Nguyên tác: La Guerre Du Feu
Số lần đọc/download: 465 / 24
Cập nhật: 2019-01-28 20:59:45 +0700
B###chương 7 Sống Giữa Bầy Ma Mút
N
am đã giữ gìn Lửa rất tốt. Lửa cháy sáng và trong trẻo trong cái chuồng của nó khi Naoh lại trông thấy nó, và tuy anh đã kiệt sức đến tận cùng, vết thương cắn xé anh như một con sói, đầu anh ù lên vì cơn sốt, con trai Báo đốm đã có được một khoảnh khắc chứa chan hạnh phúc. Trong lồng ngực rộng mở của anh, đập rộn rã tất cả niềm hi vọng của con người, càng đẹp thêm ở chỗ không phải là anh không biết cái chết nhưng anh không hề nghĩ đến cái chết. Sức trai tráng phập phồng ở anh và, đối với sự lo xa ngắn ngủi của anh, đó là vĩnh cửu. Anh nhìn thấy đầm lầy trong mùa xuân khi những cây sậy một loạt giương thẳng mũi mác mềm mại của chúng, khi những cây sến, cây trăn và cây liễu khoác trở lại chiếc áo lông xanh lục và trắng của chúng, khi những con le le, con cói, con gầm ghì, con sáo gọi nhau, khi mưa rơi xuống ào ào, đến nỗi tưởng như chính là sự sống rơi trên mặt đất. Và trước những làn nước, và trên những búi cỏ, và trong những đám cậy, bộ mặt của đời sau là bộ mặt của Gammla.
Khi Naoh thôi mơ mộng trước Lửa, anh đi kiếm các thứ củ và những thân cây mềm để thân mật tặng cho con ma mút đầu đàn; bởi vì anh nghĩ rằng sự thân thiện, muốn được lâu bền, phải được lặp lại hàng ngày. Chỉ có sau khi đó, Nam nhận phiên gác, anh mới tìm một chỗ nghỉ giữa bầy thú lớn và nằm dài xuống.
- Nếu bầy ma mút rời đất kiếm ăn, - Nam nói, - Nam sẽ đánh thức con trai Báo đốm.
- Đất kiếm ăn dồi dào lắm, - Naoh trả lời. - Bầy ma mút còn quanh quẩn ở đây cho đến tối.
Anh chìm ngay vào một giấc ngủ say như chết.
Khi anh tỉnh giấc, mặt trời đã ngả xuống đồng cỏ. Những đám mây màu chì dồn tới và êm dịu, chúng chôn vùi cái đĩa vàng trông như một bông sen bát ngát. Naoh cảm thấy khớp tay chân rã rời, cơn sốt chạy suốt qua đầu và dọc xương sống; nhưng tiếng ù ù trong tai đã giảm nhiều, và ở vai thì nhức nhối cũng đã bớt.
Anh nhổm dậy, trước tiên là nhìn Lửa, rồi hỏi người gác:
- Bọn Kzamms có trở lại không?
- Chúng chưa đi ra xa đâu... Chúng vẫn chờ đợi... trên bờ sông, trước hòn đảo có những cây sến cao.
- Được lắm! - Con trai Báo đốm đáp lại - Chúng nó sẽ không có Lửa trong những đêm tối ẩm ướt, chúng sẽ nản chí và sẽ quay trở về với bầy chúng. Thôi, đến lượt Nam ngủ đi!
Trong khi Nam nằm dài trên đống lá và rêu, Naoh thăm nom Gaw đương vật vã trong một giấc mơ. Anh chàng trai trẻ yếu lắm, da nóng như đốt, hơi thở bật ra gấp gáp, nhưng máu không còn chảy trên ngực nữa. Người chỉ huy tin rằng bạn mình chưa thể trở về với những gốc rễ của đất sâu thẳm, anh cúi xuống Lửa với mong muốn cao độ được nhìn thấy nó bùng lên trong một lò than đỏ rực những cành khô.
Nhưng, mong muốn đó, anh phải dành lại cho những ngày sau. Bởi vì trước hết phải được vị chỉ huy ma mút cho phép ba người Oulhamr nghỉ đêm trong khu vực của bầy. Naoh đảo mắt tìm. Anh trông thấy con thú đứng một mình, theo thói quen của nó để dễ trông coi đến cả bầy và cũng để thăm dò miền đất. Nó ăn những cây nhỏ chưa vươn ngọn lên khỏi mặt đất được bao nhiêu. Con trai Báo đốm tìm nhổ củ răng dê ngon lành, anh cũng kiếm được nhiều cây đậu quả ở đầm lầy, rồi anh bước tới phía con ma mút to lớn. Khi anh lại gần, con thú thôi không gặm những cây non nữa; nó ngọ nguậy nhẹ nhàng cái vòi lông lá, và nó lại còn tiến vài bước về phía Naoh. Nhìn thấy anh tới, tay ôm đầy thức ăn, nó tỏ vẻ hài lòng và nó cũng bắt đầu bày tỏ sự trìu mến đối với con người. Anh chàng lữ hành chìa đống thức ăn anh đương ôm chặt vào ngực và nói nho nhỏ:
- Hỡi đầu đàn bầy ma mút, những người Kzammms chưa đi khỏi con Sông Lớn. Người Oulhamr khỏe hơn người Kzamms, nhưng họ chỉ có ba; còn bọn kia có đến hơn ba lần hai bàn tay. Chúng sẽ giết chết chúng tôi nếu chúng tôi xa bầy ma mút.
Con ma mút đã no nê sau cả một ngày ăn đầy đủ nhai thong thả những củ bột và quả đậu. Ăn hết, nó nhìn mặt trời lặn rồi nó nằm xuống đưa chiếc vòi quấn hờ quanh thân hình con người. Qua cử chỉ đó, Naoh kết luận rằng sự kết thân vậy là trọn vẹn, anh có thể ở lại giữa bầy ma mút chờ cho đến ngày anh và cả Gaw khỏi hẳn vết thương, tránh được bọn Kzamms, con sư tử, con hổ và con gấu xám. Biết đâu rồi lại còn có thể được phép đốt lên ngọn Lửa lem lém và được thưởng thức hương vị ngọt ngào những củ bột, những hạt dẻ và những tảng thịt, tất cả đều nướng thơm tho.
Nhưng mặt trời đã quét ráng đỏ lựng đầy lên phía tây bát ngát rồi đốt sáng những đám mây huy hoàng. Đây là một buổi chiều đỏ như bông hoa dong riềng, vàng như một cánh đồng kim cúc, tim tím như những hoa niễng ven bờ sông mùa thu, và những ánh lửa của nó sục xuống tận sâu trong lòng sông, một trong những buổi chiều đẹp của trái đất trần tục. Nó không tạo ra những khoảng trống bao la như kiểu những buổi chiều vàng mùa hè, nhưng lại có những hồ, những đảo và những hang động nhào nặn với cái ánh những hoa hồi, hoa lay ơn và hoa tường vi, mà vẻ lộng lẫy đã xúc động tâm hồn hoang dã của Naoh.
Anh tự hỏi: Vậy thì ai đã đốt sáng những vùng rộng vô vàn đó, những giống người nào và những loài thú nào sinh sống sau dãy núi của Trời.
Naoh, Gaw và Nam sống trong khu vực của bầy ma mút đã được ba ngày. Những người Kzamms ương ngạnh vẫn cứ rình mò bên bờ Sông Lớn, với hi vọng bắt được và nhai tươi nuốt sống những con người đã phá hủy mưu mẹo, thách thức sức lực và cướp đoạt Lửa của họ.
Naoh không còn kinh gờm bọn chúng nữa, mối thân thiện của anh với bầy ma mút đã được trọn vẹn rồi. Mỗi buổi sáng, sức lực anh càng thêm vững. Đầu anh không còn ù ù nữa; vết thương ở vai anh cũng nông, đã kín miệng nhanh, mọi cơn sốt đều đã dứt, Gaw cũng đã khỏi. Thường thường ba người Oulhamr đứng lên một gò cao thách thức quân thù.
Naoh kêu to:
- Có sao chúng bay cứ rình mò quanh bầy ma mút và những người Oulhamr? Trước những con ma mút, chúng bay cũng chỉ như những con chó hoang trước con gấu lớn. Không có cây chùy hoặc lưỡi rìu của một tên Kzamms nào chống nổi cây chùy và lưỡi rìu của Naoh. Nếu chúng bay không sớm quay trở lại đất săn của chúng bay, chúng ta sẽ giăng bẫy bắt chúng bay và sẽ đuổi chúng bay đi!
Nam và Gaw gầm lên tiếng thét chiến đấu và vung ngọn lao. Nhưng những người Kzamms lại lẩn lút sau bờ bụi rậm rạp, trong bãi lau sậy um tùm, dưới những cây phong, cây sung, cây tần bì hay những cây sến. Bất chợt, thấy một thân hình lông lá, một cái đầu tóc rậm xù, hay là những bóng đen lờ mờ chuồi đi trong bóng tối nhờ nhờ. Và tuy rằng chẳng hề sợ hãi chút nào, những người Oulhamr rất bực bội với sự có mặt đáng ghét đó. Nó đe dọa tương lai, bởi vì cũng sắp phải rời bầy ma mút để quay trở lên phía bắc. Con trai Báo đốm suy nghĩ những cách đuổi kẻ thù ra xa con đường của mình.
Anh tiếp tục đem quà tặng con ma mút đầu đàn. Mỗi ngày ba lần, anh gom cho nó những thức ăn ngon lành và anh nhiều lúc ngồi rất lâu bên nó, cố tìm cách hiểu ngôn ngữ của nó và làm cho nó hiểu ngôn ngữ của anh. Con ma mút sẵn lòng lắng nghe tiếng nói của con người; nó lắc lư cái đầu và có vẻ tư lự; đôi lúc, một ánh kì lạ sáng lên trong con mắt nâu của nó hoặc nó nhăn mí mắt như là nó cười. Và như thế thì Naoh suy nghĩ: “Con ma mút to lớn đã hiểu Naoh, nhưng Naoh chưa hiểu nó được”.
Tuy thế, hai bên cũng đã trao đổi những cử chỉ có ý nghĩa rõ ràng dễ hiểu và đều liên quan đến việc ăn uống. Khi người lữ hành gọi: “Đây này!” thì con ma mút đến gần ngay, cho dầu Naoh có nấp trốn; bởi vì nó biết rằng ở đó có những củ bột, những thân cây tươi mềm hoặc các thứ quả. Lâu dần, họ tập được cách gọi nhau, dù không để làm gì cả. Con ma mút cất một tiếng rống nhè nhẹ; Naoh nói rành rọt một hoặc hai âm. Cả hai đều rất thích thú được ở bên nhau. Con người ngồi bệt xuống đất, con ma mút nhẹ nhàng đi quanh và thỉnh thoảng, để đùa vui, nó khẽ cuốn vòi quanh mình anh và nhẹ nhấc bổng lên.
Để đạt mục đích của mình, Naoh cũng đã bảo hai chiến sĩ của anh tặng quà cho hai con ma mút khác, cũng là chỉ huy, sau con đầu đàn khổng lồ. Bây giờ thì chúng đã quen thân với những người lữ hành, chúng bày tỏ rõ lòng thân thiện mà họ mong muốn ở chúng. Sau đó, Naoh lại bày cho hai chàng trai trẻ cách làm cho những con vật khổng lồ ấy quen với tiếng nói của họ; kết quả tốt đến mức qua ngày thứ năm, hai con ma mút ấy chạy tới khi có tiếng gọi của Nam và Gaw.
Những người Oulhamr lại có được một niềm hoan hỉ lớn. Một buổi chiều, trước khi hoàng hôn tắt, Naoh đã thu thập sẵn cành khô và cỏ khô, anh mạnh dạn thử nhóm Lửa. Không khí mát, hơi khô ráo, gió nồm nhẹ. Và ngọn lửa bốc, trước còn đen vì khó, sau thì trong sáng lên, phừng phực và ửng màu của bình minh.
Từ khắp các ngả, lũ ma mút chạy xộc tới. Những cái đầu vĩ đại nhô lên và những cặp mắt ánh lên nỗi lo âu. Những con nóng nay đã rống lên. Bởi vì chúng đã từng biết Lửa. Chúng đã gặp nó trên đồng cỏ và trong rừng, khi tiếng sét đánh xuống, nó đã đuổi theo chúng, với những tiếng gãy răng rắc kinh hồn; hơi thở nó nung nấu thịt chúng, răng nó cắn thủng lớp da bất khả xâm phạm của chúng, những con đã cao tuổi vẫn nhớ lại những con bạn đã bị cái thứ khủng khiếp ấy tóm lấy và không còn bao giờ trở lại với bầy. Bởi thế cho nên chúng cứ chòng chọc mắt nhìn lo sợ và đe dọa, cái ngọn Lửa ấy chung quanh có những con thú đứng thẳng bế nhỏ.
Naoh cảm giác thấy sự bất bình của chúng, anh tiến lại gần con ma mút lớn và nói với nó:
- Lửa của những người Oulhamr không thể trốn chạy, nó không thể vươn ra qua cây cối, nó không thể nhảy vào bầy ma mút. Naoh đã giam nó trong một xô đất mà nó chẳng còn kiếm được chút thức ăn nào.
Con thú khổng lồ được dẫn đến cách ngọn lửa mười bước. Nó ngắm nghía con vật lạ ấy và, có vẻ tò mò hơn đồng loại đồng thời một niềm tin u muội cũng nảy sinh khi thấy những người bạn yếu đuối của mình vẫn hết sức bình thản, nó thấy yên tâm. Trạng thái bồn chồn hay bình tĩnh của nó vốn là mực thước cho sự bồn chồn hay bình tĩnh của cả bầy từ hàng bao năm, thành thử tất cả bọn chúng dần dần đều không còn lo ngại về cái đốm lửa bất động của mấy người Oulhamr như chúng đã kinh hãi cái Lửa khủng khiếp vẫn chạy như gió cuốn trên đồng cỏ.
Thế là Naoh có thể nuôi ngọn Lửa và đuổi xa bóng tối. Chiều tối hôm đó, anh và các bạn được nếm thịt, củ bột, nấm nướng chín và họ tận hưởng những món rất ngon miệng đó.
Ngày thứ sáu, sự có mặt những người Kzamms không còn có thể chịu nổi. Bây giờ thì Naoh hoàn toàn lại sức; ngồi khiến anh bực bội. Không gian bao la gọi anh đi lên phía bắc. Vừa nhìn thấy vô số những thân hình lông lá thập thò trong bãi ngô đồng, anh bừng bừng nổi giận, anh thét lớn:
- Lũ người Kzamms đừng có hòng ăn thịt Naoh, Gaw và Nam.
Rồi anh gọi hai bạn đồng hành lại và bảo:
- Các bạn hãy rủ những con ma mút đã kết thân, và Naoh cũng sẽ gọi con đầu đàn đi theo. Như thế nhất định chúng ta sẽ diệt được quân Ăn thịt người.
Sau khi đã cất giấu Lửa ở một chỗ chắc chắn, những người Oulhamr ra đi. Ra khỏi khu vực, chốc chốc họ lại đem thức ăn cho ma mút, và Naoh thỉnh thoảng lại nói với giọng êm tai. Tuy thế, được một quãng chưa bao xa, mấy con thú khổng lồ ngần ngại. Ý thức về trách nhiệm của chúng với bầy càng tăng lên với mỗi bước đi xa khu vực. Chúng dừng lại, chúng quay đầu về phía Tây. Thế rồi, không con nào bước thêm nữa. Và khi Naoh cất tiếng gọi thì con ma mút đầu đàn trả lời bằng tiếng gọi của nó. Con trai Báo đốm quay lại với nó; anh đưa tay vuốt ve cái vòi của bạn và nói:
- Bọn Kzamms đang nấp kín sau những lùm cây! Nếu các bạn ma mút giúp chúng tôi tiêu diệt chúng, chúng sẽ không còn dám rình mò chung quanh khu vực các bạn!
Thủ lĩnh ma mút vẫn đứng yên không động tâm. Nó không ngừng dõi theo, ở phía sau, cái bầy xa xa kia mà nó dắt dẫn số phận. Naoh hiểu rõ bọn Kzamms đương ẩn nấp chỉ cách vài tầm lao, không thể đành chịu bỏ cuộc tấn công. Anh luồn qua những đám cây cối, theo sau anh là Nam và Gaw. Những mũi lao rít lên; vô số tên Kzamms nhô hẳn lên trên bờ bụi để nhằm đối phương cho dễ, và Naoh thốt ra một tiếng kêu gọi dài chói tai.
Bấy giờ, vị thủ lĩnh ma mút tỏ vẻ hiểu tình thế. Nó phóng ra không gian cái tiếng rống oai hùng vẫn tập hợp bầy; nó xông thẳng vào bọn Ăn thịt người, theo sau là hai con đực đã quen với Nam và Gaw. Naoh vung cao cây chùy, Nam và Gaw tay trái cầm rìu, tay phải nắm chắc ngọn lao, cùng xông lên gào thét hăng máu chiến đấu. Bọn Kzamms khiếp đảm, tản ra trong bụi rậm. Nhưng giận dữ đã bừng lên trong mấy con ma mút, chúng đuổi theo bọn chạy trốn không khác tấn công con tê giác; trong khi đó, từ bờ Sông Lớn, cả bầy chạy tới, rẽ thành những đám màu hung. Mọi thứ đều gãy răng rắc trên lối đi của bầy thú đồ sộ; những con vật đang còn ẩn nấp, chó sói, chó rừng, hoẵng, hươu, hươu rậm sừng, ngựa, lừa rừng, lợn lòi chồm lên từ bên dưới chân trời và chạy trốn như gặp cơn lũ của một dòng sông lớn.
Con ma mút đầu đàn đuổi kịp trước hết một tên chạy trốn. Tên Kzamms nằm bẹp xuống đất, rống lên vì khủng khiếp; nhưng cái vòi cuồn cuộn đã co lại quấn lấy hắn rồi tung thẳng lên cao cách mặt đất đến mười cẳng tay; và khi hắn rơi xuống, một trong bốn chiếc cẳng đồ sộ chà hắn như một con bọ. Tiếp đó, thêm hai tên Ăn thịt người nữa bỏ mạng.
Cả bầy thú dồn đến. Cơn nước triều ấy dâng cao trên bụi rậm; một đợt sóng thần những cơ bắp tràn ngập cánh đồng, mặt đất phập phồng như một bộ lồng ngực.
Những tên Kzamms còn sống sót đều chạy trốn mất hồn mất vía về phía nam. Chẳng còn gì phải lo sợ về cạm bẫy của chúng. Chúng phải từ bỏ cho đến suốt đời không còn dám săn đuổi những người Oulhamr và ăn thịt họ; chúng sẽ đưa về cho bầy của chúng câu chuyện kì lạ về sự kết thân giữa những con người ở phía bắc với những con ma mút, truyền thuyết này sẽ lưu truyền và sống mãi qua những thế hệ, nhiều không sao kể xiết.
Trong khoảng mười ngày, bầy ma mút xuôi dần về phía nhứng miền đất thấp, men theo bờ sông. Cuộc đời của chúng thật là tươi đẹp: Hoàn toàn thích nghi với đất sống; sức lực căng đầy hai mạng sườn nặng trịch; một kho thức ăn dồi dào chờ sẵn bên mỗi khuỷu sông, trong bùn các đầm lầy, trên đất mùn những cánh đồng bát ngát, giữa những đám rừng thưa đại thụ cổ kính.
Không một con thú nào quấy nhiễu đường đi của chúng. Chúa tể khoảng rộng bao la; chủ nhân những chuyến di tản và những đợt nghỉ ngơi của mình; tổ tiên đã ổn định sự chiến thắng cho chúng, hoàn chỉnh bản năng chúng, gây nề nếp cho thói quen sống thành bầy, tính toán đường đi nước bước và mưu lược, nơi dừng chân và trật tự trên dưới, bồi đắp cho sự bảo vệ kẻ yếu và cho sự hợp sức những kẻ mạnh, cốt cách bộ óc chúng thì tế nhị, giác quan của chúng vô cùng tinh tế: chúng có một cái nhìn chính xác, không phải là con mắt ngơ ngác của giống ngựa hoặc bọn trâu rừng, khứu giác nhạy, xúc giác đúng, thính giác tinh.
To lớn nhưng dẻo dai, nặng cân mà lanh lẹ, chúng xông pha thăm dò khắp các sông nước và đất đai, sờ nắn những vật cản trở, đánh hơi, hái, nhổ, bóp nát bằng cái vòi với cơ man những đường thớ mảnh dẻ, có thể cuộn tròn như con rắn, siết chặt như con gấu, lao động như bàn tay con người. Cặp ngà của chúng dũi đất; chỉ một cái đạp từ những chiếc cẳng tròn, chúng nghiền nát con sư tử.
Không có gì hạn chế nổi chiến thắng của nòi giống chúng. Thời gian cũng thuộc về chúng như là không gian. Kẻ nào có thể quấy rối khi chúng nghỉ ngơi? Kẻ nào sẽ có thể ngăn cấm được chúng lưu truyền qua những thế hệ?
Naoh suy tưởng như vậy trong khi anh theo bước đám cư dân thú khổng lồ. Anh hoan hỉ lắng nghe tiếng đất vỡ rắc rắc khi chúng bước, anh kiêu hãnh lặng ngắm những đoàn dài hiền hòa, nối tiếp thành bực trước dòng sông hay dưới những lùm cành lá mùa thu; mọi giống thú đều lảng xa khi chúng lại gần, và các giống chim muốn nhìn chúng thì lao từ trên trời xuống hoặc bốc lên từ những bãi sậy. Quả là những ngày hết sức êm đẹp, an toàn và no đủ đến nỗi, nếu không nhớ lại hình ảnh của Gammla, có lẽ Naoh chưa mong muốn sớm chấm dứt. Bây giờ đã hiểu rõ loài ma mút, anh nhận thấy chúng không dến nỗi cứng rắn, không đến nỗi ngả nghiêng, và lại công bằng hơn so với con người. Chỉ huy của chúng không đến nỗi như Faouhm, đáng gờm đối với chính cả những bạn thân; nó dẫn dắt bầy thú không cần đe dọa và không thủ đoạn thâm hiểm. Không hề có lấy một con ma mút tỏ ra tính tình độc dữ như Aghoo và như các em hắn...
Vừa mới tinh mơ, khi dòng sông hiện ra mờ xám phía đông, bầy ma mút thức dậy trên mặt đất ẩm ướt. Lửa reo, no ú củi thông hoặc củi sung, củi sến hay củi bồ đề, và trong chốn thâm cùng rừng rú, trên bờ sông sương phủ, các thú vật nhận ra rằng cuộc sống của thế gian đã bắt đầu trở lại.
Cuộc sống ấy lan tràn trong những áng mây; nó in rõ lên đó biểu tượng của tất cả những gì mà nó đã kéo bật ra từ các hư không của bóng tối. Ở đây, thiếu nó, những đá vân ban, thạch anh, phiến ma nham, vân mẫu, những quặng, đá ngọc, đá hoa, đành phải nằm ngủ, không màu sắc và giá lạnh; lại cả biểu tượng của tất cả nhưng gì mà nó đã sáng tạo ra thành hình dạng và màu sắc bằng cách khuấy động mặt biển sôi động và làm cho nó tan bay trong không gian, bằng cách hòa hợp với nước để dệt ra cây cối và để nhào nặn thịt thú vật.
Khi cuộc sống ấy tràn đầy bầu trời thu nặng trĩu, những con ma mút giơ cao vòi rống lên tận hưởng sức thanh xuân, phơi phới vào buổi sáng và làm cho lãng quên buổi tối. Chúng đuổi theo nhau trên những bến bờ ngoằn ngoèo lồi lõm và cho tới tận đầu mỏm những doi đất; chúng tụ tập thành nhóm, xúc động với cái thích thú đơn giản và sâu xa là được cảm giác thấy cũng cùng vóc dạc, cùng bản năng, cùng cử động như nhau. Rồi đó, không vội vàng và cũng không tốn sức, chúng đào bới củ, nhổ cây tươi, gặm cỏ, nhá hạt bồ đào và quả sồi nhấm nháp nấm mối, nấm thông, nấm mỡ, nấm vàng và nấm nhương. Chúng thích cùng một lúc kéo nhau cả bầy xuống bến uống nước, và lúc đó thì dân số chúng có vẻ đông đúc hơn, hình khối chúng có vẻ oai vệ hơn.
Chốc chốc, Naoh trèo lên trên một gò đất hoặc leo lên một mỏm núi đá để xem chúng cuồn cuộn kéo ra phía bờ sông.
Lưng chúng nối tiếp nhau như những đợt sóng một cơn lũ; chân cẳng to kềnh thọc thủng đất sét; tai chúng giống như những con dơi khổng lồ lúc nào cũng chực bay lên; chúng huơ huơ những cái vòi trông như thân cây duối phủ dày một lớp rêu lấm bùn; và duỗi dài cái thân thon nhọn, trơn, cong và bóng nhoáng của hàng trăm chiếc ngà.
Chiều trở lại, lại một lần nữa, những đám mây thu gọn cái lộng lẫy của mọi sự vật; đêm tối chết chóc ập xuống như một đám mù tím nhợt và Lửa bắt đầu bùng lên. Những người Oulhamr đem cho nó thật nhiều thức ăn. Nó ngốn ngồm ngoàm gỗ thông và cỏ khô, nó thở phì phò khi nó gặm cành liễu, hơi thở của nó cay xè khi đi qua những thân cây và lá ẩm. Nó càng lớn ra, thân hình nó càng sáng sủa, tiếng nó reo ầm ào hơn, nó nung khô đất lạnh và đuổi bóng tối ra xa đến một nghìn cẳng tay. Trong khi Lửa tăng thêm hương vị ngọt ngào cho thịt, hạt bồ đào và củ bột, con ma mút đầu đàn đến nhìn nó. Con thú đã quen với nó; chú ta thích thú với những vuốt ve và ánh sáng của nó. Chú ta chằm chằm đôi mắt tư lự nhìn vào nó và để ý nhận xét những cử chỉ của Naoh, Nam hay Gaw ném cành lá, củi khô hoặc thân rạ vào những cái mõm đỏ chói của nó. Biết đâu con đầu đàn ma mút ấy lại chẳng thoáng thấy, rất mơ hồ, loài ma mút sẽ mạnh gấp bội nếu dùng được Lửa.
Một buổi tối, con thú khổng lồ tiến lại gần hơn mọi lần, duỗi vòi ra và hít những luồng hơi bốc lên từ cái con vật có hình dáng thay đổi luôn đó. Nó dừng lại, đứng im như một tảng đá đen; thế rồi, cuộn lấy một cành củi to, nó giơ cao, giữ yên một lúc rồi quăng vào giữa bếp lửa. Cành củi làm bay tung một đám tia sáng, kêu răng rắc, thổi phì phì, phun khói và bốc cháy. Thế là, lắc lư cái vòi, vẻ hài lòng, nó bước tới đặt vòi lên vai Naoh từ nãy đến giờ cứ ngồi im. Bị ám ảnh bởi kinh hoàng lẫn khâm phục, anh tưởng rằng ma mút cũng biết chăm sóc Lửa như con người, và anh lại tự hỏi có sao ban đêm chúng vẫn cứ sống trong giá lạnh và ẩm ướt.
Từ buổi tối ấy, con ma mút đầu đàn càng tiến tới gần thêm ba người lữ hành. Nó giúp thu nhặt củi thành đống, nó bón cho Lửa một cách tinh không và cẩn thận, nó mơ màng trong vầng sáng màu đồng, tía hoặc xỉn, tùy theo mỗi giai đoạn sống của ngọn Lửa. Nhiều ý niệm mới mẻ nảy nở trong cái đầu đồ sộ của nó, lập nên mối liên hệ tinh thần giữa nó và những người Oulhamr. Nó hiểu rất nhiều lời nói và vô số cử chỉ; nó cũng lại biết tự nó làm cho người ta hiểu mình; vào thời kì đó, những trao đổi giữa con người với nhau không đi quá những hành động nhất thời tước mắt và rất gần, mà tầm lo xa của loài ma mút và khả năng hiểu biết sự vật của chúng thì lại đã lên đến tột đỉnh. Bởi thế, từ trước một thời gian nào đó, chỉ huy của chúng đã lo sắp đặt buổi lên đường của cả bầy, khi phải đi vào những miền đáng nghi ngại hoặc bí hiểm, nó cho thám báo đi trước; kinh nghiệm của nó, được một trí nhớ dai bền hướng dẫn, được sự suy nghĩ trau dồi, có cả sự phong phú lẫn tầm xa rộng. Dù chưa được chính xác cho bằng Naoh, nó cũng không phải là không có ít nhiều những ý nhiệm nào đó về sông nước, cây cỏ và thú vật; nó cảm thấy sự nối tiếp của những thời kì buồn tẻ và những thời kì trù phú trong mỗi năm, nó phân biệt một cách thô thiển đường đi của mặt trời và không nhầm lẫn với đường đi của mặt trăng. Nếu nói được cái thứ tiếng của con người, chắc là nó càng không đến nỗi thô kệch hơn Aghoo và các em hắn, chắc là nó có thể nói ra một số điều nào đó mà ngay chính già Goun cũng không nghĩ đến.
Bởi vì nếu con người, từ hàng ngàn thế kỉ, tăng thêm và làm cho tinh tế thêm mãi trí tuệ của mình bằng tất cả những gì đã sờ mó được và biến đổi bằng đôi tay, thì loài ma mút phát triển, nhờ vào cái vòi tuyệt kĩ của chúng, vô khối những điều còn xa lạ đối với con người. Nhưng, thu hẹp vào một ít âm thanh và một số dấu hiệu, ngôn ngữ của giống thú khổng lồ ấy không thể diễn đạt tất cả những hiểu biết của chúng. Những con tinh nhạy nhất cũng đành chịu giam cứng trong nỗi cô độc của suy tư, không có một điều suy nghĩ phong phú nào có thể phối hợp với một điều khác, hoặc lan truyền ra bằng cái dòng chảy của cái truyền thống truyền miệng của con người; truyền thống này nó mang đi, tập hợp, thay đổi không bao giờ ngừng những kinh nghiệm, sáng chế và hình ảnh... Dầu sao, khoảng cách cũng vẫn chưa đến nỗi không thể vượt qua. Nếu truyền thống ở loài ma mút chỉ đóng khung vào việc lặp lại những hành động và những cử chỉ từ hàng ngàn năm, vào việc lưu truyền những mách khóe và mẹo mực, vào một sự bày bảo đơn giản về cách dùng các dụng cụ hoặc vào những bổn phận đối với cộng đồng và những cá thể, chúng lại có mặt lợi là được một bản năng hợp quần lâu đời hơn ở con người và một tuổi thọ thuận lợi cho kinh nghiệm cá thể. Vậy cho nên cũng hiến có những con người, hơn là những con ma mút được nhận ở cuộc sống một bài học đã lâu bền lại phong phú. Naoh nhận thấy ở người bạn khổng lồ của mình, được một cuộc sống dài lâu đã giữ nguyên vẹn sức lực, sức dẻo dai và trí nhớ, mắt, tai và mũi vẫn giữ nguyên sức trẻ, ở nó có một trí thông minh cao hơn cả Goun mà những hồi ức thì rất rộng nhưng khớp xương thì đã cứng đờ, cử chỉ thì chậm chạp và chệch choạng, tai nghễnh ngãng và mắt mờ...
Trong khi ấy, bầy ma mút tiếp tục xuôi dòng Sông Lớn và đường chúng đi đã bắt đầu tách dần con đường sẽ đưa những người Oulhamr về với bầy. Bởi vì con Sông Lớn, thoạt đầu đi theo hướng bắc, cứ chếch dần về phía đông và sắp chuyển theo phía nam. Naoh có ý lo ngại. Trừ phi bầy thú vui lòng bỏ con đường đi theo bờ sông, không thì phải từ giã chúng. Và, cũng đã là một nếp quen rất êm dịu được sống cùng những bạn đường đồ sộ và phóng khoáng ấy. Sau bao nhiêu yên ổn, những cảnh cô đơn càng thấy có vẻ hung dữ hơn lên. Xa xa kia, dưới trời thu nặng hạt mưa, trong rừng sâu đầy thú dữ; trên đồng cỏ mênh mông thối ruỗng, rồi đây ngày và đêm chỉ có cạm bẫy và rình rập, sự bạo tàn của thiên nhiên và sự thâm hiểm của thú dữ.
Một buổi sáng, Naoh dừng lại trước con ma mút đầu đàn và nói:
- Con trai Báo đốm đã kết thân với bầy ma mút. Trái tim anh ta đã rất hài lòng với các bạn. Anh ta còn muốn đi theo các bạn không biết bao nhiêu mùa nữa. Nhưng bây giờ anh ta phải trở về gặp lại Gammla bên bờ Đầm lầy lớn. Con đường của anh ta là ở phía bắc và về phía tây. Vì sao bầy ma mút không muốn xa rời bờ sông!
Anh đứng tựa vào một chiếc ngà của con ma mút, con vật, linh cảm được sự bối rối và tầm quan trọng những ý đồ của anh, lắng nghe anh, không động đậy.
Sau đó, nó khẽ lắc lư cái đầu nặng nề, rồi nó lại bước đi để dẫn dắt bầy đàn tiếp tục men theo bờ sông. Naoh nghĩ rằng đó là câu trả lời của con thú khổng lồ. Anh tự nhủ: “Bầy ma mút cần có sông nước. Những người Oulhamr cũng vậy, rồi cũng muốn đi với con sông...”
Sự cần thiết đã hiện ra trước anh. Anh thở ra một hơi dài và gọi các bạn đường. Và, khi thấy phần cuối của bầy thú đã khuất, anh trèo lên một gò đất. Anh chiêm ngưỡng từ xa vị thủ lĩnh đã đón nhận anh và đã cứu anh thoát bọn Kzamms. Ngực anh phồng lên; đau xót và lo sợ đang nằm trong đó; và, hướng mắt về phía tây bắc, nhìn lên cánh đồng cỏ và cánh rừng rậm mùa thu, anh cảm giác thấy cái yếu đuối của con người; trái tim anh trào lên, chan chứa một niềm thân mến hướng tới bầy ma mút và sức lực của chúng.