Số lần đọc/download: 0 / 18
Cập nhật: 2020-11-29 02:16:03 +0700
Chương 14
M
arnie chăm chú nhìn tấm ảnh của Robert Martin vài giây rồi lắc đầu. “Không phải. Người gửi thư không đẹp trai bằng và tóc cũng khác, dày hơn, không chải hất ra đằng sau mà hất sang một bên. Dù sao tôi cũng nói với cô rồi, ông ta có mắt màu nâu sẫm, gần như đen, còn người trong ảnh mắt lại nhạt màu. Đây là bố cô ta à?”
Roz gật đầu.
Marnie trả lại tấm ảnh, “Mẹ tôi luôn nói, không bao giờ được tin một người đàn ông có dái tai nằm thấp hơn khuôn miệng. Đó là dấu hiệu của bọn tội phạm. Nhìn ông ta xem.”
Roz nhìn kĩ hơn. Cô đã không để ý đến chi tiết đó vì tai ông ta bị tóc che khuất, nhưng quả thật, đôi tai của Martin trông mất cân đối một cách bất thường với toàn bộ gương mặt. “Mẹ bà có quen tên tội phạm nào sao?”
Marnie khịt mũi, “Tất nhiên là không. Chỉ là mấy chuyện tầm phào thôi.” Bà ta nghển cổ lên nhìn tấm ảnh lần nữa, “Dẫu sao thì, hẳn ông ta phải được xếp vào loại côn đồ hạng nặng.”
“Ông ta chết rồi.”
“Có lẽ ông ta đã di truyền lại cho con gái. Cô ta còn hơn cả hạng nặng ấy chứ.” Bà ta vẫn mải mê giũa móng tay, “Chỉ là tò mò thôi, nhưng cô lấy nó ở đâu đấy?”
“Tấm ảnh á? Sao bà lại hỏi vậy?”
Marnie đập đập cái giũa móng tay vào góc trên bên phải tấm ảnh, “Tôi biết nó được chụp ở đâu.”
Roz nhìn về chỗ bà ta chỉ. Trên nền bức ảnh, phía sau đầu Martin là một phần chiếc chao đèn với họa tiết hình những chữ “y” lộn ngược. “Có lẽ là trong nhà ông ta.”
“Không phải. Hãy nhìn biểu tượng này xem. Chỉ có một nơi duy nhất gần đây có loại chao đèn như vậy thôi.”
Họa tiết kia là lambda (λ), kí tự thứ 11 trong bảng chữ cái Hy Lạp, giờ Roz đã nhận ra đó cũng là biểu tượng của người đồng tính. “Ở đâu?”
“Một quán bar ngay gần sông. Vào đó để tiêu khiển.” Marnie cười khúc khích, “Nôm na là một nhà thổ của gay.”
“Chỗ đó tên gọi là gì?”
Marnie lại cười khúc khích, “Gà Trống Trắng.”
Người chủ quán bar nhận ra tấm ảnh ngay lập tức. “Mark Agnew,” anh ta cho biết. “Vẫn thường xuyên đến đây. Nhưng phải một năm rồi tôi không nhìn thấy ông ta. Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Ông ta chết rồi.”
Người chủ quán thuỗn mặt ra. “Chắc tôi phải làm ăn chân chính thôi,” vẻ mặt giả bộ ủ rũ của anh ta trông thật tức cười. “Vì AIDS và suy thoái kinh tế nên giờ chỗ chúng tôi chẳng còn bao nhiêu khách hàng nữa.”
Roz mỉm cười vẻ cảm thông, “Hi vọng nói ra điều này có thể an ủi anh. Tôi không nghĩ ông ta chết vì AIDS đâu.”
“Chà, cũng an ủi được phần nào đấy, cô gái đáng yêu ạ. Ông ta cũng quan hệ bừa bãi lắm, Mark ấy mà.”
Bà O’Brien tiếp đón cô với vẻ bất mãn. Thời gian chờ đợi và bản tính đa nghi khiến bà ta tin rằng Roz chẳng dính dáng gì đến truyền hình, cô chỉ đến để moi móc thông tin về mấy đứa con trai của bà ta thôi, “Da mặt cô cũng dày thật đấy.”
“Ồ,” Roz nói với vẻ thất vọng thấy rõ. “Bà đã đổi ý về chương trình của chúng ta rồi sao?” Những lời nói dối sẽ có tác dụng nếu được lặp đi lặp lại, cô nghĩ thầm.
“Chương trình truyền hình ấy hả? Cho tôi xin. Cô là kẻ rình mò xấu xa. Cô muốn gì? Nói thẳng ra xem.”
Roz lấy lá thư của Crew ra khỏi cặp táp và đưa nó cho bà ta, “Lần trước tôi đã cố gắng hết sức để giải thích, nhưng đây là những điều khoản trong bản hợp đồng của tôi với công ty sản xuất chương trình truyền hình. Đọc nó đi và bà sẽ thấy các mục tiêu và sứ mệnh mà họ muốn đạt được qua chương trình này được quy định khá rõ ràng.” Cô chỉ vào chữ kí của Crew, “Đây là chữ kí của đạo diễn. Ông ta đã nghe đoạn băng mà chúng ta thu âm tại đây và rất thích nội dung trong đó. Ông ta hẳn sẽ thất vọng nếu giờ bà từ chối tham gia.”
Được xem chứng cứ bằng văn bản, bà O’Brien có vẻ bị ấn tượng. Bà ta chau mày vẻ hiểu biết khi nhìn những từ ngữ mà mình không hề đọc được. “Chà. Có hợp đồng nại khác. Nẽ ra nần trước cô nên cho tôi xem nuôn thứ này mới phải.” Bà ta gấp nó lại, định bỏ vào túi áo.
“Rất tiếc,” Roz mỉm cười, rút lá thư khỏi những ngón tay của bà mẹ. “Đây chỉ là bản sao mà tôi đang giữ, và tôi cần nó để xử lý các vấn đề về thuế và hành chính. Nếu mất thứ này thì chẳng ai trong chúng ta được nhận đồng nào đâu. Tôi có thể vào nhà chứ?”
Bà mẹ mím chặt môi, “Tôi nghĩ chẳng có ní do nào để từ chối cả.” Nhưng sự nghi ngờ vẫn không dễ gì tiêu tan, “Nhưng cô nhớ cho, tôi sẽ không trả nời câu nào đáng ngờ đâu đấy.”
“Tất nhiên là không rồi.” Roz bước vào phòng khách, “Có ai khác ở nhà không? Nếu được, tôi muốn trao đổi cả với họ nữa. Càng nhiều góc nhìn thì bức tranh sẽ càng toàn diện.”
Bà mẹ nghĩ ngợi một lúc. “Mike!” Đột nhiên bà ta lớn tiếng gọi, “Xuống đây nào. Có một cô gái muốn nói chuyện với con. Nhanh nên! Xuống đây!”
Vốn chỉ hứng thú nói chuyện với Gary, nhưng giờ Roz thấy khả năng cao là mình sẽ phải ném thêm vài tờ 50 bảng ra ngoài cửa sổ. Cô mỉm cười cam chịu khi hai cậu con trai trẻ măng gầy gò tới ngồi cùng bà mẹ trên sofa. “Chào,” cô vui vẻ nói, “Tên tôi là Rosalind Leigh và tôi đại diện cho một công ty truyền hình. Chúng tôi đang tiến hành sản xuất một chương trình liên quan đến bất công xã hội…”
“Tôi kể với chúng rồi,” bà mẹ cắt lời cô, “Không cần quảng cáo dài dòng đâu. Cho mỗi đứa 50 bảng nà được. Phải không nhỉ?”
“Còn phải xem thông tin ấy có xứng đáng với số tiền tôi bỏ ra không đã. Tôi cần phải trao đổi thẳng thắn với họ trong vòng một tiếng và tôi chỉ sẵn sàng trả 50 bảng một người nếu tôi có thể nói chuyện với người con trai cả Peter và cậu út Gary. Đó là cách giúp tôi thu thập quan điểm và góc nhìn toàn diện nhất có thể. Tôi muốn biết việc cảm giác của anh ta khi được cho đi làm con nuôi.”
“Chà, chỉ có Gary thôi,” bà mẹ chỉ về cậu con trai với dáng vẻ không mấy nhiệt tình ngồi bên trái. “Đây nà thằng út. Peter thì đang ngồi tù, nên cô có thể nói chuyện với Mike. Nó nà đứa thứ ba và thời gian bị đưa đi nàm con nuôi cũng nâu chả kém gì Peter.”
“Được rồi, vậy bắt đầu thôi.” Roz mở danh sách câu hỏi mà cô đã cẩn thận chuẩn bị ra và bật máy ghi âm. Cô để ý thấy hai “cậu bé” này có đôi tai hoàn toàn cân xứng.
Cô dành nửa giờ đầu để nói chuyện với Mike, khuyến khích cậu ta hồi tưởng lại thời thơ ấu ở nhà bố mẹ nuôi, quá trình học tập (hay nói đúng hơn là việc trốn học thường xuyên đã làm ảnh hưởng tới học tập ra sao), và những rắc rối trước đây của cậu ta với cảnh sát. Cậu ta rất ít nói, thiếu cả những kĩ năng giao tiếp cơ bản, thậm chí không thể diễn đạt mạch lạc suy nghĩ của mình. Mike để lại ấn tượng mờ nhạt đến nỗi Roz phải băn khoăn, nếu bên Ủy ban Công tác Xã hội cứ để mẹ ruột nuôi nấng, thì có khi tính cách của cậu ta lại tích cực hơn. Vì dù có gây ra bao nhiêu lỗi lầm đi chăng nữa, thì bà mẹ này có vẻ vẫn rất mực yêu thương con cái. Và được yêu thương chính là nền móng của sự tự tin.
Sau nửa tiếng che giấu sự sốt ruột bên dưới nụ cười gượng gạo, rốt cuộc cô cũng nhẹ nhõm quay sang Gary. Nãy giờ cậu ta vẫn tỏ ra hứng thú lắng nghe cuộc trò chuyện. “Tôi được biết cậu không hề rời khỏi nhà cho đến khi 12 tuổi,” cô xem lại ghi chú. “Đó cũng là lúc cậu được gửi tới trường nội trú. Tại sao lại như vậy?”
Cậu ta cười nhăn nhở, “Trốn học, trộm cắp, chẳng khác gì các anh tôi, nhưng trường Parkway cho rằng tôi tệ hơn bọn họ và chuyển tôi vào Chapman House. Ở đó cũng được. Tôi đã học được chút ít. Nấy được hai chứng chỉ CSE* trước khi bỏ học.”
Cô nghĩ chắc hẳn sự thật hoàn toàn ngược lại. Trường Parkway khẳng định cậu ta thông minh hơn những người anh trai và xứng đáng được bồi dưỡng thêm. Cô bắt đầu lèo lái, “Thật tốt quá. Chứng chỉ CSE có giúp cậu dễ xin việc hơn không?”
“Tôi chưa bao giờ thử. Chúng tôi đang rất ổn mà.”
Roz nhớ lại lời Hawksley. “Chúng là mấy tên trộm cướp chuyên nghiệp, và chỉ đơn giản là không chịu tuân theo các chuẩn mực đạo đức mà những người như chúng ta đề cao.”
“Cậu không muốn tìm việc sao?” Cô tò mò hỏi.
Gary lắc đâu, “Nà chị thì chị có muốn không, sau khi bỏ học như thế?”
“Có chứ,” cô ngạc nhiên trước câu hỏi của cậu ta. “Tôi luôn khao khát được ra ở riêng.”
Gary nhún vai, cảm thấy khó hiểu trước mong muốn của cô cũng hệt như cô cảm thấy khó hiểu khi cậu ta không có suy nghĩ giống mình. “Chúng tôi nuôn sống co cụm với nhau. Gộp chung nại thì tiền trợ cấp sẽ nhiều hơn. Chị không hòa hợp với bố mẹ nắm, đúng không?”
“Không hòa hợp đến mức muốn sống chung với họ.”
“Ừ,” cậu ta tỏ vẻ thông cảm. “Thảo nào.”
Thật vô lý làm sao, nhưng Roz bỗng thấy ghen tị với Gary. “Mẹ cậu kể với tôi rằng có dạo cậu làm nhân viên giao nhận. Cậu có thích công việc đó không?”
“Cũng bình thường. Núc đầu thì công việc cũng ổn, nhưng nái xe nòng vòng trong nội thành chẳng có gì vui cả, mà công việc ấy thì chỉ giới hạn trong phạm vi thành phố thôi. Sẽ không đến nỗi tệ nắm nếu não chủ chết giẫm ở đó trả chúng tôi đủ tiền để thanh toán cho chiếc xe.” Cậu ta lắc đầu, “Não ta kiệt sỉ vô cùng. Chúng tôi đành phải từ bỏ mấy chiếc xe sau sáu tháng. Và thế đấy, không có xe thì không có việc.
Đến giờ Roz đã được nghe ba phiên bản khác nhau về lý do khiến các cậu con trai nhà O’Brien mất việc ở Wells-Fargo. Cô tự hỏi đâu mới là sự thật, hay câu chuyện nào cũng đều chính xác, chỉ là được nhìn từ các góc độ khác nhau? Sự thật không còn mang tính chất tuyệt đối như cô từng nghĩ nữa. Cô lại dẫn dụ với vẻ mặt hết sức tự nhiên, “Mẹ cậu còn kể, cậu từng tiếp xúc với một nữ sát nhân khi làm công việc đó.”
“Ý chị nà Onive Martin?” Dù cậu ta đã từng e sợ thế nào vào thời điểm xảy ra vụ án thì giờ rõ ràng mối băn khoăn ấy cũng đã tan biến, “Kể cũng thú vị thật. Tôi đã từng giao thư cho cô ta vào các tối thứ Sáu, thư của một gã mà cô ta phải nòng, rồi… Bùm! Cô ta gây án. Nói thật với chị, vụ ấy khiến tôi bị sốc. Không thể tin được cô ta nại bị điên.”
“Cô ta đã chặt mẹ và em gái mình thành nhiều mảnh.”
“Đúng vậy.” Gary trầm ngâm, “Tôi không tài nào hiểu được chuyện đó. Cô ta khá dễ chịu. Tôi biết cô ta từ nhỏ. Hồi đó cô ta cũng hiền lành. Những kẻ khó ưa phải nà bà mẹ bò cái và cô em gái kiêu căng ngạo mạn kìa. Chúa ơi, một con bé xấu tính kinh khủng.”
Roz cố giấu sự ngạc nhiên. Mọi người đều yêu quý Amber. Cô đã nghe câu này bao nhiêu lần rồi? “Có lẽ Olive đã chịu đựng đủ, và đến một ngày bỗng nổi điên, chuyện như thế vẫn thường xảy ra mà.”
“Ồ,” Gary nhún vai. “Tôi không thắc mắc về chuyện chịu đựng, mà về cách giải quyết. Tại sao cô ta không trốn đi cùng người tình trong mộng. Ý tôi nà, kể cả não ấy đã kết hôn, thì não cũng có thể mua cho cô ta một căn hộ ở đâu đó. Coi bộ não cũng giàu có, chi cho chúng tôi đậm thế cơ mà. 20 bảng một nần đưa thư. Chắc não phải có cả đống tiền.”
Roz nhay nhay đầu bút chì, ra chiều đăm chiêu, “Có lẽ cô ta không hề gây án. Có lẽ cảnh sát đã bắt sai người. Đúng không, chuyện đó đâu phải mới xảy ra lần đầu?”
Bà mẹ mím chặt môi, “Cảnh sát đều là nũ đồi bại. Bắt bớ vô tội vạ. Cô sẽ chẳng muốn sống trên đất nước này nếu nà người Irenand đâu. Nếu nà người Irenand thì cô chết chắc.”
Cô nhìn vào Gary, “Vậy thì, nếu Olive vô tội thì ai mới là hung thủ?”
“Tôi không nói cô ta vô tội,” cậu ta đáp ngay. “Cô ta nhận tội nên chắc hẳn cô ta chính nà hung thủ. Ý tôi muốn nói ở đây nà, cô ta không cần thiết phải nàm thế.”
Roz nhún vai vẻ thờ ơ, “Chỉ là cáu giận và mất kiểm soát. Có lẽ cô em gái đã kích động cô ta. Cậu vừa nói là cô ta rất xấu tính còn gì.”
Ngạc nhiên thay, lần này Mike lên tiếng, “Bên ngoài nà thiên thần, nhưng ở nhà nại nà ác quỷ. Giống Tracey nhà chúng tôi.”
Roz mỉm cười với cậu ta, “Ý cậu là gì?”
Bà mẹ giải thích, “Trong nhà thì nà một con khốn, nhưng nại tỏ ra nà thiên thần đáng yêu với tất cả những người khác. Nhưng Tracey nhà tôi không giống Amber Martin chút nào. Tôi nuôn nói rồi tương nai của con bé Amber đó sẽ chẳng sáng sủa gì đâu. Và tôi đã đúng. Người ta chẳng thể cứ sống hai mặt cả đời mà không chịu hậu quả được.”
Roz tỏ vẻ tò mò, “Có vẻ bà biết rất rõ về gia đình ấy nhỉ. Tôi tưởng bà chỉ làm việc cho nhà đó một thời gian ngắn.”
“Đúng nà thế, nhưng sau đó Amber thích một thằng con tôi.” Bà ta ngừng lại, “Dù tôi chẳng nhớ ra đó nà đứa nào nữa. Có phải mày không con?”
Cậu con trai lắc đầu.
“Nà Chris,” Mike đáp.
“Phải rồi,” bà mẹ gật gù. “Cảm nắng thằng bé ngay nập tức và thằng bé cũng thế. Con bé đó ngồi trong phòng này, thoải mái tự nhiên, giương đôi mắt cừu non ngơ ngác nên nhìn thằng bé. Và núc đó chắc con bé chỉ khoảng 12, 13 tuổi. Còn Chris thì tầm 15, 16. Tất nhiên mấy chuyện yêu đương ở tuổi đó chẳng qua chỉ nà bị hấp dẫn bởi vẻ bề ngoài thôi, và con bé rất xinh xắn, tôi phải nói như vậy, trông già dặn hơn tuổi nữa. Dù gì, sau đó chúng tôi đã thấy được bản chất con bé. Nó đối xử với Chris như một ông hoàng, còn coi chúng tôi chẳng ra cái thá gì. Con bé nói với giọng điệu mà trước đây tôi chưa từng nghe thấy. Khốn nạn, khốn nạn, lúc nào cũng như vậy.” Bà ta tức giận ra mặt, “Chẳng hiểu sao tôi nại để yên cho nó, nhưng đúng nà tôi đã không nàm gì cả, vì Chris. Thằng bé mụ mị đầu óc vì nó, tội nghiệp. Tất nhiên mẹ con bé không hề biết gì. Nếu biết chắc bà ta sẽ cấm cản ngay.”
Roz hi vọng sự kích động của cô không quá lộ liễu. Nghĩa là, Chris O’Brien chính là bố đứa trẻ kia? Cũng có lý đấy chứ. Ông Hayes cho rằng một gã ở trường Parkway chính là tác giả của cái thai, và nếu Gwen là người đặt dấu chấm hết cho mối quan hệ đó thì bà ta hẳn phải biết bắt đền ai khi đứa trẻ chào đời. Điều đó cũng giải thích cho lý do Robert Martin phải lần theo dấu vết đứa cháu một cách bí mật. Có lẽ nhà O’Brien không hề biết rằng Chris là bố đứa trẻ, càng không hề biết nếu đứa trẻ được tìm thấy, nó sẽ hưởng thừa kế nửa triệu bảng Anh.
“Thật thú vị,” Roz lẩm bẩm, cố gắng nghĩ ra điều gì để nói. “Tôi chưa từng gặp ai lại có mối liên hệ gần gũi như thế với một kẻ giết người. Chris có buồn không khi biết Amber đã bị giết?”
“Không,” bà mẹ cười hềnh hệch. “Chris đã không gặp con bé đó nhiều năm rồi. Gary còn buồn hơn ấy chứ, đúng không cưng?”
Gary chăm chú quan sát Roz, “Cũng không hẳn. Tôi chỉ hoảng sợ khi thấy mình có niên quan. Ý tôi nà, dù gì tôi cũng quen biết Onive. Có thể cảnh sát sẽ nùng ra bất cứ ai quen biết cô ta và tra khảo họ.” Cậu ta lắc đầu, “Gã nhân tình của cô ta đã cao chạy xa bay. Nếu cô ta khai ra vài cái tên nhằm thoát tội thì hẳn não đã bị nôi vào vụ này rồi.
“Cậu đã gặp người đó bao giờ chưa?”
“Chưa.” Gương mặt Gary đột nhiên tỏ ra ranh mãnh, và cậu ta ném cái nhìn thấu suốt vào cô, môi mỉm nụ cười bí ẩn. “Nhưng tôi biết não đưa cô ta đi đâu để nàm tình. Điều đó có ích cho chị không?”
Cô cũng nhìn thẳng vào cậu ta, “Làm sao cậu biết được?”
“Não già ngu ngốc đó sử dụng noại phong bì tự dán. Mở dễ như bỡn. Tôi đã đọc một ná thư của họ.”
“Ông ta có kí tên không? Cậu có biết tên người đó không?”
Gary lắc đầu, “Tên bắt đầu bằng chữ P. Não kết thư bằng câu ‘Thương yêu, P.’”
Roz không buồn giả vờ thêm nữa, “50 nữa, thêm vào chỗ 150 bảng mà tôi đã đồng ý trả. Nhưng chỉ thế thôi. Tôi nhẵn túi rồi.”
“Được,” Gary chìa tay với điệu bộ giống hệt bà mẹ. “Tiền trao cháo múc.”
Cô lấy ví và lôi hết số tiền bên trong ra. “Hai trăm bảng,” cô đặt nó vào lòng bàn tay cậu ta.
“Tôi biết cô không phải người của công ty truyền hình mà,” bà mẹ khó chịu thấy rõ. “Tôi biết mà.”
“Giờ sao?” Roz hỏi Gary.
“Họ hẹn hò vào Chủ nhật ở khách sạn Belvedere trên phố Farraday. Phố Farraday ở Southampton ấy, phòng khi chị chưa biết.”
Roz lái xe dọc theo đại lộ Dawlington xuống Southampton. Cô vượt qua tiệm Phù Hoa trước khi kịp nhận ra, và gần như trật bánh khi phanh xe khựng lại giữa đường. Roz vẫy tay vui vẻ với người tài xế giận dữ ở xe sau và lái sang bên đường, đỗ xe vào một khoảng trống.
Phù Hoa là một cái tên không phù hợp, Roz nghĩ thầm khi đẩy cửa bước vào. Cô những tưởng đây phải là một cửa hiệu bán đồ thiết kế sang chảnh, hay ít nhất phải là hàng hiệu; nhưng đó chỉ là một tiệm quần áo nhỏ thường thấy ở London. Phù Hoa rõ ràng chỉ bán loại hàng thứ phẩm rẻ tiền, và khôn khéo định hướng khách hàng mục tiêu là những cô gái tuổi teen với khả năng tài chính có hạn hoặc không có điều kiện mua sắm ở những cửa hàng thời thượng.
Roz tìm ra quản lý cửa hàng, một phụ nữ tầm ba mươi tuổi với bộ tóc tuyệt đẹp chải hất ra sau tạo thành một búi lớn màu vàng hoe trên đỉnh đầu. Roz đưa cho cô ta một tấm danh thiếp và nói cho cô ta nghe về quyển sách cô định viết. “Tôi đang cố tìm ai đó biết Amber, em gái Olive. Và tôi được nghe kể rằng Amber đang làm việc ở Phù Hoa vào thời điểm xảy ra vụ án. Bấy giờ cô có ở đây không? Hay có biết ai làm việc ở đây lúc đó không?”
“Không, tôi xin lỗi. Nhân viên thay đổi liên tục ở những nơi như thế này, thường thì những cô gái trẻ chỉ đến làm việc trong một thời gian ngắn, rồi chuyển đi ngay khi tìm được công việc tốt hơn. Tôi thậm chí còn không biết lúc đó ai là quản lý. Có lẽ chị nên liên lạc với chủ cửa hàng. Để tôi cho chị địa chỉ,” cô ta nhiệt tình đáp.
“Cảm ơn cô. Cũng đáng để thử lắm.”
Người phụ nữ dẫn cô đến quầy thu ngân và tìm kiếm trong một tập danh thiếp.
“Thật buồn cười, tôi cũng nhớ vụ án mạng đó, nhưng tôi chưa bao giờ liên hệ nạn nhân với cửa hàng này.” Cô ta lấy ra một tấm danh thiếp, “Amber? Tên không phổ biến lắm thì phải?”
“Tôi nghĩ vậy. Dù gì đó cũng là biệt danh. Tên thật của cô ta là Alison.”
Người phụ nữ gật đầu, “Tôi đã làm việc ở đây ba năm, cũng là ba năm tôi luôn gây áp lực lên chủ cửa hàng với yêu cầu tu sửa nhà vệ sinh cho nhân viên. Họ viện lý do suy thoái kinh tế và từ chối, cũng như vẫn luôn lấy cớ biện minh cho bất cứ hành động tồi tệ nào, từ việc cắt giảm lương đến chuyện nhập hàng rẻ mạt, chất lượng thấp, thậm chí có vài bộ còn chẳng được khâu đúng cách. Nhưng dù gì thì nhà vệ sinh cũng được lát gạch và rõ ràng việc đập cái cũ đi và xây mới sẽ rất tốn kém.”
Thấy Roz mỉm cười lịch sự, người phụ nữ nói tiếp, “Đừng sốt ruột, việc tôi đang nói không phải bâng quơ đâu. Tôi muốn có gạch ốp lát mới cho cái nhà vệ sinh bởi vì ai đó đã dùng xẻng hay cái gì tương tự rạch vào tường tạo thành một bức grafiti, rồi đổ một loại mực không thể xóa được lên trên. Tôi đã dùng đủ mọi cách, từ chất tẩy trắng, dung dịch làm sạch lò nướng, dung môi tẩy sơn, bất cứ thứ gì tôi cũng đều thử hết, nhưng đều bất lực. Không làm sạch nổi.” Cô ta lắc đầu, “Và tại sao ư? Vì kẻ ấy đã rạch mạnh đến mức những vết cắt ăn sâu qua lớp sứ, màu mực cùng bụi bẩn tích tụ lại cả ở đấy. Mỗi lần nhìn nó, tôi lại thấy rùng mình. Thực sự ghê tởm.”
“Bức vẽ đó mô tả cái gì?”
“Tôi sẽ cho chị xem. Nó ở ngay phía sau.” Cô ta đi qua hai cánh cửa, rồi đẩy mở cái tiếp theo và đứng sang một bên cho Roz bước qua, “Đây, thật kinh khủng đúng không? Tôi vẫn luôn tò mò không biết Amber là ai. Nhưng đó hẳn là cô em gái nhỉ? Như tôi đã nói đấy, Amber không phải một cái tên phổ biến.”
Chỉ có ba từ được lặp đi lặp lại khoảng mười hay mười một lần dọc theo những ô gạch, một phiên bản bạo lực, trái ngược với hình trái tim và mũi tên thường được dùng để trang trí tường nhà vệ sinh. CĂM THÙ AMBER CĂM THÙ AMBER CĂM THÙ AMBER…
“Tôi tự hỏi ai là tác giả của bức vẽ này?” Roz lẩm bẩm.
“Ai đó rất bệnh hoạn, tôi nghĩ thế. Và không muốn lộ danh tính. Nhìn xem, không hề có chủ ngữ.”
“Còn tùy cách đọc nó ra sao nữa,” Roz trầm ngâm đáp. “Nếu được đặt thành vòng tròn thì dòng chữ sẽ được đọc là Amber căm thù Amber căm thù Amber… theo một vòng lặp vô tận.”
Belvedere là một khách sạn nhỏ điển hình với hai chái nhà hai bên, nằm khuất trong hẻm, với lối vào ở chính giữa bên trên bậc tam cấp, và hai cột trụ trước cửa chính. Khách sạn phảng phất không khí bị lãng quên, như thể khách hàng của nó, chủ yếu là các nhân viên tiếp thị, đã bỏ đi hết. Roz nhấn chuông ở quầy lễ tân và chờ đợi.
Một phụ nữ khoảng năm mươi tuổi bước ra từ căn phòng phía sau, tươi cười nhìn Roz, “Xin chào. Chào mừng tới khách sạn Belvedere.” Bà ta kéo quyển sổ đăng kí phòng về phía mình, “Có phải cô muốn thuê phòng không?”
Suy thoái kinh tế mới khủng khiếp làm sao, Roz thầm nghĩ. Người ta có thể duy trì vẻ ngoài lạc quan giả tạo này trong bao lâu khi thực tế là chẳng hề có ai đặt phòng? “Tôi xin lỗi. Tôi không đến để thuê phòng.” Cô đưa danh thiếp cho bà ta, “Tôi là một tác giả tự do và tôi nghĩ một đối tượng trong bài viết của tôi có thể từng thuê phòng tại đây. Tôi hi vọng bà có thể giúp tôi xác nhận cô ta qua ảnh.”
Người phụ nữ gõ gõ ngón tay vào quyển sổ rồi đẩy nó sang bên, “Tác phẩm của cô sẽ được phát hành chứ?”
Roz gật đầu.
“Và Belvedere sẽ được nhắc đến cho dù người thuê phòng ấy là ai đi chăng nữa, có phải thế không?”
“Tôi sẽ không nhắc đến nếu bà phản đối.”
“Cô gái ơi, cô chẳng biết gì về ngành kinh doanh khách sạn cả. Thời điểm này thì bất cứ sự nhắc tên công khai nào cũng đều đáng hoan nghênh cả.”
Roz mỉm cười khi đặt tấm ảnh của Olive lên bàn, “Nếu cô ta có đến đây thì là khoảng mùa hè năm 1987. Lúc ấy bà có ở đây không?”
“Có đấy,” người phụ nữ nói với vẻ hối tiếc. “Chúng tôi đã mua khách sạn này vào năm 1986 khi nền kinh tế đang bùng nổ.”
Bà ta lấy cặp kính từ túi áo ra và đeo lên, rồi chúi người tới trước để săm soi tấm ảnh, “À, phải rồi, tôi nhớ cô ta rất rõ. Một cô nàng to béo. Vào mùa hè năm ấy, hầu như Chủ nhật nào cô nàng cũng cùng chồng đến đây. Họ thường thuê phòng cả ngày và trở về nhà vào buổi tối.” Bà ta thở dài, “Sắp xếp mới tuyệt vời làm sao. Chúng tôi có thể tận dụng phòng đó để cho thuê vào tối Chủ nhật. Thế là được trả gấp đôi cho thời gian hai tư tiếng.” Bà ta lại thở dài, “Giờ mà được như thế thì tốt. Tôi ước chúng tôi có thể bán quách khách sạn này đi, nhưng với tình hình cơ man nào là khách sạn nhỏ đều phá sản như bây giờ, có khi chúng tôi sẽ chẳng thu hồi nổi vốn mất. Thôi đành cầm cự tiếp vậy, chúng tôi cũng không còn sự lựa chọn nào khác.”
Roz gõ vào tấm ảnh để nhắc bà ta nhớ về Olive, “Cô ta và chồng tự xưng là gì?”
Người phụ nữ bối rối, “Tên phổ biến thôi, tôi nghĩ thế. Smith hay Brown gì đó.”
“Họ có kí nhận không?”
“Ồ, có chứ. Chúng tôi rất cẩn thận trong chuyện này.”
“Tôi xem qua được không?”
“Được chứ sao không.” Bà ta mở một ngăn tủ dưới bàn và lấy ra sổ sách năm 1987, “Để xem nào. À đây rồi. Ông bà Lewis. Chà chà, họ giàu trí tưởng tượng hơn đa phần mọi người đấy chứ.” Bà ta xoay ngược cuốn sổ lại để Roz có thể đọc được.
Cô săm soi dòng chữ gọn gàng, và thầm vui mừng khi cuối cùng cũng tóm được manh mối quan trọng, “Đây là chữ viết tay của nam giới.”
“Ồ, đúng vậy. Luôn luôn là ông chồng kí. Cô ta trẻ hơn chồng rất nhiều, và hay ngượng ngùng, nhất là lúc đầu. Sau đó dần dần cô ta tự nhiên hơn, ai cũng như thế cà. Nhưng cô ta không bao giờ đưa ra bất cứ ý kiến gì. Cô ta là ai vậy?”
Roz thắc mắc liệu người phụ nữ này có còn nhiệt tình giúp đỡ không một khi bà ta đã biết sự thật. Nhưng giấu giếm cũng chẳng ích gì, bà ta sẽ biết tường tận ngay khi cuốn sách được xuất bản, “Tên cô ta là Olive Martin.”
“Chưa bao giờ nghe đến.”
“Cô ta đang lãnh án tù vì tội giết mẹ và em gái.”
“Chúa ơi! Có phải cô ta chính là…” Bà ta mô phỏng động tác băm chặt. Roz gật đầu, “Chúa ơi!”
“Bà vẫn muốn khách sạn Belvedere được nhắc tới chú?”
“Sao lại không?” Bà ta thốt lên, “Tất nhiên tôi vẫn muốn chứ! Một nữ sát nhân đã từng thuê phòng ở khách sạn này. Không thể tưởng tượng nổi! Chúng tôi sẽ đặt biển tên trong căn phòng đó. Chính xác thì cô định viết cái gì vậy? Sách? Hay tạp chí? Chúng tôi sẽ cung cấp một tấm ảnh chụp khách sạn và căn phòng mà cô ta đã thuê. Chà chà, phấn khích làm sao. Ước gì tôi biết sớm hơn.”
Roz cười. Đúng là làm giàu trên nỗi đau của kẻ khác, nhưng cô lại không thể chỉ trích bà ta. Chẳng mèo nào chê mỡ khi được dâng tận miệng cả. “Đừng mừng vội,” cô cảnh báo, “Phải mất ít nhất một năm nữa cuốn sách mới được xuất bản, và tôi viết nó nhằm mục đích xóa tội cho Olive, chứ không phải kết tội thêm. Bà thấy đấy, tôi nghĩ cô ta vô tội.”
“Thế lại càng hay. Chúng tôi sẽ bán cuốn sách ấy ở sảnh chờ. Tôi biết vận may của mình cuối cùng cũng quay trở lại mà.” Bà ta tươi cười nhìn Roz, “Phiền cô nhắn với Olive rằng khi được ra tù, cô ta có thể tới đây thuê phòng miễn phí, ở bao lâu tùy thích. Chúng tôi luôn có chính sách ưu đãi với những khách hàng thân thiết. Giờ thì cô gái thân mến, tôi có thể giúp gì cho cô nữa không?”
“Bà có máy photocopy không?”
“Có đấy. Ở đây trang thiết bị hiện đại nào cũng có.”
“Vậy thì tôi có thể sao lại tờ xác nhận khách thuê phòng này được không? Và hẳn là bà cũng có thể mô tả qua cho tôi nghe về ông Lewis.”
Bà ta mím môi, “Ông ta cũng không có gì đặc biệt lắm. Ngoài năm mươi một chút. Tóc vàng, luôn mặc com lê tối màu, hút thuốc. Như thế đủ chưa?”
“Cũng được rồi. Tóc ông ta trông có tự nhiên không? Bà nhớ kĩ lại xem.”
Người phụ nữ cười khúc khích, “Không nhắc thì tôi hẳn đã quên mất đấy. Trước đó tôi không hề biết, cho đến khi đem cho họ một chút trà thì bắt gặp ông ta đang đứng trước gương để chỉnh mớ tóc giả. Sau đó tôi cười ngất, thật đấy. Nhưng bộ tóc đó giống y như thật. Nhìn qua thì chẳng thể nhận ra. Cô biết ông ta à?”
Roz gật đầu, “Bà có thể nhận ra ông ta qua ảnh không?”
“Tôi sẽ thử. Tôi thường nhớ ra được khuôn mặt người nào đó khi nhìn thấy tận mặt.”
“Có khách đến thăm này, Olive.” Giám thị đã bước vào phòng trước khi Olive kịp giấu thứ cô ta đang làm, “Nhanh lên. Đi nào.”
Olive vơ đám tượng sáp bằng một tay và bóp chặt chúng vào nhau, “Ai đó?”
“Một bà xơ.” Nữ giám thị nhìn bàn tay nắm chặt của Olive, “Cô cầm cái gì thế.”
“Chỉ là sáp nặn thôi.” Cô ta duỗi thẳng những ngón tay. Vốn được sơn cẩn thận và quấn vải vụn thành quần áo, nhưng giờ mấy bức tượng sáp đã bị vò lại thành một đống hỗn độn nhiều màu. Không thể nhận ra nổi trước đây đó từng là cây nến trên bàn thờ nữa.
“Thôi, bỏ lại đi. Bà xơ đang đợi để nói chuyện với cô, chứ không phải xem cô nghịch đất nặn.”
Hawksley đang ngủ bên bàn ăn, người thẳng đơ, tay đặt lên bàn, đầu gục xuống ngực. Roz yên lặng nhìn anh qua cửa sổ, rồi gõ nhẹ lên tấm kính. Đôi mắt đỏ ngầu vì mệt mỏi của anh đột nhiên trừng lớn. Cô kinh ngạc trước vẻ nhẹ nhõm của anh khi biết ai là người ngoài cửa.
Anh mời cô vào, gương mặt mệt nhọc thấy rõ, “Tôi đã hi vọng là cô sẽ không quay lại nữa.”
“Anh đang sợ hãi điều gì thế?” Cô hỏi.
Anh nhìn cô với biểu cảm gần như thất vọng, “Về nhà đi. Đó không phải việc của cô.” Anh đi tới chỗ bồn rửa và mở vòi nước, nhúng đầu vào đó để dòng nước buốt lạnh chảy tràn trên gáy.
Tầng trên bỗng vang lên những tiếng búa nện thô bạo. Roz giật nảy mình, “Ôi, Chúa ơi! Gì thế?”
Hawksley nhảy ra, nắm lấy tay Roz, đẩy cô về phía cửa. “Về nhà mau,” anh ra lệnh, “Đi ngay bây giờ! Tôi không muốn phải động thủ với cô đâu.”
Nhưng cô vẫn đứng nguyên không nhúc nhích, “Chuyện gì xảy ra vậy? Tiếng động lúc nãy là gì?”
“Xin cô đấy,” anh gằn giọng. “Tôi sẽ buộc phải dùng biện pháp mạnh nếu cô không rời đi ngay đấy.” Nhưng trái ngược với lời nói, đột nhiên anh lại áp tay lên má Roz và hôn cô, “Ôi, Chúa ơi!” Anh rên rỉ, vuốt mớ tóc rối ra khỏi mắt cô, “Tôi không muốn em bị liên lụy, Roz à. Tôi không muốn em bị liên lụy.”
Cô đang định nói gì đó thì cánh cửa vào nhà hàng đột nhiên bật mở. “Quá muộn rồi,” cô xoay anh lại, “Chúng ta vừa có thêm bạn.”
Hoàn toàn bất ngờ, Hawksley nhếch mép cười đểu cáng. “Tao đang đợi chúng mày đây,” anh lè nhè. Tay anh dang ra che chở cho Roz ở phía sau và chuẩn bị chống đỡ tất cả những gì sắp xảy đến.
Bọn chúng có bốn tên, đều to cao và đeo mặt nạ trùm đầu. Chúng không nói gì, chỉ dùng gậy bóng chày đập tới tấp vào Hawksley. Diễn biến nhanh đến nỗi Roz đã trở thành khán giả của trận tra tấn ghê rợn này trước khi kịp nhận ra vấn đề. Thậm chí, chúng còn chẳng thèm bận tâm đến cô.
Phản ứng đầu tiên trong cơn tức giận của cô là định tóm lấy cánh tay đang đập túi bụi kia, nhưng thất bại ở trận chiến với Rupert hai tuần trước đã nhắc nhở cô rằng nên dùng cái đầu thì hơn. Cô run rẩy mở túi xách, lấy chiếc trâm cài mũ dài hơn bảy phân mà cô vẫn luôn mang theo bên mình ra, và đâm mạnh vào mông gã đàn ông ở gần nhất. Chiếc trâm cắm ngập vào da thịt nhờ sức nặng của phần đầu được chạm ngọc công phu. Hắn buột ra một tiếng rên khe khẽ, đờ người vì choáng váng, khiến cây gậy bóng chày tuột khỏi tay. Không ai nhận ra diễn biến ấy, trừ cô.
Khẽ thốt lên vì khoái cảm chiến thắng, cô gí mạnh về phía hai “viên bi” của hẳn. Tên khốn ngồi sụp xuống sàn và bắt đầu la hét.
“Tôi xử xong một tên rồi.” cô thở hổn hển. “Tôi lấy được cái gậy rồi.”
“Vậy thì sử dụng nó đi, vì Chúa.” Hawksley rống lên, chúi xuống vì một cơn mưa những cú đập túi bụi.
“Ôi Chúa ơi!” Đập vào chân, cô nghĩ thầm. Cô quỳ một chân xuống, giáng một đòn vào ống quần gần mình nhất và hả hê khi thấy chiếc gậy đã trúng mục tiêu. Cô lại phang một cú nữa, nhưng lần này, cô bị giật ngược lên khi một bàn tay nắm lấy tóc cô và toan bứt hết chúng ra khỏi đầu. Mắt cô ầng ậng nước vì choáng váng và đau đớn.
Vẫn chống hai tay và đầu gối xuống sàn, đầu thu lại dưới hai vai để tự vệ, Hawksley mơ hồ nhận ra tần suất những cú nện giáng xuống vai anh đang giảm dần. Trí não anh tập trung vào tiếng hét thất thanh mà anh nghĩ là của Roz. Cơn giận bỗng chốc bừng bừng khiến adrenalin dâng trào mãnh liệt, Hawksley nhổm lên với tất cả sức lực và lao thẳng vào tên đầu tiên mà anh nhìn thấy, khiến hắn đâm sầm vào cái bếp đang đỏ lửa vì nãy giờ vẫn đun một chảo canh cá sôi lục bục. Không thèm đếm xỉa đến những cú đánh đau điếng vẫn giáng xuống giữa hai vai mình, anh quật ngã tên kia, với lấy cái chảo và đổ thứ chất lỏng đang sôi vào đầu hắn.
Anh quay người lại để đối mặt với tên còn lại và giơ cánh tay lên đỡ một cú đánh khác trước khi đập cái chảo gang vào một bên hàm của kẻ tấn công. Đôi mắt đằng sau chiếc mặt nạ ánh lên ngạc nhiên trước khi bất lực trợn tròn. Hắn ngã xuống sàn, bất tỉnh.
Kiệt sức, Hawksley nhìn quanh để tìm Roz. Phải mất một lúc mới thấy cô, anh choáng váng, và hoàn toàn mất phương hướng trước tiếng hét thất thanh vang vọng khắp căn bếp. Anh lắc đầu để tỉnh táo lại và nhìn về phía cửa. Anh thấy cô gần như ngay lập tức, cổ bị giữ chặt trong bàn tay kẹp lại như gọng kìm của tên duy nhất còn sức chiến đấu. Mắt cô nhắm nghiền và đầu ngoẹo sang một bên.
“Nếu mày dám manh động, tao sẽ bẻ gãy cổ cô ta,” tên kia đe dọa Hawksley giữa những tiếng thở khò khè.
Nỗi căm hận bản năng sục sôi như dòng dung nham nóng chảy, Hawksley mất hết tự chủ, cắm đầu lao thốc tới.