Medicine for the soul.

Inscription over the door of the Library at Thebes

 
 
 
 
 
Tác giả: Tobias Wolff
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1271 / 37
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:10 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Đêm Đó
rances đã đến căn hộ của em trai để an ủi cậu ta vượt qua một cơn thất tình, nhưng Frank đã quên bẵng chuyện thất tình sau khi ăn hết nửa cái bánh nhân anh đào mà Frances mang đến. Frank hầu như không đả động đến cô nàng. Cậu ta còn đang ngây ngất về buổi truyền giảng lúc chiều. Đức cha Violet tuyệt vời – Frank nói; chưa bao giờ ông ấy giảng hay thế, thật là một bài truyền giảng mẫu mực. Frank muốn diễn lại bài truyền giảng cho Frances nghe, giống như lúc hai chị em còn nhỏ, cậu ta vẫn thường diễn lại những cảnh phim cho Frances xem.
“Franky, chị đang vội”.
“Nhanh thôi mà”, Frank nói. “Năm phút thôi. Mười phút là cùng”.
Ba năm trước, Frank đã đâm xe của Frances vào dải phân cách trên xa lộ và suýt chết; rồi sau đó cậu ta lại suýt chết vì sốc thuốc trong một cơn động kinh. Giờ thì cậu ta muốn truyền giảng cho cô. Frances nghĩ cô nên lấy đó làm mừng. Cô có thể cho Frank mười phút.
Đêm đó trời oi nhưng Frank vẫn mặc áo dài tay để che những hình xăm kỳ dị mà cậu ta phát hiện trên tay mình khi thức dậy vào một buổi sáng ở Manila, hồi cậu ta đóng quân ở đó. Cái áo màu trắng được gột hồ và là phẳng phiu. Cà vạt mà cậu ta đeo tới nhà thờ vẫn còn thắt chặt quanh cái yết hầu nhô cao. Frank cao lớn, căn phòng thì nhỏ. Cậu ta đi đi lại lại trước cái ghế sô-pha để lấy tinh thần trước khi bắt đầu. Cậu ta nhẹ nhàng với cái chân trái hơn; đầu gối bên đó đã bị vỡ nát trong lần đâm xe; mỗi lần Frank đặt chân phải xuống, cốc chén trong tủ lại lanh canh.
“Ok, bắt đầu này”, Frank nói. “Em sẽ phải bổ sung thêm chỗ này chỗ kia nhưng về cơ bản là em nhớ được”. Cậu ta tiếp tục đi đi lại lại chậm rãi và cố tình, hai tay chắp sau lưng, đầu cúi vừa đủ để ra vẻ đang suy nghĩ.
“Các bạn thân mến của tôi”, Frank cất tiếng. “Gần đây có thể các bạn đã đọc báo về một người đàn ông trong tiểu bang chúng ta, một người cha giống như rất nhiều các bạn có mặt ở đây hôm nay, mặc dù anh ta là một người cha sắp đối mặt với một lựa chọn khủng khiếp. Tên anh ta là Mike Bolling. Anh ta là nhân viên đường sắt. Mike, anh ấy là người gác chắn tàu; anh ta đã làm nghề này từ lúc học hết cấp ba, giống như cha và ông nội anh ta. Mike và Janice đã cưới nhau được mười năm. Họ hy vọng sẽ có nhiều con nhưng Chúa quyết định chỉ cho họ có một đứa, một đứa bé rất đặc biệt. Chín năm trước, họ sinh ra đứa bé và đặt tên là Benny – giống tên bố của Janice. Mặc dù ông ấy mất lúc Janice còn nhỏ nhưng Janice vẫn nhớ cái cười hơi lệch của ông và cách ông ngả đầu ra sau khi ông cười; Janice hy vọng đứa bé sẽ có một chút tinh thần của cha mình. Hóa ra, thằng bé còn hơn cả như thế.
“Benny. Thằng bé sinh ra đã luôn luôn hiếu động. Mike thường đùa rằng người ta có thể vận hành cả một đoàn tàu nhờ năng lượng của Benny. Thằng bé học giỏi, chơi thể thao cừ, nhưng cái mà nó giỏi nhất là cơ khí. Nó là đứa bé mà, nếu các bạn cho nó vào một căn phòng có một cái đồng hồ thì thằng bé sẽ tháo tung cái đồng hồ ngay khi bạn vừa quay đi. Khi Benny vào lớp hai, thằng bé đã có thể tháo lắp được đồng hồ, máy hút bụi, tivi, và động cơ cái máy cắt cỏ cũ của Mike”.
Cái giọng này không phải của Frank. Frank ăn nói đơn giản, không trịnh trọng mà cũng không bóng bẩy. Nó ăn nói đơn giản, đôi khi còn cộc lốc, đến mức những truyện cười nó kể nghe như là những lời thách đố, hoặc nói móc. Frances thường là người duy nhất hiểu chúng. Cái giọng mới này làm cô không an tâm. Một chuyện kinh khủng gì đó nhất định sẽ xảy ra trong câu chuyện nó kể – một điều gì đó mà Frances sẽ hối tiếc là mình đã nghe thấy. Cô biết điều đó. Nhưng cô không ngăn Frank. Frank là em trai của cô; và cô không bao giờ từ chối Frank bất cứ điều gì.
Hồi Frank còn là một đứa bé, vẫn còn chưa biết đi, cha của hai đứa có lần định dạy cho Frank một bài học về ý nghĩa của từ “không”. Vào bữa tối, ông đung đưa cái đồng hồ đeo tay trước mắt Frank rồi nói “Không!” và giật nó lại ngay khi Frank giơ tay định túm lấy nó. Khi Frank vẫn tiếp tục với lấy, Frank-cha phát vào tay thằng bé cho đến lúc Frank-bé khóc thét lên vì ấm ức và thèm muốn. Chuyện này xảy ra nhiều tối liền. Nhưng Frank-bé vẫn không hiểu ra bài học: cứ thấy cái đồng hồ trước mặt là nó đưa tay với. Frances bắt chước mẹ không nói gì. Lúc đó, Frances mới tám tuổi và mặc dù con bé sợ sự quan tâm của cha, nó cũng thèm muốn sự quan tâm ấy nên nó bực mình với sự ương bướng của Frank. Tại sao thằng bé mãi không chịu hiểu ra?
Thế rồi một lần, cha cô đã tát Frank. Đấy là đêm Giao Thừa. Frances vẫn nhớ những cái mũ ngớ ngẩn có nhiều tua mà họ đang đội lúc cha cô tát Frank. Trong một khoảng thời gian sau cái tát, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng hít hơi của Frank trong lúc thằng bé vặn vẹo trên ghế, mặt đỏ tím, chuần bị gào lên. Frank-cha cúi đầu. Frances nhận ra cha mình cũng bất ngờ về hành động của mình. Nó lo lắng về điều sắp xảy ra. Nó nhìn mẹ, nhưng mẹ đã nhắm nghiền mắt. Trong những năm về sau này, Frances cố nghĩ đến cái khoảnh khắc mà cuộc sống của họ ngoặt sang một hướng khác, và bao giờ cô cũng nghĩ đến cái khoảnh khắc khi cha cô biết mình đã làm một việc sai, đã run rẩy chờ sự chỉ trích. Chuyện gì có thể xảy ra nếu như mẹ cô đã lao ra khỏi ghế, đến đứng bên cha cô, yêu cầu ông dừng lại và không bao giờ được tái diễn chuyện đó? Hoặc nếu mẹ cô chỉ cần nhìn cha, để xác nhận tội lỗi kia? Nhưng bà đã nhắm nghiền mắt, và vẫn nhắm mắt cho đến lúc Frank mở toang chúng ra bằng những tiếng gào tuyệt vọng và cha cô bỏ ra khỏi phòng. Ngay cả lúc đó, Frances biết, mẹ cô đã không thể cho phép mình mở mắt nhìn cái điều mà bà không có sức để chống lại. Tim mẹ cô không khỏe. Ba năm sau, mẹ cô vươn người định lấy lọ thuốc; bà nói “Ôi”, rồi ngồi bệt xuống sàn, và tắt thở.
Nhưng Frances thì chống lại cha. Trái với lệnh của ông, Frances mang thức ăn vào phòng cho Frank khi thằng bé bị phạt; cô bênh Frank và khuyến khích nó đứng lên tự bảo vệ mình. Frank-cha cho rằng thằng con trai của mình cần phải bị đánh gục, nhưng Frank cương quyết không gục ngã. Nó làm tất cả những gì cha không cho phép; và Frances thì ủng hộ và bảo bọc mỗi khi nó bị bắt quả tang. Dần dần, cha của hai đứa chẳng còn cần lý do biện minh cho sự ghét bỏ của mình nữa. Sự lầm lì của ông ngày càng trở nên nặng nề, cùng với nó là sự nặng nề của bàn tay. Một đêm, Frances túm lấy cái thắt lưng của cha khi ông định vụt Frank, và khi ông xô Frances ngã sang một bên thì Frank đã lao đầu vào bụng ông. Frances chồm lên lưng cha; cả ba vật lộn trong phòng. Khi mọi việc kết thúc, Frances nằm vật trên sàn với một đôi môi rách và những tiếng ù trong tai nhưng cô cười phá lên một cách man dại.
Cha cô cấm Frank mọi thứ, còn Frances không bao giờ từ chối em bất cứ điều gì. Frank biết sự miễn cưỡng của chị mình và học cách lợi dụng nó, nhất là trong những tháng trước khi cậu ta bị tai nạn. Cậu ta có thể chiếm nhà Frances, quấy quả cô ở chỗ làm, suýt phá hỏng cuộc hôn nhân của cô. Cho đến tận bây giờ, chồng Frances vẫn chưa tha thứ cho cô về cái mà anh ta gọi là sự đồng lõa của cô trong cơn ác mộng đó. Nhưng chồng cô chưa bao giờ bị túm người ném ngang qua phòng, bị đá, hay bị đập đầu vào cửa. Chưa có ai nói với chồng cô bằng những lời như cha cô đã nói với Frank. Chồng cô không biết đến cảm giác bất lực và cô đơn. Không ai nên bị cỏ đơn trong thế giới này. Ai cũng cần có một người khác để giữ được niềm tin, dù có chuyện gì xảy ra, dù thế nào đi nữa.
“Vào đêm đó” Frank nói. “Người đốc công của Mike gọi điện cho anh để nhờ anh trực hộ một nhân viên khác ở trạm gác cầu nâng. Đấy là một đêm thứ Hai, giữa tháng Một, trời rét buốt. Janice đang đi dự một cuộc họp phụ huynh lúc Mike nhận được cú điện thoại, vì thế, anh không có lựa chọn nào khác là mang Benny đến trạm gác cầu cùng với mình. Mặc dù điều này vi phạm nội quy, nhưng Mike cần làm thêm giờ và anh cũng đã từng làm chuyện này nhiều lần mà không ai nói gì. Benny luôn ngoan ngoãn, và đấy cũng là dịp để hai bố con gần nhau thêm một chút. Họ có thể nói chuyện, chơi đùa, nấu gì đó ăn, rồi Mike sẽ xếp chỗ cho Benny ngủ với một cái túi ngủ và đệm khí. Sẽ chỉ là một cuộc phiêu lưu thông thường.
“Như tôi nói, đêm đó trời rét buốt. Trong trạm gác có một lò sưởi nhưng bị hỏng. Anh chàng mà Mike làm thay ca phải mặc áo da lông thú và đi găng tay. Mike trêu chọc anh ta về chuyện này, nhưng chẳng mấy chốc cả anh và Benny cũng phải đội mũ và đi găng. Mike đun một ít sô-cô-la nóng; rồi hai bố con chơi bài rumi nhưng thật không dễ chơi khi tay phải đi găng. Dù sao, họ cũng không quan trọng chuyện thắng thua; quan trọng là hai bố con ở bên nhau trong lúc gió lạnh thốc vào các cửa sổ. Cha và con bên nhau! Còn gì tuyệt vời hơn thế? Sau đó Mike phải nâng cầu lên cho vài chiếc thuyền đi qua, và mọi việc trở nên căng thẳng vì một chiếc thuyền đi vào quá gần, suýt đâm lên bờ. Người lái thuyền phải cho thuyền lùi ngược lại rồi mới tiến lên lại. Mọi chuyện diễn ra lâu hơn dự tính và cho đến lúc chiếc thuyền qua khỏi cầu thì lịch làm của Mike bị chậm lại một quãng lớn; anh sẽ phải nhanh chóng hạ cầu xuống cho kịp chuyến tàu tốc hành từ Portland. Đấy là lúc anh nhận ra Benny đã biến mất”.
Frank đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, như thể đang nghĩ xem có nên kể tiếp. Nhưng sau đó, cậu ta quay người lại và bắt đầu nói tiếp; và Frances nhận ra cái khoảnh khắc suy nghĩ vừa rồi cũng chỉ là một phần của buổi truyền giảng.
“Mike gọi Benny. Không có tiếng trả lời. Anh lại gọi lần nữa, to hết sức. Các bạn phải hiểu hoàn cảnh của Mike lúc đó. Anh phải hạ cây cầu xuống cho đoàn tàu qua, và anh chỉ còn vừa đủ thời gian để làm chuyện đó. Anh không biết Benny ở đâu nhưng anh có thể đoán ra. Chắc chắn là thằng bé đã lần xuống phòng máy”.
“Phòng máy. Mike và các đồng nghiệp thường gọi nó là cái cối xay. Các bạn phải tưởng tượng là người ta cần rất nhiều năng lượng để nâng và hạ một cái cầu; ngoài động cơ thì còn có dây tời, đòn bẩy, trục, bánh răng, bánh xe, vân vân và vân vân… Một cỗ máy khổng lồ. Chỗ nào cũng có các ốc vít lớn, rồi bánh răng với những cái răng to bằng kích thước một cái ngăn kéo. Họ có những lối đi men và những giàn giáo cho thợ vào trong cỗ máy, nhưng chẳng ai vào trong đó trừ khi họ biết mình đang làm gì. Họ phải biết chính xác mình đang làm gì. Họ phải biết chính xác mình cần đặt chân chỗ nào, và đừng có thò tay lung tung, và phải mặc quần áo đặc dụng. Mà ngay cả nếu bạn biết bạn đang làm gì thì bạn cũng không xuống đó khi người ta đang hạ cầu. Không bao giờ. Có quá nhiều thứ đang vận hành, bạn rất dễ bị mắc và cuốn vào trong cỗ máy. Mike đã nói với Benny hàng trăm lần “Tránh xa phòng máy”. Đấy là luật bất di bất dịch mỗi khi Benny đến trạm gác. Nhưng Mike đã mắc sai lầm là đưa Benny đến thăm quan phòng máy lúc người ta đang bảo trì các cỗ máy, và anh nhìn thấy mặt Benny sáng lên khi nhìn đống máy móc ấy. Benny rất muốn được đặt tay vào những bánh xe và răng, để xem chúng khớp với nhau như thế nào. Mike có thể cảm thấy cỗ máy hút Benny như một cái nam châm khổng lồ. Từ sau lần đó, Mike luôn phải để mắt theo dõi Benny thật sát, cho đến đêm nay, khi anh bị sao nhãng. Và giờ thì Benny đang ở dưới phòng máy. Mike biết chắc điều này”.
“Chị không muốn nghe cái chuyện này”, Frances nói.
Frank làm ra vẻ cậu ta không hề nghe thấy Frances. Frances định nói gì đó nữa, nhưng rồi cô chỉ nhăn mặt và để Frank kể tiếp.
“Để xuống phòng máy, Mike phải đi ra phía sau trạm gác, rồi chờ thang máy hoặc trèo xuống bằng thang cứu hỏa. Nhưng anh không có thời gian cho cả hai cách; anh chỉ có vừa đủ thời gian để hạ cầu xuống, mà ngay cả thế cũng phải hết sức khẩn trương. Anh phải hạ cây cầu xuống ngay bây giờ, nếu không cả đoàn tàu sẽ lao xuống sông cùng với tất cả hành khách trên tàu. Đây là tình thế của Mike, đây là lựa chọn của Mike: con trai anh, Benjamin, hay là những người trên tàu.
“Nào, chúng ta hãy dừng một phút để nghĩ về những người trên tàu. Mike chưa bao giờ gặp họ, nhưng anh đã sống đủ lâu để biết họ là người như thế nào. Họ giống như tất cả chúng ta. Một vài người biết đến Chúa, yêu quý hàng xóm, sống thánh thiện. Nhưng cũng có những người khác trên tàu. Trên tàu này, có những người đàn ông thì thụp tính toán và bòn rút từng đồng của những người phụ nữ góa chồng. Trên tàu này có cả người đàn ông mà nhà máy của ông ta giết chết và làm què cụt các công nhân. Trên tàu này có những kẻ ăn trộm, ăn cướp, những kẻ nói dối, những kẻ đạo đức giả. Có cả một người đàn ông thấy vợ mình vẫn chưa đủ, anh ta không thỏa mãn cho đến khi nào anh ta phải chiếm được tất cả phụ nữ trên thế giới. Có cả những kẻ đã làm chứng sai sự thật. Những kẻ ăn hối lộ. Có người đàn bà đã bỏ rơi chồng con vì dục vọng. Có kẻ bán hàng hóa tồi, những kẻ hèn nhát, những kẻ cho vay nặng lãi, những kẻ nghiện ngập, những kẻ sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì một lời hứa hẹn viển vông – kể cả ăn cắp từ người mang lại việc làm cho họ, từ bạn bè, từ gia đình, phải, kể cả từ gia đình của chính mình, lợi dụng tình thương của họ, vay nợ mà không trả, hoặc ăn cướp từ ngay chính nhà mình. Tất cả họ đều trên tàu, đều đang thức và đói như những con sói. Và trên tàu cũng có những người đang ngủ, những kẻ tuy mở mắt nhưng lại mộng du suốt ngày, không làm điều gì ác nhưng cũng không chống lại cái ác, họ như những người lính nằm xuống giả chết để không tham gia vào trận chiến vì thành phố của họ, vì gia đình họ, thậm chí cũng không vì vợ con họ. Vì những người này, làm sao Mike có thể từ bỏ đứa con trai của anh, thằng bé Benjamin của anh, thằng bé hoàn toàn vô tội?”
“Anh không thể. Dĩ nhiên là anh không thể, nếu anh chỉ dựa vào mình. Nhưng Mike không chỉ có một mình. Anh biết điều mà tất cả chúng ta đều biết, ngay cả khi chúng ta cố quên đi: chúng ta không bao giờ một mình, chưa bao giờ một mình. Chúng ta luôn ở trong sự hiện hữu của Chúa lòng lành, ban ngày cũng như ban đêm, ngay cả khi chúng ta chạy trốn khỏi Chúa vào trong bóng tối, khi chúng ta giấu mặt mình đi như những đứa con sợ hãi trước cha. Chúa sẽ không rời bỏ chúng ta. Không. Chúa sẽ không bao giờ bỏ chúng ta một mình. Kể cả khi chúng ta khóa tất cả các cửa sổ, chặn tất cả các cửa chính, Chúa vẫn sẽ vào. Dù chúng ta có bỏ hoang trái tim chúng ta và biến chúng thành đá, thì Chúa vẫn sẽ xây nhà ở đó.
Chúa sẽ không bao giờ bỏ chúng ta một mình. Chúa có trong tất cả các bạn ở đây, như Chúa ở trong tôi. Chúa ở cùng Mike, và cũng ở cùng kẻ ăn đút lót trên chuyến tàu đó, cả người phụ nữ muốn có bạn của chồng mình, cả người đàn ông nghiện rượu. Chúa biết nhu cầu của họ còn rõ hơn chính họ. Chúa biết rằng cái họ thực sự cần chính là Người, và dù họ có chạy trốn khỏi Chúa thì Người vẫn không bao giờ ngừng nói với họ rằng Người vẫn ở đó. Và vào lúc này, khi Mike không còn nơi nào để trốn chạy và không còn gì để bấu víu, anh mới có thể lắng nghe, và anh biết rằng anh không một mình, và anh biết điều anh ta phải làm. Chuyện này đã từng xảy ra, chính bởi người đang cất tiếng, Đức Chúa Cha Của Tất Cả, người đã hy sinh đứa con duy nhất của mình, đứa con yêu quý của mình, để những người khác có thể được cứu rỗi”
“Không!” Frances nói.
Frank dừng lại và nhìn Frances như thể cậu ta không nhận ra Frances là ai.
“Đủ rồi”, Frances nói. “Hạn ngạch nghe truyền giảng của chị năm nay chỉ có thế thôi”.
“Nhưng em chưa kể xong”.
“Chị biết thừa. Chị biết thừa cái chuyện này sẽ kết thúc thế nào. Anh này sẽ giết con mình, đúng không? Frank, chị nói cho em biết, đây là một câu chuyện rẻ tiền. Em nghĩ là những người nghe cái chuyện này nên rút ra điều gì, hả? Rằng họ nên giết con họ để cứu sống những kẻ xa lạ á?”
“Chuyện đâu chỉ có thế”.
“Ok, được rồi, thế thì cứ cho là đoàn tàu có đầy người đi, cứ cho là có mười đoàn tàu đi. Chị vẫn phải giết con mình chỉ vì cái lão có Chúa Cha đã làm thế á? Có phải ý nghĩa của cái chuyện này là thế không? Làm sao mà người ta lại nghĩ ra một thứ quái đản như thế? Thật là một câu chuyện kinh tởm”.
“Chuyện thật đấy”.
“Thật á? Franky. Chị xin em, em đâu phải là trẻ con”.
“Cha Violet biết một người ở trên chuyến tàu đó”.
“Thì dĩ nhiên là phải thế rồi. Để chị đoán nhé” Frances nhắm mắt lại rồi mở mắt. “Chắc là thằng nghiện hút. Thế rồi sau đó thì thằng này thay đổi và đi làm việc với trẻ lang thang ở Bra-xin và cho mọi người thấy là sự hy sinh của Mike là không vô ích chứ gì? Có phải thế không?”
“Frances, chị hiểu nhầm rồi. Chuyện không phải thế. Để em kể hết đã”.
“Không. Đấy là một câu chuyện kinh tởm, Frank. Không ai hành động như thế cả. Quỷ tha ma bắt, chắc chắn là chị không bao giờ làm thế’
“Vì chị chưa bao giờ được yêu cầu phải làm chuyện đó. Chúa không bao giờ yêu cầu chúng ta làm những việc mà chúng ta không thể làm được”.
“Chị cóc quan tâm ông ấy yêu cầu cái gì. Mà em học cái kiểu ăn nói đấy từ đâu hả? Em xem em có phải là em nữa không đấy”.
“Em phải thay đổi. Em phải thay đổi cách em nghĩ về cuộc sống. Có thể là cách nói của em cũng khác đi”.
“Phải rồi, lúc em say rượu nghe còn khá hơn”.
Frank có vẻ như định nói gì đó nhưng rồi rồi lại thôi. Cậu ta lùi lại một bước và ngồi xuống cái sô-pha La-Z-Boy mà người thuê nhà trước đã bỏ lại. Cái sô-pha vẫn còn đang bị dựng đứng.
“Chị cóc quan tâm”, Frances nói. “Kể cả nếu Chúa có dí súng vào tai chị, chị sẽ không bao giờ làm thế. Một triệu năm nữa cũng không làm. Em cũng sẽ không làm. Nói thật đi, Frank, giả sử chị là người ở dưới cái phòng máy đó, em có nghiền nát chị không? Em có ấn nút xay nhừ chị Frances của em không?”
“Đấy không phải lựa chọn mà em phải đối mặt”.
“Phải rồi, chị biết. Nhưng giả sử thế đi”.
“Em không phải lựa chọn. Mà Chúa cũng không dí súng vào đầu ai”.
“Ổ thật thế à? Thế còn địa ngục thì sao hả? Em gọi địa ngục là cái gì? Nhưng được rồi; bỏ qua địa ngục. Chị cóc quan tâm. Nào, em có nghiến chị hay không hả?”
“Đừng có thử thách em, Frances. Đấy không phải việc của chị”.
“Frank, chị đang ở dưới đó. Chị bị kẹt trong mấy cái bánh răng, đây, đoàn tàu thì đang đến, và trên tàu thì có Mẹ Teresa và 500 tội đồ, nào, tu tu tu… tàu đang đến này. Ai hả Frank? Em chọn ai?”
Frances muốn phá ra cười. Thằng Frank đang thẳng đơ trên sô-pha, hai tay bám chặt thành ghế – trông nó như sắp bốc lên thành một cái vòi rồng. Cô sẽ giữ cái hình dung đó cho riêng mình. Frank đang nghĩ và cô sẽ để cho nó nghĩ. Cô biết câu trả lời của Frank – rút cục thì không thể có câu trả lời nào khác, nhưng Frank chỉ không thể nói rằng “chị ấy là chị gái tôi”. Nó không thể chấp nhận chỉ thế là đủ. Không, nó phải nghĩ ra đủ thứ lý do cao cả, đẹp đẽ cho việc nó chọn cô. Mà cũng có thể, lúc đầu nó sẽ không chọn cô; có thể lúc đầu nó sẽ hèn nhát và sẽ nghĩ ra một câu trả lời sách vở nào đó. Frances cũng sẵn sàng cho cả chuyện đó; cô sẽ làm nó đổi ý thôi. Frances không ngại phải chiến đấu; nhất là cô không bao giờ ngại chiến đấu vì Frank. Vì nó, cô đã đánh nhau với bọn đầu gấu trong khu, với các ông bà giáo khệnh khạng, với những huấn luyện viên không công bằng, với bọn cho vay cắt cổ, với bọn cho thuê nhà, cả bọn xiết nợ thuê. Từ lúc còn là một đứa bé gái với cái đầu gối luôn trầy xước, cô đã chiến đấu với cha đẻ của mình, và nếu cần, thì cô sẵn sàng chiến đấu cả với Đức Cha Của Tất Cả, cái tên đầu gấu giấu mặt ấy. Cô đã sẵn sàng. Cũng sẽ lại giống như ngày xưa thôi; sẽ lại là hai chị em trong căn phòng trên tầng hai; hai đứa chờ đợi trong lúc cha mình sôi máu bên dưới, chửi rủa, sập cửa ầm ầm, và hút xì gà mù mịt căn nhà. Cô vẫn còn nhớ hết – sự run rẩy ở hai chân, những mạch máu giật giật bên cổ khi mùi khói thuốc ngày càng đến gần. Cô vẫn còn nếm được mùi khói và nghe tiếng chân cha cô lên cầu thang, và Frank thở dốc bên cạnh cô, nép vào cô, thì thầm tên cô và cô trả lời nó, trong lúc sự sợ hãi nhường đường cho cơn giận dữ và một niềm vui không thể diễn tả nổi: “Không sao đâu, Franky. Chị đây em”.
Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu - Tobias Wolff Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu