Số lần đọc/download: 1202 / 72
Cập nhật: 2016-06-26 12:19:39 +0700
Chương 1: Điểm Nhạy Cảm
T
rong khi trực giác của chúng ta nói rằng những người phi thường đã được số phận định sẵn sự vĩ đại, có rất nhiều dữ liệu khoa học cho thấy không phải như vậy. Để có thêm thông tin, hãy xem "The Role of Gifts and Markers in the Development of Talent," trong cuốn Exceptional Children, số 48 (1982), tr.510-521 của Benjamin Bloom; và "Developing Talent: Time, Task, and Context" của Lauren A. Sosniak trong Handbook of Gifted Education của N. Colangelo và G. Davis (New York: Allyn & Bacon, 2003). Để biết những nghiên cứu trường hợp rất hay về chủ đề này, xem Nghiên cứu dài hạn về những học sinh có chỉ số IQ cao tại một trường học ở New York dành cho học sinh năng khiếu của Rena Suhotnik, Lee Kassan, Ellen Summers, và Alan Wasser:, trong Gienius Revisited: High IQ Children Grown Up (Nor¬wood, N.J.: Ablex, 1993) hoặc nhiều mô tả các nghiên cứu dài hạn với đối tượng là trẻ em có chỉ số IQ cao của nhà tâm lý học thuộc Đại học Standford là Lewis Terman. Để có cái nhìn tổng quan sâu sắc về chủ đề này và nhiều thông tin nữa, xem Outliers: The Story of Success của Malcolm Gladwell (New York: Little, Brown, 2008). Quan điểm của Robert Bjork về điểm nhạy cảm của việc học tập được khái niệm hóa bởi những tác giả khác, nổi bật nhất là nhà tâm lý học người Nga Lev Vygotsky trong những năm 1920, những người đã đặt cho nó một cái tên không mấy hấp dẫn: khu vực phát triển ở đầu gần. Để biết thêm về công trình của Bjork, xem "Memory and Metamemory Considerations in the Training of Human Beings," trong Metacognition: Knowing About Knowing (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1994), tr.185-205, và "Assessing Our Own Competence: Heuristics và Illusions,” Attention and Performance XVII. Cognitive Regulation of Per¬formance: Interaction of Theory and Application (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1999), tr.435-459, và bài báo của ông viết cùng với Nate Cornell, "Learning Concepts and Categories: Is Spacing the Enemy of Induction?" Psychological Science, số 19 (2008), tr.585-591.
Một trong những điều thú vị về tập luyện sâu là nó dường như có thể phân biệt được với rèn luyện nông, thứ được Bjork gọi là “ảo giác của sức mạnh." Trong một số nghiên cứu thích đáng và thú vị nhất liên quan đến những người đưa thư của ngành bưu chính ở nước Anh, những người đã trải qua các phương pháp đào tạo khác nhau để học về hệ thống bàn phím mới. Phát hiện: Những người đưa thư học ít nhất lại cảm thấy họ đã học được nhiều nhất và ngược lại. Xem A. D. Baddeley và D. J. A. "The Influence of Length and Frequency of Training Session on the Rate of Learning to Type," Ergonomics, số 21 (1978), tr. 627-635 Để có thêm các ví dụ về tập luyện sâu trong quảng cáo, xem Jaideep Sengupta và Gerald J. Gorn, "Absence Makes the Mind Grow Sharper: Effects of Element Omission on Subsequent, Recall Journal of Marketing Research, số 39 (tháng 5 năm 2002), tr. 186-201.
Để có cái nhìn sâu sắc về sự cải thiện thành tích ném xa tự do của Shaquille O'Neal, xem R. Kerr và B. Booth, "Specific and Varied Practice of Motor Skill," Perceptual and Motor Skills, số 46 (1978), tr.395-401. Về Edwin Link và việc huấn luyện bay của ông, xem Lloyd L. Kelly, cũng như Robert B. Parke, The Pilot Maker (New York; Grosset & Dunlap, 1970); Norman E. Borden, Jr., Air Mail Emergency 1934 (Freeport, Me.: Bond Wheelwright, 1968); và D. J. Allerton, "Flight Simulation: Past, Present, and Future," Aeronautical Journal 104 (2000), tr.651- 663. Những bài mô tả hay cũng có thể tìm thấy tại địa chỉ http://www.link.com/history.htm và Virginia Van der Veer, “Barnstorming the US. Mail," American Heritage, tháng 5, 1974.
Để có thêm thông tin về những tác dụng của việc xây dựng kỹ năng trong môn futsal, xem J. D. Allen, R. Butterly, M. A. Welsch, và R. Wood, "The Physical and Physiological Value of 5-a-side Soccer Training to 11-a-Side Match Play," Journal of Human Movement Studies, số 31 (1998), tr.1-11, cũng như Play the Brazilian Way của Simon Clifford (London: MacMillan, 1999)..