Số lần đọc/download: 164 / 25
Cập nhật: 2020-06-05 02:27:43 +0700
Chương 15
D
ộc ác và ngu xuẩn, hai sợi dây song song níu kéo con người vào cội nguồn dã thú xa xăm, lại cũng chính là những dây dợ buộc thắt Thiêm từ ngày Thiêm lên dạy học ở La Pan Tẩn bản Mèo xa xôi; đã là năm thứ mười lăm Thiêm lập thân, lập nghiệp ở đất này.
Sau trận mưa đá tàn hại được dân làng coi như một đòn trừng phạt của đấng cao xanh đối với thái độ bất kính và những sơ sẩy của con người, những gì đã kiến lập được bằng cưỡng chế, mệnh lệnh, bằng phong trào bồng bột từ động cơ vị kỷ và huênh hoang, đều đổ vỡ tan tành trong chốc lát. Cuộc sống lui trở lại điểm khởi đầu với vốn liếng tự có của nó.
Điều nọ thật là hiển nhiên và hợp với lẽ phải thông thường. Làm sao con người lại có thể dự liệu được tất cả, khi nó chỉ là một kẻ tiên thiên bất túc, một khuyết thể của tự nhiên và lịch sử! Tiếc cho tất cả những ai có hiểu biết như điều vừa trình bày, vì ông Quốc Thanh một mực chủ trương lịch sử chẳng là cái quái gì hết; cuộc sống phải do chủ quan ông lập ra và nguyên do của tất cả sự thất bại vừa qua chỉ là ở hai điểm: quần chúng còn quá ư lạc hậu và Thiêm. Chính là Thiêm, kẻ chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến chống đối, lại nhiễm thói ganh tỵ ích kỷ, nên đã xui nguyên giục bị, lũng loạn tư tưởng quần chúng, phá hoại phong trào.
Cuộc họp rút kinh nghiệm giữa Quốc Thanh và ông Đường Xuân Ân phó bí thư không hề đả động đến bất cứ một chi tiết nào trong hành vi bất cẩn, thiếu hiểu biết của họ, kể cả chủ trương thu súng đạn cá nhân đồng bào, họ chỉ bổ khuyết một điểm duy nhất vào các chủ trương công tác: Mạnh tay chuyên chính hơn nữa! Thế thôi!
Tiếp tục chương trình đã đặt, ông Quốc Thanh phóng ra một kế hoạch củng cố phong trào gồm mười điểm, trong đó điểm thứ nhất là triệt để thu hồi vũ khí cá nhân, triệt bỏ các lò rèn đúc súng đạn, làm cung nỏ, giáo mác… Phối hợp với huyện, ông Quốc Thanh bắt dân trong toàn xã từ 16 tuổi đến 60 tuổi, nhất loạt ngô đùm, cơm túi, ống nước, kéo ra huyện tham quan máy cày đỏ thay trâu đen cày hai héc ta ruộng đậu tương xuân ở làng Tày Na ảng huyện lỵ. Đen cho ông phó bí thư Ân, chiếc máy cày bất tuân phục nhiệm vụ chính trị, leo ruộng dốc nửa chừng liền đổ kềnh, nằm chềnh ềnh như ăn vạ. Ông Ân tức tối tím bầm mặt, nghiêng đầu vẹo cổ ký án kỷ luật ông chi cục trưởng chi cục khai hoang cơ giới và hai anh lái đổ máy xuýt chết. Dân chúng được một phen tâng hẩng, nhưng chưa hết, ra về lại gặp cơn mưa lạnh bất thần, hai chục người lăn ra ốm, ba trong số cảm nhập tâm nằm liệt cả tháng trời. Nhà người ốm lo sợ, mở cúng. Ông Quốc Thanh tức tối sai dân quân đeo súng đến tịch thu thanh la, não bạt, đồ thờ, sách cúng, và doạ “Dù có là hố pẩu cho phép thì cũng sẽ gô cổ tại chỗ, nếu tái phạm lần nữa.”
Ông bắt hố pẩu mở hội ăn ước, uống máu gà ăn thề, nguyền sẽ vào hợp tác xã một trăm phần trăm. Ông bắt Thiêm lập đội thiếu niên cờ đỏ đi nhổ hết cây thuốc phiện trồng lén trong rừng sâu. Kêu khóc van xin thì ông quát: “Có muốn đi tù không?” Mở miệng là ông doạ bắt bớ, giam cầm, đầy ải. Ông mở hội nghị quân dân chính toàn xã, phóng tay phát động chiến dịch làm thuỷ lợi theo tinh thần lời nói thua quay thì đánh đáo gỡ của ông, lập công trường khôi phục con mương dài bốn cây số đã bị sập lở.
Giới hạn cuối cùng của lòng tự trọng đã xuất hiện. Nỗi lo sinh tử về miếng cơm manh áo là trách nhiệm tối thiểu với mình và gia đình đã khiến cho con người ta không thể nhắm mắt tuân thủ vô điều kiện. Vả chăng, kinh nghiệm đã được rút ra rồi. Những bực dọc bắt gặp tâm tình ưa phóng khoáng của những kẻ xưa nay quen tự do. Bất mãn gặp tinh thần bài ngoại đã lâu ngày dày kén trong lòng cộng đồng. Cái sảy nảy cái ung. Lòng dân vui vẻ là cái căn cốt của sự bình yên và niềm tin về một ngày mai đã không còn. Khuynh hướng ly khai đã manh nha. Cùng với tin đồn vua Mèo sắp ra để thay trời đổi đất là nhịp điệu hoạt động tăng cường của máy bay đêm trên vùng trời các xã lân cận, và những giọng điệu phản kháng ngỗ ngược đã ra khỏi bóng tối ngấm ngầm, công khai đối đầu. Quốc Thanh trên thực tế đã là kẻ tiếp tục gây mầm tai hoạ.
Sáng thứ hai tuần ấy, Thiêm nện đến vỡ kẻng, nghĩ thương linh hồn người lái xe Ford trú ngụ trong đó cũng phải đau ê ẩm, nhưng cái sân tập họp học trò làm lễ chào cờ đầu tuần chỉ lèo tèo hơn chục em. Thiêm hỏi lý do, từng em đều nói chung một giọng: “Cha mẹ bảo không nên đi học vì hôm qua có người đi nương ở thôn Ngải Chồ nhặt được một chiếc dù đỏ thả từ trên trời xuống.”
Cho các em vào lớp, vừa viết xong đề toán lên bảng cho các em lớp bốn, định giảng bài lịch sử cho các em lớp năm, Thiêm bỗng nghe thấy ba tiếng súng nổ váng trời ở nhà hố pẩu. Anh dặn các em trật tự làm bài rồi chạy đi.
Người đang dồn đống trước cửa nhà hố pẩu. Thiêm túm tay người đàn ông vừa leo lên mái nhà nổ súng báo hiệu có người chết tụt xuống, hỏi: “Ai thế?” và sợ hãi vì một linh giác bất chợt, len qua đám đông, lao thẳng vào nhà.
“Đù a!” anh hộc tiếng kêu trời, ôm mặt, sụm ngay xuống đất. Nằm trên nền nhà, váy áo dính đầy tro bụi, tóc tuột cả mớ ra ngoài vành khăn, Seo Mùa mặt đã vàng xạm đang thoi thóp thở. Cô vừa chiêu thêm hớp rượu sau khi đã ăn cả một nắm lá ngón. Một người đàn bà nhấc cái liềm cùn nung đỏ dí vào cổ cô theo lối chữa mẹo cổ truyền định cản đường đi của chất độc xuống tim gan. Vô ích. Cô đang ở phút cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi mà nhiều khổ ải của mình. Thiêm cúi xuống, hai cánh mũi căng nhức. “Em ơi!” Anh thốt kêu và bế xốc cô lên. Đã chết rồi, cô bỗng mở mắt, ngoẹo đầu, dồn hết sức tàn há miệng, bập răng vào bắp tay anh rồi giãy nhẹ một cái. Trời! Anh nấc một tiếng than, thần sắc nhợt nhạt, ngật ngưỡng gào: “Tếnh! Tếnh đâu rồi!” Và thập thễnh đi ra cửa. Anh đã mất Seo Mùa.
Vừa lúc sau nhà hố pẩu có tiếng nổ đánh ùng. Khói bốc lên một cuộn cùng tiếng reo hoan hỉ vô lối: “Người mình xuống từ đêm qua rồi!” Hố pẩu loạng choạng bước ra sân, nhìn trái, nhìn phải, hỏi: “Cái gì đấy?” Không có lời đáp trả. Mọi người đã tản đi. Căn nhà chỉ còn xác Seo Mùa lạnh ngắt. Rộn rịch tiếng vó ngựa dồn, thành một vòng tròn mỗi lúc một rộng.
“Hỏng hết rồi! Hỏng hết rồi!”
Thiêm kêu, chạy về trường, cho học sinh tan học về nhà, dặn các em khi có kẻng báo thì tập trung ngay ở nhà trường. Nói xong, anh đóng cửa các lớp học, xách khẩu CKC lao theo con đường dốc xuống Bản Ngò.
Lâu nay, ông Quốc Thanh ở tịt dưới Bản Ngò. Ông có ý tránh mặt người trên Bãi Đá. Ông sợ Tếnh. Chuyện ông ăn nằm với bà goá ở Ngải Chồ, chuyện ông sàm sỡ với Seo Mùa khiến Tếnh chồng cô nổi máu ghen, đánh đập, hành hạ cô liên tục và là một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết hôm nay của cô, chẳng còn giấu được ai. Ông và Thúy dan díu với nhau đang độ nồng nẫu và gần như chẳng cần e dè gìn giữ. Thiêm rất buồn khổ, vẫn không ra khỏi ý nghĩ: mình như một kẻ gây ra chuyện này. Thúy đã hiến thân cho ông vội vàng, cuống quýt ngoài cái ý nguyện thoả cơn thèm khát còn hàm ẩn một thái độ phá bĩnh, trả hận, bất cần đời; cũng là cơn giãy giụa có mầu sắc tuyệt vọng của cô để cô kiếm tìm một chỗ bấu víu cho hạnh phúc đàn bà.
Thể tất cho Thúy. Buồn là buồn cho cuộc đời éo le. Thúy đã không gặp may. Quốc Thanh, cái bản tính bất thiện nấp sẵn trong ông được quyền lực vun xới, chớp ngay lấy cơ hội để tận hưởng. Tập nhiễm thói chơi bời du đãng từ cuộc sống lang bạt kỳ hồ, Quốc Thanh rất biết sử dụng ưu thế đàn ông của mình trước người đàn bà gặp cơn quẫn bách. Cùng với thói ham quyền, hám lợi, háo danh, ông mắc căn bệnh dâm đãng tới mức trầm kha, bỉ ổi. Quan hệ với Thúy lúc này của ông chẳng qua chỉ là cơ hội để ông giải toả nhu cầu tình dục chốc lát mà thôi.
Cuối cùng, cuộc tình trục lợi của ông với Thúy, những thất bại liên tiếp trong công cuộc xây dựng La Pan Tẩn của ông đã làm lộ toét chân tướng trí tuệ và phẩm cách con người ông. Hố pẩu nói: “Quốc Thanh miệng dao, bụng lửa, không thể tha thứ được!” Bức tranh vẽ Quốc Thanh cưỡi con ngựa mặt người ăn đạn là thông điệp báo hiệu công việc của ông, đoạn đời này của ông đã đến lúc phải mau mau khép lại.
Tiếc thay, ông phái viên không vượt khỏi được bờ biên của nhận thức, không đo đạc được chính xác tình thế nguy ngập, vẫn cứ sống nhơn nhơn. Ông không hề hay biết rằng tất cả những gì ông cố công sinh đẻ ra, trong đó đặc biệt là cái hạt nhân trung tâm ra đời một cách ép uổng và vô nguyên tắc, đã chẳng còn lấy gọi là một chút sinh lực và bóng hình. Ông Sùng, ông Lở, ông Chẩn bỏ xuống bờ sông Chẩy phát ruộng hoang, trồng lúa nước. Uỷ ban đóng cửa trụ sở. Hợp tác xã, đến cái mõ cũng không còn tiếng gõ nhắc nhở. Chẳng còn ai nhớ đến những lời dặn dò thiêng liêng, những nghĩa vụ cao cả.
Lội qua con suối nước còn vơi, sang tới bờ bên kia, Thiêm bỗng dừng lại vì nghe thấy tiếng chó trong thôn Bản Ngò sủa rộ khác thường.
Cùng lúc gió đưa tới anh mùi lông thú thui cháy và nhìn qua ngọn cây hồng bì, Thiêm thấy ba luồng khói đen đang dông lên trời, ở khoảng giữa thôn. Ngoảnh lại thôn Bãi Đá, anh giật mình vì nhận ra ở đó cũng vừa cuộn dậy ba cột khói lớn. Người ta đang gửi thông báo cho nhau. Dấu hiệu cuộc biến động có quy mô lớn đã rõ rành. Chính Thiêm bây giờ mới hiểu.
Nghe thấy tiếng người nói và tiếng ngựa hí lao xao dưới lòng suối, Thiêm vội ép mình sau búi mai. Bốn người mặc quần áo đen, đeo mặt nạ, súng tiểu liên quàng vai, thúc ngựa từ suối ngược lên. Nghe chúng quành ngựa hỏi nhau đường đi, anh biết chúng là bọn biệt kích mới nhẩy dù xuống đây đêm qua.
Bốn con ngựa vừa vụt qua, Thiêm liền chui qua mấy bụi cây chó đẻ, luồn ra phía sau trường, đâm thẳng tới trước cửa buồng Thúy.
- Ông Quốc Thanh ơi! Nguy lắm rồi!
Vừa đấm cửa buồng Thúy, Thiêm vừa la gọi. Và anh thật không ngờ. Ông Quốc Thanh lúc này vẫn đang lăn lóc trong cuộc tình bốc lửa với Thúy. Vẫn là những kiểu cách làm tình quái đản như hôm nào. Vẫn là nhịp điệu dậm dựt sôi cuồng cùng với tiếng rú rít điên dại và bạo liệt. Vẫn là cái thân hình lông lá đen nhèm và hình tượng làm tình với Thúy với một chân trong một chân ngoài ống quần của ông phái viên.
- Ông Quốc Thanh ơi! Biệt kích! Biệt kích nhẩy dù xuống La Pan Tẩn rồi!
Có lẽ là vì cùng với tiếng gọi cấp báo của Thiêm, một tràng tiểu liên từ trong thôn đột ngột nổ như xé gió mà ông Quốc Thanh mới biết và bứt ra khỏi cuộc truy hoan. Tách ra khỏi thế díu đôi, ông lăn xuống đất, xỏ vội chân vào ống quần, xách khẩu các bin, kéo cửa nhảy ra. Thúy nhổm dậy theo, khoác vội cái áo, xốc xếch cặp vú thỗn thện, nhao ra cửa, bất chợt thấy Thiêm, há hốc mồm, kinh hãi: “Ối giời, anh Thiêm!”
Cổng trường vừa vỡ đánh hoắc, bật tung hai cánh cổng vầu, mở lối cho một vệt xám bốn năm con ngựa lao vào. Thiêm nhẩy ra đầu hồi. Vừa lúc anh trông thấy ông Quốc Thanh giơ khẩu các bin nhằm vào anh. “Ơ kìa!” Anh thốt kêu, vội gập mình, đâm vào một búi rậm phía sau trường. Đành đành. Một băng đạn các bin xổ dài, vọt qua đầu Thiêm. Lá mai rụng lả tả. Mấy thân mai rung lật bật. “Chả lẽ ông phái viên nhìn nhầm, tưởng mình là thằng biệt kích?” Thiêm thót mình, bò ra sau búi mai, chĩa ngọn súng ra phía sân trường.
Trong sân, theo sau bọn biệt kích cưỡi ngựa là lũ trai tráng a dua a tòng hơn chục đứa vừa à à như dòng nước chẩy vào. Mấy con ngựa được buộc vào bờ rào, hếch mông hí hanh hách. Thiêm mở chốt an toàn. Nhưng anh vội gằm mặt. Ông Quốc Thanh tay cầm súng, tay kéo Thúy đang vượt qua trước búi mai. Thúy một tay giữ hai vạt áo chưa kịp cài cúc, một tay xếch quần, mặt xanh xám. Cả hai đâm sầm vào một bụi lau “Nhanh lên con khỉ!” Thiêm nghe thấy tiếng ông Quốc Thanh giục Thúy. Và nhận ra ba tên phản loạn đang phóng tới như định truy đuổi ông phái viên, Thiêm liền giương súng.
Phát đạn của Thiêm vọt lên cao nhưng đã ngăn chặn được cuộc săn lùng ông phái viên; vả chăng, bọn phản loạn đã phát hiện ra căn buồng của Thúy. Từ căn buồng Thúy chúng lôi ra hai cái va ly, một đống quần áo, chăn màn và một đôi giầy da. Hai cái va ly bật nắp. Một tên nhặt được chiếc xu chiêng của Thúy. Nó đội lên đầu, chạy ra giữa sân. Ba tên đuổi theo. Tên nọ giật cái xu chiêng khỏi đầu, buộc vào giây cờ, kéo lên ngọn cột. Một tên giơ súng lên nheo nheo mắt. Náo động cả sân trường tiếng cười nói ồn ã, tiếng súng nổ thác loạn, tiếng ngựa hí và tiếng chó sủa í ẳng.
Thiêm len lén bò giật lui.
Lát sau, tới bờ suối, anh luồn vào một bụi gai nằm ẩn mình. Chợt nghe thấy tiếng thở hào hển, anh đưa mắt nhìn quanh và lập tức úp ngay mặt xuống đất. Dưới một vòm lau rậm, cạnh nơi Thiêm náu mình, ông Quốc Thanh lại đang hấp hổm trên mình Thúy chỉ có độc cái áo cộc.