng lĩnh Campuchia lật đổ Shihanuk vì cho rằng ông đã hy sinh chủ quyền đất nước khi để cho Bắc Việt Nam tuỳ ý sử dụng lãnh thổ của mình, người ta đã có những chứng cớ không thể bác bỏ được là Bắc Việt đã sử dụng các cảng của Campuchia để chuyên chở nhiều chuyến hàng quan trọng về súng đạn, rốcket và đồ quân dụng vào Nam Việt Nam để đánh Mỹ. Người ta cũng biết rằng cộng sản đã sử dụng vùng đất biên giới của Campuchia để xây dựng các căn cứ hậu cần và làm đất đứng chân cho các đại bản doanh của họ. Nhưng cái mà người ta ít biết, đó là cộng sản tiến hành các hoạt động ấy ở những vùng gần như không có dân. Thế mà mỗi khi Mỹ quyết định tấn công sang những khu vực ấy thì chẳng những Mỹ mang tiếng là “vi phạm chủ quyền của Campuchia” mà lập tức hành động “bất hợp pháp” ấy sẽ làm dấy lên một vụ bê bối thực sự trên đất Mỹ. Tuy nhiên ngay lúc ấy cũng như về sau, Shihanuk không hề phản kháng hành động “vi phạm” ấy, sự vi phạm vào một vùng đất mà ông biết là rất ít dân và vả lại Bắc Việt cũng đã vi phạm. Ngược lại quốc vương Campuchia còn hoan nghênh nó, hy vọng thấy ở đó một cơ hội để đẩy Bắc Việt ra ngoài.
Nếu người Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam của họ chấp nhận việc Campuchia giữ thái độ trung lập đối với cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam, Bắc Việt Nam, thì người Bắc Việt Nam lại mang đến cho Pôn Pốt cùng bọn Khơme đỏ ghê tởm của hắn một sự “giúp đỡ huynh đệ”.
Người ta có thể tự hỏi với sự giúp đỡ rất có hiệu quả đối với Lào và Thái, nếu đem những chương trình địa phương về phát triển nông thôn và tăng cường an ninh của C.I.A. giúp đỡ cho Campuchia thì chắc chắn nhân dân Campuchia sẽ có đủ sức mạnh hơn để chống lại với số phận khủng khiếp đang chờ đợi họ.