Nguyên tác: The Sweetness At The Bottom Of The Pie [Flavia De Luce #1]
Số lần đọc/download: 1207 / 27
Cập nhật: 2016-06-27 10:56:59 +0700
Chương 14
Q
uá hoàn hảo. Cũng đâu có ai chứng minh được điều gì khác.
Tôi bị đánh thức dậy lúc nửa đêm, tôi sẽ quả quyết như vậy, bởi một tiếng động khác thường bên ngoài ngôi nhà. Tôi đi xuống cầu thang rồi ra vườn, và ở đó, tôi bị một kẻ đi ăn trộm đêm tóm được: một tên trộm đêm, thế cũng được, đang tìm cách ăn trộm tem của bố. Sau một thoáng kháng cự ngắn ngủi, tôi chế ngự được hắn.
Từ từ đã Flave, chi tiết cuối cùng khó tin quá: Horace Bonepenny cao hơn 1,8 mét và hắn có thể bóp cổ mày chỉ bằng ngón cái và ngón trỏ. Không không, mình và hắn có vật lộn và rồi hắn ta lăn ra chết - chắc tim hắn không khoẻ, hậu quả của căn bệnh từ ngày xửa ngày xưa. Sốt thấp khớp chẳng hạn. Ừ ừ, đúng rồi. Tim sung huyết và ngừng đập, giống y hệt cô nàng Beth trong truyện Little Woman. Tôi thầm cầu nguyện Thánh Tancred ban cho một phép màu: Thánh Tancred, xin ngài hãy để cuộc xét nghiệm tử thi của Bonepenny chứng minh lời nói dối của con.
“Cháu đã giết Horace Bonepenny,” tôi nhắc lại, như thể nói câu đó hai lần có thể khiến sự việc thêm phần đáng tin.
Thanh tra Hewitt hít một hơi rõ sâu và thở ra đằng mũi.
“Kể cho tôi nghe đi,” ông ta nói.
“Cháu nghe thấy tiếng động lúc nửa đêm, thế là cháu đi ra vườn, rồi từ trong bóng tối có người nhảy bổ vào cháu...”
“Từ từ đã,” ông ta nói, “bóng tối chỗ nào?”
“Bóng tối ở nhà kho trong vườn. Cháu đang cố vùng vẫy thoát ra thì cổ họng ông ta phát ra tiếng òng ọc, hình như ông ta bị sung huyết tim và tim ngừng đập, có lẽ vì bệnh sốt thấp khớp ông ta mắc phải hồi còn bé - hoặc gần giống như thế.”
“Tôi hiểu,” Thanh tra Hewitt nói. “Và sau đó cháu làm gì?”
“Cháu quay trở vào nhà và gọi Dogger. Phần cuối của câu chuyện thì cháu đã kể với ông rồi.”
Nhưng đợi đã - khó có chuyện Dogger nói với viên Thanh tra này rằng tôi đánh thức chú ấy dậy lúc 4 giờ sáng mà không nhắc đến chuyện là tôi đã giết chết người đàn ông kia. Có đúng không nhỉ?
Tôi cần thời gian để suy nghĩ chuyện này cho thấu đáo.
“Vật lộn với một kẻ tấn công khó có thể coi là giết người,” viên Thanh tra nói.
“Vâng ạ,” tôi nói, “nhưng cháu chưa kể hết mọi chuyện với ông.”
Tôi suy nghĩ với tốc độ tia chớp về các thông tin trong não bộ: chất độc mà khoa học chưa biết tới (quá chậm); thuật thôi miên chết người (cũng quá chậm); cú đòn bí mật và bị cấm đoán của nhu thuật (không được; quá mơ hồ để giải thích). Rồi tôi chợt nhận ra muốn hy sinh vì nghĩa lớn đòi hỏi thiên tài sáng tạo đích thực - một cái mồm lém lỉnh thôi thì chưa đủ.
“Cháu xấu hổ không dám nói hết,” tôi nói thêm.
Tôi thầm nghĩ, khi còn hoài nghi, hãy viện đến cảm xúc. Mình quả là giỏi khi đã nghĩ ra việc này.
“Ừm,” viên Thanh tra nói. “Cứ để việc đó lại đã. Cháu có nói với Dogger rằng cháu đã giết chết tên trộm đó không?”
“Không ạ, cháu không nói. Ông biết đấy, sự việc khiến cháu bối rối lắm.”
“Sau đó cháu có nói với ông ta không?”
“Không ạ, cháu nghĩ thần kinh của chú ấy không thể chịu đựng được việc đó.”
“Ừm, sự việc thú vị rồi đây,” Thanh tra Hewitt nói, “nhưng thông tin chi tiết hơi ít.”
Tôi biết mình đang đứng ngay mép vách đá dựng đứng: chỉ cần giơ một chân ra là sẽ không còn đường quay lại.
“Còn nhiều chi tiết nữa,” tôi nói, “nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Cháu sẽ không nói thêm điều gì nếu ông không cho cháu gặp bố cháu.”
Thanh tra Hewitt có vẻ như đang cố nuốt một món ăn không chịu trôi xuống dạ dày. Ông ta mở miệng như thể có cơn tắc nghẽn đột ngột trong cổ họng, rồi lại ngậm miệng lại. Ông ta nuốt thật nhanh và rồi làm một điều khiến tôi phải ngưỡng mộ, một điều mà tôi phải ghi nhớ ngay trong đầu để sau còn cho vào kho tàng mánh lới của mình: ông ta lấy khăn tay trong túi quần và biến cơn sửng sốt của mình thành một cái hắt hơi thật to.
“Chỉ có hai bố con cháu thôi,” tôi nói thêm.
Viên Thanh tra hỉ mũi rất to và đi trở lại cửa sổ, và ở đó, ông ta đứng nhìn đăm đăm vào cái gì đó vô định, hai bàn tay vẫn quặp sau lưng. Tôi bắt đầu nhận thấy hành động đó nghĩa là ông ta đang suy nghĩ đăm chiêu lắm.
“Được rồi,” ông ta đột ngột nói. “Đi theo tôi.”
Tôi hào hứng nhảy vọt ra khỏi ghế và đi theo viên Thanh tra. Ra đến cửa, ông ta chỉ một tay về hướng hành lang rồi quay lại, bàn tay còn lại đặt nhẹ nhàng lên vai tôi.
“Việc tôi sắp làm có thể sẽ khiến tôi phải hối hận,” ông ta nói. “Tôi đang đánh liều với sự nghiệp của mình. FIavia, vì vậy, đừng làm tôi thất vọng... đừng có làm tôi thất vọng đấy.”
“Flavia!” Bố thốt lên. Hẳn là bố sửng sốt lắm khi nhìn thấy tôi ở đây. Và rồi bố phá vỡ cơn sửng sốt khi nói, “Ngài Thanh tra, hãy đưa con bé này đi. Xin ngài hãy đưa nó đi.”
Bố quay đi không nhìn tôi và lại mặt đối mặt với bức tường.
Mặc dù cửa phòng được tráng men màu vàng kem, nhưng rõ ràng đó là cửa sắt. Khi viên Thanh tra mở cửa, tôi nhìn thấy căn phòng này còn xịn hơn cả một phòng làm việc nhỏ với chiếc giường xếp và một bồn rửa mặt sạch sẽ đến bất ngờ. Ơn Chúa là họ không nhét bố vào một trong những cái chuồng hàn chấn song sắt như trước đó tôi thoáng thấy.
Thanh tra Hewitt gật đầu gọn lỏn với tôi, như thể ông ta muốn nói, “Tùy cháu,” rồi bước ra ngoài, khép cửa khẽ khàng hết mức. Không có tiếng tra khoá vào ổ, hoặc cài then cửa, mặc dù một tiếng sấm rền ngoài trời có thể đã át đi tiếng động đó.
Chắc hẳn bố nghĩ là tôi đã đi ra với ngài Thanh tra, bởi vì bố lại tỏ ra lo lắng ngay khi quay mặt ra và nhìn thấy tôi vẫn đứng đó.
“Về nhà đi Flavia,” bố nói.
Mặc dù bố đứng thẳng một cách cứng rắn và kiên quyết, nhưng giọng nói của ông nghe rất mệt mỏi và già cỗi. Tôi thấy bố đang cố đóng vai một quý ông người Anh lịch lãm, dửng dưng, không e sợ nguy hiểm, và tôi đau đớn nhận ra rằng điều đó khiến tôi vừa yêu thương vừa ghét ông.
“Trời mưa ạ,” tôi nói và chỉ ra cửa sổ. Mây mù tan tác tứ phương y như cái hôm ở Folly, và trời lại mưa như trút, những hạt mưa nặng hạt kêu lộp độp thấy rõ khi chúng nhảy nhót như những viên đạn trên rìa tường bên ngoài cửa sổ. Trên cái cây ở ven đường, một con quạ đơn độc rùng mình rũ nước như cái ô ướt đẫm.
“Con không thể về nhà trước khi trời tạnh. Với lại có người ăn trộm Gladys rồi.”
“Gladys à?” Bố nói, đôi mắt ông như mắt một loài sinh vật biển tuyệt chủng đang bơi trồi lên từ độ sâu mà không ai biết là sâu bao nhiêu.
“Xe đạp của con ấy,” tôi nói với bố.
Bố lơ đãng gật đầu, và tôi biết ông không nghe thấy tôi nói.
“Ai đưa con đến đây?” Bố hỏi. “Ông ta hả?” Ông chỉ ngón tay về phía cửa để ám chỉ Thanh tra Hewitt.
“Con tự đi đến.”
“Con tự đi đến? Từ Buckshaw ư?”
“Vâng,” tôi nói.
Có vẻ điều này quá sức tưởng tượng với bố, và ông lại quay lưng vào cửa sổ. Tôi không thể không nhận thấy ông có thế đứng giống hệt Thanh tra Hewitt khi hai tay cũng đan vào nhau ở sau lưng.
“Tự con đến. Từ tận Buckshaw,” cuối cùng bố cũng nói, như thể ông vừa mới phát hiện ra điều đó.
“Vâng.”
“Còn Daphne và Ophelia thì sao?”
“Hai chị ổn bố ạ,” tôi trấn an bố. “Hai chị nhớ bố lắm, nhưng hai chị sẽ trông nom nhà cửa cho đến khi bố về.”
Nếu tôi mà nói dối thì mẹ tôi sẽ bỏ mạng.
Đây là câu mà tụi con gái nhỏ thường nói khi để quên chuỗi hạt ở nhà thờ. Mà, đằng nào mẹ tôi cũng chết rồi, phải không, thế thì hại gì đến ai? Với lại, ai biết được điều đó chứ? Biết đâu tôi lại ghi được điểm trên thiên đàng thì sao.
“Về nhà ư?” Cuối cùng bố cũng nói khi có một âm thanh như tiếng thở dài buột ra khỏi miệng. “Chắc là trong thời gian tới thì không đâu. Ừ... chắc là trong thời gian tới thì không đâu.”
Bố ngấm ngầm nhìn tờ lịch trên tường và bắt đầu đi tới đi lui trong căn phòng nhỏ, cố tình tránh ánh mắt của tôi. Có vẻ như bố đã quên là có tôi ở đó.
“Con vừa thú tội xong,” tôi nói.
“Ừ ừ,” bố nói, và vừa tiếp tục đi tới đi lui vừa lẩm bẩm một mình.
“Con nói với Thanh tra Hewitt rằng con đã giết chết Horace Bonepenny.”
Bố dừng lại bất thình lình như thể vừa giẫm lên một thanh kiếm. Ông quay người nhìn tôi chằm chằm bằng cái nhìn buồn khủng khiếp - đây vẫn thường là vũ khí của ông khi xử lý mấy đứa con gái.
“Con biết gì về Horace Bonepenny?” Ông hỏi tôi bằng giọng lạnh lùng.
“Cũng nhiều bố ạ,” tôi nói.
Và rồi, thật bất ngờ, bao nhiêu hơi sức như rút cạn khỏi người bố, hai má ông hõm xuống như má của một tay buôn ngựa. Bố ngồi xuống mép giường, xoè rộng một bàn tay ra để lấy lại bình tĩnh.
“Con nghe lỏm được cuộc cãi cọ giữa bố và ông ta trong phòng làm việc của bố,” tôi nói. “Con xin lỗi vì đã nghe trộm. Con không cố ý, nhưng tại con nghe thấy tiếng nói lúc nửa đêm, nên con đi xuống cầu thang. Con biết ông ta tống tiền bố… thế nên hai người mới cãi nhau. Đây là lý do khiến con nói với Thanh tra Hewitt là con giết chết ông ta.”
Lần này câu nói của tôi thấm nhuần vào trong bố.
“Giết chết ông ta ư?” Bố hỏi. “Con nói giết chết ông ta là thế nào?”
“Con không muốn người ta biết rằng bố đã giết ông ta,” tôi nói.
“Bố ư?” Bố đứng vọt dậy từ mép giường. “Lạy Chúa tôi! Tại sao con lại nghĩ là bố giết ông ta hả?”
“Có sao đâu bố,” tôi nói. “Ông ta xứng đáng bị thế mà. Con sẽ không nói với ai đâu. Con hứa đấy.”
Tôi đưa tay phải lên ngang ngực và tình nguyện được hy sinh, còn bố nhìn tôi chằm chằm như thể tôi là sinh vật ướt nhoét quái dị vừa mới chui ra khỏi bức tranh của Hieronymus Bosch[50].
“Flavia,” bố nói, “con hãy hiểu điều này: mặc dù rất muốn nhưng bố không giết Horace Bonepenny.”
“Bố không giết á?”
Tôi gần như không thể tin nổi điều này. Tôi đã kết luận rằng chắc chắn bố là người gây án mạng, và sẽ là một sự thất bại cay đắng khi phải thừa nhận mình đã sai.
Nhưng tôi vẫn nhớ có lần Feely nói với tôi rằng thú tội rất tốt cho linh hồn - chị ta nói thế khi quặp cánh tay tôi ra sau lưng để bắt tôi nói cho chị ta biết xem tôi đã làm gì với cuốn nhật ký của chị ta.
“Con nghe thấy bố nói về việc giết chết giáo viên phụ trách ký túc xá, ông Twining ấy. Con đã đến thư viện tra cứu thông tin trong chồng báo cũ. Con có nói chuyện với cô Mountjoy - cô ấy là cháu họ của ông Twining. Cô ấy vẫn nhớ cái tên Jacko và Horace Bonepenny trong cuộc điều tra. Horace đã ở quán trọ Mười Ba Con Vịt, ông ta mang theo con chim dẽ giun chết toi từ tận Na Uy và giấu nó trong một chiếc bánh.”
Bố buồn bã lắc đầu, không chịu khâm phục kỹ năng trinh thám của tôi, giống như một con gấu già tuy đã bị bắn hạ nhưng vẫn chưa chịu gục xuống.
“Đúng thế,” bố nói, “nhưng con thật sự tin bố con có thể là một kẻ giết người máu lạnh à?”
Khi tôi thoáng nghĩ đến điều đó - thật sự suy ngẫm về điều đó - tôi thấy mình quả là ngu ngốc. Tại sao tôi không nhận ra điều này từ trước chứ? Kẻ sát nhân máu lạnh là một trong số rất nhiều thứ mà bố không thể làm.
“Dạ... không ạ,” tôi đánh bạo nói.
“Flavia, nhìn bố này,” bố nói, nhưng khi tôi ngẩng lên nhìn vào mắt bố, trong một khoảnh khắc yếu đuối, tôi thấy như tôi đang nhìn vào chính mình và tôi phải quay mặt đi.
“Horace Bonepenny không hẳn là một người đàn ông tử tế, nhưng ông ta không đáng phải chết. Không ai đáng phải chết cả,” bố nói, giọng ông nhỏ dần như một chương trình phát thanh ở rất xa, và tôi biết ông không còn nói chuyện với mình tôi nữa.
“Trên thế giới này có quá nhiều cái chết rồi,” bố nói thêm.
Bố ngồi đó, nhìn hai bàn tay, hai ngón cái vuốt ve nhau, các ngón tay còn lại đan vào nhau như những khớp bánh răng của một chiếc đồng hồ cũ kỹ vậy.
Một lúc sau, bố nói, “Vậy còn Dogger?”
“Chú ấy cũng ở đó,” tôi thừa nhận. “Bên ngoài phòng làm việc của bố...”
Bố lẩm bẩm.
“Đó là điều bố lo,” ông nói nhỏ. “Bố sợ điều đó hơn bất cứ điều gì khác.”
Và rồi, khi màn mưa trút xuống ào ào ngoài cửa sổ, bố bắt đầu kể.