You carry Mother Earth within you. She is not outside of you. Mother Earth is not just your environment. In that insight of inter-being, it is possible to have real communication with the Earth, which is the highest form of prayer.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Cynthia Kadohata
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Lưu Anh
Biên tập: Gió
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 16
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1345 / 60
Cập nhật: 2015-09-11 13:30:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14
ôi nhìn ba bước đi, tôi ngồi bật dậy và chạy theo sau ông tới trước cửa phòng ngủ, rồi ngập ngừng dừng ở đó. Mẹ đang khóc trong tư thế quỳ xuống bên cạnh giường và cúi xuống người chị tôi. Ba quỳ xuống trước giường và lấy hai tay ôm đầu của Lynn. Ngoài trời đã sáng, nhưng không ai buồn để ý tới việc tắt ngọn đèn. Tôi nhìn vào ngọn đèn. Nó vẫn sáng bởi vì Lynn đã đòi bật nó lên, nhưng giờ chính chị lại đi mất rồi. Tôi không hiểu được vì sao. Tôi chầm chậm bước vào. Ba mẹ hầu như không để ý tới tôi. Ba đến gần bên mẹ và vòng tay ôm lấy bà.
Lynn trông rất thanh thản, thậm chí chị rất đẹp, nhưng nhợt nhạt. Mắt chị không nhắm hẳn, và miệng chị hơi hé mở. Mẹ đột nhiên bật dậy và giữ một cái gương trước mũi của Lynn, rõ ràng là bà hy vọng thấy một vệt mờ từ hơi thở của chị phả trên mặt gương. Nhưng gương vẫn trong veo.
Tôi hỏi: “Ai ở với chị lúc đó?”
Giọng của ba lạc đi khi ông nói: “Không ai hết.”
Điều đó khiến tôi đau nhói. Tôi ao ước giá như mình đừng đi ra ngoài. Lẽ ra tôi phải biết rõ hơn. Lẽ ra tôi phải như vậy! Tôi không tưởng tượng ra được là chết khiến chị cảm thấy ra sao. Tôi không biết có vấn đề gì với chị hay không khi chị chỉ có một mình vào ngay cái lúc qua đời. Nhưng tôi nghĩ có lẽ có gì đó.
Rồi ba mẹ lại phải làm cả ngàn việc để chuẩn bị cho đám tang của chị. Mặc dù tôi không hề được ngủ, tôi vẫn không thể chợp mắt được chút nào ngày hôm đó. Cơn thiếu ngủ cộng thêm với cái chết của Lynn làm cho thế giới này trở nên kỳ quái, không thật. Suốt cả ngày người ta tới và đi, vài người trong họ gọi Lynn là “cái xác.” Cuối cùng tôi hét lên với một người trong đó: “Đừng có gọi chỉ như vậy nữa!”. Sau đó mọi người chỉ thì thào xung quanh tôi, nhưng tôi không nghe được họ nói gì.
Mẹ không muốn bỏ bất cứ thứ gì liên quan tới Lynn khi chị còn sống. Trước khi người ta khiêng Lynn đi, mẹ biểu tôi cắt móng tay cả móng tay cho chị và bỏ nó vô một phong bì. Mẹ nói tôi đi thu gom lại những vật dụng của Lynn rải rác trong nhà. Và mẹ muốn tôi gom lại thành một chồng tất cả các số báo có trước khi Lynn chết mà tôi tìm được, để mẹ nhớ được những gì đã xảy ra trên thế giới khi Lynn còn sống trên đời này. Vào buổi chiều khi tôi đi vào phòng tắm, tôi thấy mẹ đang săm soi mấy sợi tóc tìm thấy trên sàn, để có thể giữ lại được những sợi tóc mà mẹ cho là của Lynn. Cuối cùng, mẹ biểu tôi ra ngoài và lục tìm trong thùng rác. Bà muốn biết chắc rằng trong đó không còn gì thuộc về Lynn mà bà muốn giữ lại.
Tôi ra ngoài và lấy một cái túi rác ra khỏi thùng. Tôi đổ hết những thứ bên trong ra ngoài ngay giữa lối vào. Tôi thấy một người hàng xóm đang nhìn, nhưng tôi không quan tâm. Mặt trời rọi ấm áp sau lưng tôi. Nhưng thay vì cảm thấy muốn cằn nhằn, tôi lại cảm nhận được tấm lòng của mẹ. Tôi cảm thấy rất cần giữ lại những món đồ của Lynn. Có mấy con giòi trong cái túi. Tôi không thấy gớm tụi nó, bởi vì tôi đang thi hành một nhiệm vụ. Cái túi đầu tiên có đầy những đồ quý giá: một tờ báo với những chữ viết ngoằn ngoèo mà tôi nhận ra là nét chữ của Lynn; một tờ báo từ một tuần trước; và một cây bút chì mà Lynn đã gặm. Tôi lục hết cả ba cái túi, toàn là những thứ quí giá như vậy.
Trước khi người ta tới mang Lynn đi, tôi cắt một lọn tóc của mình và nhét nó vào trong túi áo pijama của chị. Nhưng rồi tôi nhớ là chị sẽ bận bộ đồ gì khác chớ không phải pijama để đem hỏa táng. Vì vậy tôi cột lọn tóc của tôi quanh cổ chị. Rồi khi Lynn đã đi khỏi nhà, tôi nằm trên giường chị và khóc. Sau khi khóc một hồi, tôi bắt đầu cảm thấy giận dữ. Tôi không hiểu tại sao ông bác sĩ tới coi và khẳng định Lynn đã chết cũng chính là ông bác sĩ đã chăm sóc cho chị. Nếu ông ta là một bác sĩ giỏi, vậy thì tại sao chị lại chết? Và tôi nghĩ có lẽ ông bác sĩ đã lầm mất rồi, ba mẹ cũng lầm, và giờ họ đã đem Lynn đi khỏi nhà trong khi chị vẫn còn một tia hy vọng sống mong manh nào đó. Phép lạ vẫn thường xảy ra trong đời: Biết đâu rồi chị sẽ mở mắt ra! Nếu lỡ mẹ đã cầm gương sai cách không đón được hơi thở yếu ớt của Lynn thì sao?
Thế nhưng tôi biết Lynn đã chết. Tôi có thể cảm thấy được trong lòng mình nơi có hình bóng của chị. Nơi ấy giờ đây trống rỗng.
Thật khó mà giận dữ được lâu trong lúc lòng buồn vô hạn. Chẳng thà tôi cảm thấy tức giận thì tốt hơn, nhưng thay vào đó, tất cả những gì tôi làm là khóc nức nở. Mặc dù người ta lui tới đây suốt cả ngày, căn nhà vẫn trở nên thật cô đơn đến nỗi tôi không thể nào chịu đựng được.
Căn phòng tối dần. Tôi vẫn không động đậy khi nó đang chìm sâu thêm vào bóng tối. Rồi, đột nhiên một cái, tôi hối hả chạy ra ngoài và chạy tới con hẻm phía sau nhà, tôi thấy mặt trời treo lơ lửng phía trên đường chân trời. Tôi nhìn nó cho tới khi nó bắt đầu khuất sau hai cái cây đằng xa. Rồi tôi leo lên một chiếc xe hơi rồi nhìn theo cho tới khi chỉ còn nửa mặt trời ló lên, rồi một phần tư, rồi tôi thấy một nỗi đau khủng khiếp trong lòng mình và tôi chạy thục mạng tới chỗ cái thang tôi thấy ở đằng cuối con hẻm. Tôi vồ lấy cái thang và leo lên nóc một cái ga-ra của ai đó. Tôi lại nhìn thấy mặt trời, rồi chỉ còn một lát mỏng, và rồi nó biến mất, lần cuối cùng mặt trời đã mọc và lặn trong cái ngày chị tôi còn sống.
Tôi đứng trên nóc ga-ra và nhìn bầu trời đang tối dần. Tôi nghe tiếng ba gọi to: “Katie! Katie!.” Tôi không trả lời lại; tôi không muốn nói chuyện với bất cứ ai. Tiếng của ba tiến đến gần hơn rồi đi ra xa. Không biết vì sao tôi lại thấy đau buồn kinh khủng và tôi hét lên: “Ba! Ba ơi!.” Tiếng của ông tới gần lại: “Katie!Katie!.” Giọng ba nghe cũng rất đau. Tôi vội vã leo xuống thang và ngã vào vòng tay ba. Tôi nức nở khóc, khóc mãi, còn ba không hề khóc một chút nào.
Chúng tôi lặng lẽ quay về nhà để ăn bữa tối với cá mòi và cơm.
Sam ăn thong thả, còn mẹ thì cắm cúi ăn. Ba ngồi ăn một cách từ tốn. Còn tôi chẳng ăn gì.
Sam hỏi: “Con đi rót nước được không?”
“Ừ,” mẹ tôi trả lời.
Nó đứng dậy, kéo cái ghế của nó tới cái bồn và đổ đầy nước vào ly. Nó đi hơi khập khiễng khi bước về phía cái bồn nước. Thường thì mắt cá của nó không sao, nhưng từ khi bị tai nạn nó lại thường hay bị đau chỗ đó. Cơn giận khủng khiếp mà trước đây tôi đã có lần thấy lại bừng lên trên gương mặt ba. Ông quay lại nhìn tôi. Tôi nghĩ ba đang giận điên lên với tôi về chuyện gì đó. Đột nhiên, ba đứng dậy. Ông nói: “Đủ rồi, Katie.”
Tôi không rõ ông muốn nói gì, nhưng tôi đứng phắt dậy.
Ba nói: “Con phải chỉ cho ba tìm cái bẫy làm Sam bị thương ở đâu.”
“Dạ được. Mà tại sao?”
“Bởi vì nếu nó còn đó, ba muốn liệng nó đi.”
Mẹ đứng dậy: “Anh muốn làm gì?”
“Em nghe rồi đó.”
“Anh muốn dẫn nó ra ngoài thì phải bước qua xác em cái đã.”
Ba có vẻ lưỡng lự. Cuối cùng, ông nói: “Không.”
Vì vậy một lần nữa tôi lại ngồi vào băng ghế sau và chiếc xe chạy băng qua cánh đồng tới cái nơi mà chúng tôi đã tổ chức đi cắm trại mấy tháng trước đây. Lần cuối cùng tôi ở đó, Lynn và tôi đã cùng ăn cơm nắm với nhau.
Một con thú, chắc là một con sói đồng cỏ, bò ngang cánh đồng khi chúng tôi lái qua. Tôi chỉ cho ba lái xe tới nơi tôi nghĩ rằng chúng tôi đã cắm trại ở đó. Ba biểu tôi ngồi chờ trong xe.
Tôi nói: “Cẩn thận nghe Ba.”
Ông trả lời: “Ba biết rồi.”
Tôi ngồi đó khi bầu trời chuyển sang màu đen và không khí ngày càng mát mẻ. Tôi đóng cửa lại và tựa người lên tấm kính, nhìn theo ba, lúc này đang bật một cây đèn pin, lùng sục mấy cái cây và cánh đồng, gương mặt của ba sáng lên dưới ánh đèn đầy vẻ giận dữ và cương quyết, và chắc là cả một chút điên rồ, về cái vật đã làm bị thương con trai ông, cái vật này thuộc quyền sở hữu của một lão nhà giàu bần tiện, kẻ cũng đang sở hữu luôn ngôi nhà trong mơ của ông. Ba đi khuất tầm nhìn của tôi một lúc lâu, và tôi cảm thấy lo và thậm chí bắt đầu thấy sốt ruột, nhưng rồi ánh đàn pin của ông lại lóe lên ở đâu đó khác với chỗ mà tôi tưởng ba mình đang ở. Tôi không biết việc ông tìm ra cái bẫy thì lợi lộc gì hay không, nhưng dù sao tôi cũng thấy mừng khi ông tìm kiếm nó. Tôi thích ở ngoài này hơn là ở nhà. Tôi cảm thấy sợ phải quay về lại ngôi nhà nơi mà Lynn không còn ở đó nữa. Tôi nghĩ mình sẽ buồn không thể tả, tôi chết mất.
Cuối cùng khi ba tôi quay lại, ông liệng một cái gì đó vô trong thùng xe rồi ngồi vào xe. Trông ba còn giận dữ hơn cả lúc nãy.
“Loại người gì mà lại đặt cái thứ bẫy như vậy ở giữa đồng cỏ chớ? Nó muốn bắt cái gì chớ?”
“Chắc là sóc?”
Ba nhìn tôi: “Sóc?!”
Thình lình ông rồ máy xe, và chúng tôi lại băng qua cánh đồng chạy về phía nhà của ông Lyndon. Tim tôi đập mạnh khi chúng tôi lái ngang qua bãi cỏ. Tôi nghĩ chắc ba mình muốn quát vào mặt ông Lyndon. Điều này làm tôi sợ. Trước hết, tựa như ba đã biến thành một con người khác. Người cha thật sự của tôi đâu rồi, người luôn suy nghĩ cẩn thận trước khi hành động? Sau đó, ông Lyndon là, ờ, ổng chính là ông Lyndon. Mình không thể chỉ đơn giản bước vào nhà ổng rồi quát vào mặt ổng. Tại sao chúng tôi lại không thể trở về nhà để chăm sóc cho mẹ và Sam?
Chúng tôi tới con đường thuộc quyền tư nhân ở trước tòa dinh thự, và ba vẫn tiếp tục lái. Ông dừng xe không xa căn nhà lắm và mở nắp thùng xe rồi lấy ra một thanh gỗ nhỏ. Ba bước trên lối vào nhà, tiến về phía một chiếc Cadillac màu đỏ và phang cây gậy vào tấm kính chắn gió đằng trước.
Thủy tinh vỡ vụn ra phía trước và văng tung tóe xuống mặt đất. Tôi nghĩ mình thấy ai đó nhìn ra ngoài cửa sổ từ trong tòa dinh thự về phía người đàn ông đang giận phát điên là ba tôi. Ba vào trong xe và chúng tôi lái đi.
Tôi nhìn ba, nhưng gương mặt ông không biểu lộ một cảm xúc nào. Có lần Lynn đã nói ba là người quyết đoán nhất trên đời. Tôi nhớ có lần chị và tôi thấy một người cư xử lỗ mãng với ba. Sau đó tôi hỏi chị tại sao ba không đánh gã thô lỗ kia. Lynn nói ba chấp nhận sự thô lỗ và sự không công bằng về phía mình, cũng giống như ba chấp nhận làm công việc nặng. Nếu có thể, chắc ba đã làm việc suốt ngày suốt đêm và không bao giờ ngủ. Ba là người rộng lượng nhất trên đời này. Tôi biết điều đó mà không cần Lynn nói. Nếu ông Lyndon hay bất cứ người này khác tới nhà chúng tôi mà cảm thấy đói bụng, ba sẽ tiếp đãi họ và mời họ những món ăn ngon nhất trong bếp – món cá tươi nhất, cơm nóng nhất, mấy miếng bánh nướng ngọt nhất. Ba sẽ biểu chúng tôi tỏ ra lịch sự. Ba chấp nhận bất cứ thứ gì và bất cứ ai, chỉ cần ông kiếm đủ tiền để nuôi gia đình. Nhưng tôi khám phá ra trong cái ngày duy nhất này, có lẽ lần đầu tiên, kể từ khi tôi biết tính ông, ba đã không chịu chấp nhận cái cách mà cuộc đời ông đang hướng theo.
Tôi nhìn cái thị trấn nhỏ bé của chúng tôi của chúng tôi trôi qua trước mắt. Chúng tôi lái xe qua khỏi cái địa điểm lẽ ra phải quẹo để về nhà. Chúng tôi không dừng lại cho tới khi đã vào trong thị trấn kế bên. Ba tấp xe vô lề và ngồi dựa lưng vào ghế. Tôi không nhúc nhích. Ba là ba của tôi, nhưng tôi không biết chắc lúc này ông có tỉnh táo hay không. Từ khi Lynn bị bệnh, ba trở nên gắt gỏng hơn, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cái gì ở ba giống như tối nay.
Ba quan sát tôi.
Ông hỏi: “Đói không?”
“Dạ có.”
“Ừ, ba biết con đói mà.”
Đột nhiên ánh sáng rọi sáng xe của chúng tôi, và rồi xe của ông cảnh sát trưởng tốp ngày phía trước xe chúng tôi. Ông cảnh sát trưởng xuống xe và chầm chậm bước tới. Ông chiếu ánh đèn pin vào chúng tôi. Ba cuộn cửa kính xuống.
Ông cảnh sát trưởng hỏi: “Đi dạo hả?”
Ba lưỡng lự. Tôi thấy tự nhiên ông không suy nghĩ được. Tôi cảm thấy muốn bảo vệ ba. Trước đây chưa bao giờ tôi nghĩ tôi lại phải bảo vệ ba mình. Nhưng lúc này tôi càn bảo vệ ba trước người đàn ông kia. Điều duy nhất tôi suy nghĩ ra được để nói là: “Ba con đang chở con đi ăn bánh thịt chiên dòn!”
“Bánh thịt chiên dòn?”, ông cảnh sát trưởng hỏi lại. Ông ta có vẻ bối rối: ‘Cháu muốn nói tiệm Pepe’s đó hả?”
“Dạ phải, thưa ông,” tôi trả lời, mặc dù tôi chưa bao giờ nghe nói tới tiệm Pepe’s. Thật ra thì tôi chỉ mới ăn bánh thịt chiên dòn có một lần vài năm trước trong một nhà hàng ở Illinois. Tôi chẳng biết vì sao tôi lại nảy ra ý nghĩ về bánh thịt chiên dòn.
Ông cảnh sát trưởng quan sát ba tôi: “Chúng tôi vừa biết có một sự cố ở nhà ông Lyndon.”
“Ồ,” ba tôi kêu lên.
“Có ai đó đã đập chiếc xe Caddy của ổng.”
“Ồ.”
Ông cảnh sát trưởng chiếu đèn pin vào tôi. “Họ cho rằng thủ phạm đi một chiếc Ford màu xanh nhạt.”
Chiếc Oldsmobile của chúng tôi màu xám, xám nhạt. Viên cảnh sát trưởng lia ánh đèn pin của ông ta ra lên chiếc xe của chúng tôi. Ba nghiêng người ra và nói: “Chúng tôi lúc nào cũng đi xe Oldsmobile.”
Ông cảnh sát trưởng thò người vào và chiếu đèn pin lên tôi. Tôi mỉm cười, nhưng chắc chắn ông ta biết tôi vừa mới khóc. Ổng hỏi: “Có chuyện gì hả?”
Tôi nói: “Chị con mất rồi.” Tôi òa ra khóc.
Ông ta tắt đèn pin. Ông ta có vẻ suy nghĩ gì đó. Trời đêm đã thêm lạnh, và khi ông ta thở qua miệng mình, hơi lạnh phả ra trước mặt ông. Ông ta bật đèn pin lên lại và chiếu vào người ba. Ông ta lại tắt nó lần nữa, rồi đứng thẳng người lên và gật đầu với ba tôi: “Tốt hơn nên mua cho nó vài cái bánh thịt chiên dòn đi.”
Chúng tôi lái xe về một hướng khác và dừng lại trước một nhà hàng Mexico có tên là Pepe’s. Tôi không nói gì, nhưng tôi rất ngạc nhiên khi mọi chuyện lại biến chuyển như vậy. Tôi đã thích món bánh thịt ngay cái lần duy nhất tôi được ăn trước đây. Nhưng lúc này mà đi ăn nó thì đúng là quái đản, vào cái lúc lòng tôi đang buồn bã nhất.
Sàn của nhà hàng làm bằng những viên gạch đầy màu sắc, và tất cả những cái bàn đều được lát bằng những viên gạch màu xanh và trắng. Áo pông-sô và mũ rộng vành treo đầy trên các bức tường. Một ca sĩ đang ngân nga bằng tiếng Tây Ban Nha từ cái đĩa hát. Không khí rất sôi nổi. Một người phục vụ tới trước chúng tôi và hỏi: “Bữa tối cho hai người phải không, các bạn?”
Buổi tối hôm nay giống như không thật. Chị tôi đã mất, và tôi thì sắp sửa ăn bánh nhân thịt chiên dòn. Tôi kêu năm cái. Ở Illinois, tôi đã ăn một cái. Còn lúc này tôi ăn cả năm cái trong lúc ba nhìn tôi, hơi ấn tượng và có lẽ một chút lo lắng. Ba nói: “Con coi chừng bội thực.”
Khi chúng tôi về nhà, mẹ đang may một đường viền áo trong nhà bếp. Mẹ đang sửa lại chiếc áo đầm màu đen mà tôi biết mình sẽ mặc trong lễ tang.
Mẹ nói: “Em lo quá.”
“Katie ăn năm cái bánh nhân thịt,” ba nói. “Thành ra hơi lâu.”
Cả ba và mẹ đều nhìn vào bụng tôi như thể đang chờ nó nổ tung ra vậy. Khi nó không nổ, mẹ lại ngước lên nhìn ba. Mẹ lại nói cái điều mà bà hay nói mỗi khi muốn nhắc ba rằng ông không thể chịu nổi một sinh hoạt bất bình thường nào. “Anh còn cả một ngày dài vào ngày mai nữa đó.”
Ba và mẹ bước ra khỏi bếp. Mẹ không bắt tôi rửa chén. Và bà cũng không tự mình làm. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ đi ngủ mà để nguyên cả một bồn đầy những chén đĩa còn dơ. Và tôi thì chưa bao giờ tự rửa chúng trừ khi bị la rầy. Nhưng tối hôm đó tôi nghĩ mình nên làm. Tôi lau thành bếp và thậm chí chùi cả sàn nhà. Tôi không biết dùng cái miếng xốp nào để lau thành bếp. Có vẻ như mẹ tôi dùng từng cái nhau tùy vào chuyện mẹ đang làm gì. Nhưng ở đây chỉ có một miếng xốp trong bồn. Một dãy chai lọ đựng nước rửa chén được đặt bên dưới cái bồn. Nhưng không có thêm miếng xốp nào khác. Tôi tưởng tượng ra mẹ sẽ bực mình như thế nào nếu tôi dùng sai miếng xốp. Nếu có Lynn ở đây, chị có thể chỉ cho tôi nên dùng miếng xốp nào, chị có thể chỉ cho tôi nên làm gì tiếp theo. Tôi không biết làm gì hết khi không có chị chỉ cho. Tôi gục đầu xuống bàn và khóc. Sau cùng tôi nhúng ướt một cái khăn rửa chén và dùng nó để lau thành bếp, cái bàn, và cả mấy cái ghế. Khi tôi xong việc thì trời đã khuya. Tôi ngồi xuống bàn mà không biết làm gì tiếp.
Sau đó tôi nằm trên giường và nhìn thấy con bướm đêm hạnh phúc đó, nó vẫn còn sống, bay lượn từ cái đèn ngủ lên tường rồi xuống lại cái đèn ngủ. Rồi tôi hiểu ra rằng mình đã trông thấy điều gì trong đôi mắt của Lynn vào tối hôm qua: Chị đã ước mình là con bướm kia. Có lẽ đó là điều cuối cùng chị ao ước.
Kira-Kira Kira-Kira - Cynthia Kadohata Kira-Kira