One’s first love is always perfect until one meets one’s second love.

Elizabeth Aston

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Dịch giả: Tuấn Việt
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 257 / 41
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14 - Ý Nghĩ Trong Gương
ề đến London, tôi đến ngay quán Pleasant, đinh ninh rằng sẽ tìm thấy Poirot ở đó. Nhưng khuôn mặt quen thuộc duy nhất trong quán cà phê lại là cô phục vụ mà Poirot đặt tên là Tóc Bay Bay. Với tôi, cô ta giống như món thuốc bổ. Hơn bất cứ điều gì khác, tôi thích quán Pleasant chính vì sự hiện diện của cô ta. Tên cô ta là gì nhỉ? Poirot đã có nói. Ồ phải: Fee Spring, tên tắt của Euphemia.
Tôi thích cô ta vì cái thói quen dễ chịu, cứ mỗi lần gặp tôi là lại nói đúng hai điều. Cô ta đang nói đây. Điều thứ nhất là ước vọng đã lâu của cô ta, muốn đổi cách gọi Pleasant từ Quán Cà phê thành Trà quán, nhằm phản ánh mối tương quan lợi ích giữa hai món thức uống này. Điều thứ hai là: “Scotland Yard đối xử với ông ra sao? Tôi rất muốn làm việc ở đó – chỉ cần họ giao nhiệm vụ cho tôi, ông nhớ đấy nhé.”
“Ồ, cô sẽ chóng thành trưởng nhóm cho coi,” tôi nói. “Chỉ có điều tôi ngại rằng ngày nào đó tôi đến đây và bắt gặp dòng chữ ‘Trà quán Pleasant’ ghi trên tấm biển ngoài kia.”
“Không chắc đâu. Đó là điều duy nhất họ sẽ không cho phép tôi thay đổi. Ông Poirot đâu thích điều đó, phải không ạ?”
“Ông ta sẽ thất kinh.”
“Ông không được nói với ông ta hay ai khác đâu đấy.”
Đề nghị đổi tên quán của Fee là điều mà cô ta thổ lộ là chưa từng nói với ai khác ngoài tôi ra.
“Tôi không nói đâu,” tôi cam kết. “Tôi bảo cô thế này nhé: hãy đến giúp tôi phá án và tôi sẽ xin sếp tôi đổi tên cơ quan thành ra là Trà quán Scotland Yard. Ở đó mọi người đều uống trà nên chẳng có gì là không phù hợp cả.”
“Hừm.” Fee không thấy đó là ý hay. “Tôi nghe nói cảnh sát nữ không được tiếp tục công việc nếu lập gia đình. Chẳng hề gì, tôi thà cùng ông phá án còn hơn là suốt ngày chăm chồng.”
“Thế thì cô được toại nguyện rồi đấy!”
“Vậy đừng hỏi cưới tôi đấy nhé.”
“Khỏi lo!”
“Ông đáng mến nhỉ?”
Để thoát ra, tôi nói: “Tôi sẽ không hỏi cưới ai, nhưng nếu cha mẹ tôi chĩa súng vào đầu tôi, tôi sẽ hỏi cưới cô trước các cô gái khác, được chưa?”
“Thà là tôi còn hơn cô nàng mơ mộng nào, trong đầu chỉ toàn chuyện lãng mạn. Loại đó thì chán lắm đấy.”
Tôi không muốn bàn luận chuyện lãng mạn. Tôi nói: “Do chúng ta đã có mối hợp tác phá án… Có phải cô đang chờ Poirot đến đây không? Tôi cũng đinh ninh ông ta ở đây để đợi Jennie Hobbs tái xuất.”
“Jennie Hobbs ư? Vậy ra ông đã truy được họ của cô ta. Ông Poirot sẽ hài lòng khi biết được danh tính của người đã làm ông ấy mãi phiền muộn. Có lẽ từ đây ông ta sẽ thôi quấy rầy tôi. Cứ mỗi lần tôi quay đầu là y như rằng thấy ông ta ở phía sau, hỏi đi hỏi lại tôi cùng một câu về Jennie. Tôi thì chưa từng hỏi ông ta xem ông đang ở đâu, chưa bao giờ!”
Tôi khá bối rối khi nghe câu này. “Cớ sao cô phải hỏi điều đó?” tôi nói.
“Tôi không phải hỏi thật và nào đã có hỏi han gì đâu. Ông nên thận trọng với các câu hỏi kiểu chất vấn của ông. Ông có tìm hiểu được điều gì khác về Jennie không?”
“Tôi e chẳng có gì để kể cho cô cả.”
“Thế thì, bù lại, sao tôi không kể cho ông vài điều nhỉ? Ông Poirot muốn nghe chuyện này lắm đấy.”
Fee dẫn tôi đến một chiếc bàn trống. Chúng tôi ngồi xuống. Cô ta nói: “Cái đêm Jennie đến, hôm thứ năm vừa rồi, khi ta nhớn nhác hết cả lên… Tôi có nói với Poirot rằng tôi để ý thấy điều gì đó, và rồi tôi không nhớ ra nổi. Giờ thì tôi nhớ ra là gì rồi. Lúc đó trời đã tối mà tôi vẫn chưa vén rèm lên. Tôi chẳng bao giờ vén. Thắp sáng lối đi cũng được mà, tôi luôn nghĩ thế. Dân tình nhìn được vào bên trong thì nhiều khả năng sẽ bước vào quán hơn.”
“Nhất là khi họ thấy cô qua cửa sổ,” tôi ghẹo cô ta.
Mắt cô trợn tròn. “Chính là thế,” cô nói.
“Ý cô là sao?”
“Sau khi tôi bảo cô ta khép cửa lại, Jennie lao ra cửa sổ, nhìn ra ngoài. Cô ta hành xử cứ như có ai đó ngoài kia đang săn lùng cô ta. Cô ta nhìn chằm chằm ra cửa sổ, nhưng thứ mà cô ta thấy chỉ có thể là chính cô ta, căn phòng này và tôi – ý tôi là hình ảnh phản chiếu của tôi. Và tôi cũng thấy cô ta nữa. Đó là cách tôi nhận biết cô ta là ai. Ông hỏi ông Poirot đi, ông ta sẽ nói ông biết. Trước khi cô ta quay đầu lại, tôi hỏi: ‘Ồ, là cô đấy à?’ Cửa sổ giống như một tấm gương, ông hiểu không, khi mà trong này sáng bừng còn ngoài kia thì tối. Ông sẽ nói có lẽ cô ta đang cố nhìn ra ngoài cho dù chẳng có mấy khả năng, nhưng không đúng vậy.”
“Ý cô là sao?”
“Cô ta không nhìn ra ngoài để canh ai đó bám theo cô ta. Cô ta đang nhìn tôi, giống như tôi đang nhìn cô ta. Mắt tôi nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của cô ta và mắt cô ta cũng nhìn hình ảnh phản chiếu của tôi… giống như tấm gương vậy, ông biết soi gương là thế nào rồi chứ?”
Tôi gật đầu. “Cô thấy ai trong gương thì người đó cũng thấy cô.”
“Đúng rồi. Và Jennie đang quan sát tôi, tôi thề đấy: cô ta đang chờ xem tôi có nói hay làm gì liên quan đến việc cô ấy đến hay không. Ông Catchpool ạ, nghe thì buồn cười thật đấy, nhưng cứ như tôi đã thấy không chỉ đôi mắt của cô ta. Nghe thì kỳ lạ, nhưng tôi thấy luôn cả suy nghĩ của cô ta nữa. Tôi thề là cô ta đang chờ đợi tôi tiến tới.”
“Bất kỳ ai nhạy cảm cũng chờ đợi cô tiến tới,” tôi cười.
‘Xììì.’ Fee phát ra một âm thanh thể hiện sự hờn dỗi. “Ông biết đấy, tôi không hiểu vì sao tôi lại quên chuyện đó. Tôi muốn nắm lấy hai tay mình, lắc thật mạnh vì đã không chịu nhớ. Tôi thề là tôi không hình dung nổi. Hình ảnh phản chiếu của cô ta chằm chặp nhìn vào mắt tôi, cứ như…” Fee chau mày. “Cứ như tôi mới chính là mối nguy chứ không phải ai đó ở ngoài đường. Nhưng tại sao cô ta lại nhìn tôi như vậy? Ông có thể giải thích được không? Tôi thì không thể.”
Sau khi sắp xếp xong công việc ở Scotland Yard, tôi về nhà trọ, gặp Poirot đang nóng lòng rời khỏi đó. Ông đứng gần cánh cửa trước mở toang, áo khoác sẵn, đầu đội nón, khuôn mặt đỏ dừ và dáng điệu bồn chồn, cứ như ông không thể ở yên. Đó là một trạng thái không bình thường nơi ông. Khác với thường lệ, Blanche Unsworth chẳng tỏ ra quan tâm đến việc tôi trở về. Thay vào đó, bà đang nhặng xị về việc xe đến muộn. Cả bà cũng có khuôn mặt đỏ ửng.
“Đợi xe tới, chúng ta đi ngay đến khách sạn Bloxham, Catchpool ạ,” Poirot nói, các ngón tay trong găng nắn lại bộ ria mép.
“Lẽ ra nó phải đến từ mười phút trước,” bà Unsworth nói. “Tôi nghĩ việc chậm trễ này cũng có cái hay là ông lôi được ông Catchpool theo cùng.”
“Chuyện gì khẩn cấp vậy?” tôi hỏi.
“Có thêm một án mạng nữa tại khách sạn Bloxham.” Poirot đáp.
“Ôi trời.” Trong vài giây, cơn hoảng loạn tột cùng chạy qua các mạch máu của tôi. Lại nữa: việc sắp đặt xác chết. Một, hai, ba, bốn…
Bốn đôi tay không sức sống, lòng bàn tay úp xuống…
Cầm tay ông đi, Edward…
“Có phải là Jennie Hobbs không?” tôi hỏi Poirot trong lúc máu rần rật ở đôi tai.
Lẽ ra tôi đã phải nghe ông về mối nguy. Tại sao tôi không chịu lắng nghe ông một cách nghiêm túc?
“Tôi không biết. À! Anh biết họ cô ta rồi nhỉ. Signor Lazzari có mời tôi đến gặp qua điện thoại, từ đó tôi vẫn chưa thể liên lạc với ông ta. Bon, cuối cùng xe đã đến rồi kìa.”
Khi bước đến chiếc xe, tôi cảm thấy như bị kéo giật lại. Blanche Unworth đang túm tay áo khoác của tôi. “Hãy bảo trọng ở khách sạn, ông Catchpool nhé. Nếu ông mà bị sao thì tôi không chịu nổi đâu đấy.”
“Dĩ nhiên, tôi sẽ thận trọng.”
Khuôn mặt bà nhăn nhúm lại. “Tôi cho rằng ông không cần phải đến đó. Người đó đến đấy làm gì nhỉ, cái kẻ bị giết lần này ấy? Đã có ba người bị giết ở Bloxham rồi, và chỉ mới từ hồi tuần qua thôi! Tại sao hắn không trốn thoát đi, trú ngụ ở đâu đó để khỏi chịu chung số phận? Thật chẳng đúng tí nào, người đó đã phớt lờ những dấu hiệu tai ương và vì thế đã lôi ông vào mớ lộn xộn này.”
“Tôi sẽ truyền đạt lời bà cho tử thi của người ấy.” Tôi thầm lý sự rằng nếu tôi biết cười đùa và nói ra đúng những từ cần nói thì nhất định sẽ sớm tìm lại sự bình tĩnh.
“Khi ông làm việc, hãy nói vài lời với các khách trọ khác,” Blanche Unsworth khuyên nhủ. “Bảo họ rằng tôi còn hai phòng trống ở đây. Có lẽ không rộng rãi như ở Bloxham, nhưng mọi người vẫn sống sót khi thức dậy hàng sáng.”
“Catchpool, nhanh lên,” Poirot giục giã từ trên xe.
Tôi vội vã trao hành lý cho bà Unsworth và làm theo lời ông.
Trên đường đi, Poirot nói: “Mon ami, tôi đã kỳ vọng quá nhiều vào việc ngăn chặn án mạng thứ tư, và tôi đã thất bại.”
“Tôi không nhìn sự việc theo cách đó đâu,” tôi nói.
“Non?”
“Ông đã làm tất cả những gì có thể. Hung thủ đã thành công thì điều đó đâu có nghĩa ông thất bại.”
Khuôn mặt Poirot chợt khoác lên chiếc mặt nạ khinh khỉnh. “Nếu đó là ý kiến của anh thì anh quả là một cảnh sát tốt đối với mọi tên sát nhân. Dĩ nhiên là tôi thất bại!” Ông đưa tay ra ngăn, không cho tôi nói. “Làm ơn đừng nói những điều phi lý nữa. Kể tôi nghe chuyến đi của anh đến Great Holling đi. Anh đã phát hiện những gì ngoài cái họ của Jennie?”
Tôi kể lại toàn bộ chuyến đi của tôi, càng lúc càng thấy tự tin và cố không bỏ sót chi tiết nào để một người thấu đáo như Poirot có thể xem là sơ suất. Trong khi nói, tôi nhận thấy một điều lạ: đôi mắt ông trở nên xanh hơn. Cứ như thể ai đó trong đầu ông vừa thắp lên những ngọn đuốc nho nhỏ ở đôi mắt làm cho chúng sáng lên.
Khi tôi kể xong, ông nói: “Vậy ra Jennie là người giúp việc cho Patrick Ive ở trường Saviour thuộc Đại học Cambridge. Đó là điều lý thú nhất.”
“Tại sao?”
Không có câu trả lời nào mà chỉ có câu hỏi kế tiếp.
“Sau khi thăm Margaret Ernst ở ngôi nhà tranh của bà ta, anh có ở lại rình hay bám theo bà ta không?”
“Bám theo bà ta? Không. Tôi chẳng có lý do nào để nghĩ bà ta sẽ đi đâu đó. Có vẻ như bà ta đã dành trọn thời gian để canh mộ vợ chồng Ive qua cửa sổ.”
“Anh có mọi lý do để nghĩ bà ta sẽ đi đâu đó, hay ai đó sẽ đến gặp bà ta,” Poirot nghiêm khắc nói. “Suy nghĩ đi, Catchpool. Bà ta không muốn nói với anh về Patrick và Frances Ive vào ngày đầu tiên anh trò chuyện với bà ta, n’est-ce pas! ‘Hãy trở lại ngày mai’, bà ta nói thế. Khi anh trở lại, bà ta kể ngay cho anh toàn bộ câu chuyện. Anh không hề nghĩ rằng lý do việc trì hoãn có thể là vì bà ta muốn tham vấn ai đó sao?”
“Không. Quả thật tôi không nghĩ tới. Bà ta có vẻ là người luôn suy nghĩ cẩn thận, không vội vàng trong những quyết định quan trọng. Bà ta cũng có vẻ là một phụ nữ quyết đoán chứ chẳng phải là loại ba chân bốn cẳng đi tìm bạn bè để xin lời khuyên. Do đó tôi không nghi ngờ gì cả.”
“Tôi thì tôi nghi ngờ đấy,” Poirot nói. “Tôi nghĩ Margaret Ernst muốn thảo luận với bác sĩ Ambrose Flowerday về việc bà ta nên nói gì.”
“Nếu bà ta muốn trao đổi với ai thì người đó chỉ có thể là ông ta mà thôi,” tôi thừa nhận. “Bà ta đã nêu tên ông ta rất nhiều lần trong suốt cuộc trò chuyện. Rõ ràng bà ta rất ngưỡng mộ ông bác sĩ.”
“Vậy mà anh không tìm đến bác sĩ Flowerday.” Poirot phát ra một tiếng khụt khịt. “Anh quá trọng danh dự mà không làm việc đó, do anh đã thề giữ im lặng. Và phải chăng chính sự tế nhị của người Anh đã khiến anh dùng từ ‘ngưỡng mộ’ để thay cho từ ‘yêu’? Margaret Ernst yêu Ambrose Flowerday. Theo những gì anh kể với tôi thì điều đó quá rõ! Bà ta có say mê đắm đuối không khi kể về vị mục sư và vợ ông ta, những người mà bà ta chưa từng gặp gỡ? Không, sự say mê đắm đuối của bà ta là dành cho bác sĩ Flowerday. Bà ta đã cảm xúc theo cảm xúc của ông ta về cái chết của vợ chồng vị mục sư. Họ là bạn thân của ông ta. Anh đã hiểu ra chưa, Catchpool?”
Tôi phát ra một âm thanh chống chế. Với tôi, Margaret Ernst có sự nhiệt tình đối với các nguyên tắc bị đe dọa, nhiệt tình với ý niệm về sự bất công đã xảy đến cho vợ chồng Ive. Nhưng tôi chẳng dại nói thẳng điều đó ra. Tôi sẽ chỉ tổ đón nhận một bài thuyết giảng của Poirot về sự kém cỏi của tôi trong việc nhận biết cảm xúc yêu đương. Để chuyển hướng Poirot khỏi nghĩ về vô số sai lầm và thiếu sót của tôi, tôi kể cho ông cuộc viếng thăm quán Pleasant và câu chuyện của Fee Spring.
“Theo ông câu chuyện này có ý nghĩa gì không?” tôi hỏi khi chiếc xe va phải vật gì đó nhô cao trên đường.
Một lần nữa, Poirot phớt lờ câu hỏi của tôi. Ông hỏi lại liệu tôi có bỏ sót điều gì không.
“Những chuyện ở Great Holling thì không sót gì. Chỉ có độc nhất một tin mới nữa, đó là kết quả khám nghiệm mới đến hôm nay. Ba nạn nhân đã bị đầu độc. Chúng tôi nghĩ đó là chất cyanide. Tuy nhiên có một chi tiết kỳ lạ: trong bao tử các nạn nhân không tìm thấy thức ăn nào vừa được tiêu thụ. Harriet Sippel, Ida Gransbury và Richard Negus đã không ăn gì nhiều giờ trước khi bị giết. Điều này có nghĩa chúng ta phải xác định bữa trà chiều dành cho ba người đã đi về đâu.”
“À! Thế là một bí ẩn đã được giải.”
“Giải ư? Tôi thì nói một bí ẩn mới đã được tạo ra. Không lẽ tôi sai?”
“Ồ, Catchpool,” Poirot rầu rĩ nói. “Nếu tôi cho anh biết câu trả lời, nếu tôi thương hại anh, anh sẽ không chịu mài giũa khả năng suy nghĩ của anh, mà anh thì phải mài giũa mới được! Tôi có một người bạn rất thân mà tôi chưa kể cho anh. Tên anh ta là Hastings. Tôi thường cầu xin anh ta vận dụng những tế bào xám nho nhỏ của anh ta, nhưng tôi biết chúng sẽ chẳng bao giờ tương xứng với các tế bào xám của tôi.”
Tôi nghĩ ông đang đấu dịu bằng cách cho tôi một lời khen kiểu như ‘Còn anh, anh thì khác…’, nhưng rồi ông lại nói: “Các tế bào xám của anh cũng thế, sẽ không bao giờ tương xứng với của tôi. Anh không thiếu thông minh, cũng chẳng thiếu nhạy bén, thậm chí không thiếu cả sự độc đáo. Ở đây chỉ là vấn đề tự tin. Thay vì đi tìm câu trả lời, anh nhìn quanh quất xem có ai đã tìm ra để nói cho anh biết không. Anh tìm Hercule Poirot! Nhưng, mon ami, Poirot không chỉ là chuyên gia giải mã các bài toán hóc búa, ông ta còn là người hướng dẫn, người thầy. Ông ta muốn anh học cách tự suy nghĩ, như ông ta tự suy nghĩ. Như người phụ nữ mà anh vừa mô tả, Margaret Ernst, kẻ đã không trông chờ vào Kinh Thánh mà dựa vào phán xét của chính mình.”
“Vâng. Tôi nghĩ bà ta khá kiêu ngạo,” tôi mỉa mai nói. Tôi rất muốn nói rõ thêm, nhưng xe chúng tôi đã đến khách sạn Bloxham.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Kỳ Án Dòng Chữ Tắt - Agatha Christie Kỳ Án Dòng Chữ Tắt