Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:45 +0700
Chương 14
T
hảo nguyên mượt mà. Đó là vùng đồng bằng rộng lớn, sáng lấp lánh với ao hồ cùng những dòng sông uốn lượn, gợi lên một nỗi niềm bâng khuâng đầy tiếc nuối. Thơ văn là tiếng nói, khơi gợi lòng nhiệt tình yêu nước, nhưng bánh mì lại giúp ấm bụng và luôn luôn chiến thắng văn thơ. Nét đẹp của Ukraine chính là đứa con của lịch sử: đôi mắt nai long lanh cùng làn da trắng mịn màng xứ Slav trên đôi má của người Tartar. Ít nhất đó là một vẻ đẹp bình thường. Galina có lẽ giống như vậy, Arkady thầm nghĩ.
Eva không mềm mại. Nước da tái nhợt và mái tóc đen nhánh, đen như than chảy trong tay, tạo nên một bức tranh đối lập. Đôi mắt cô tối sẫm. Thân hình mảnh mai nhưng mạnh mẽ như một cây cung, và anh nghĩ có lẽ cô được đầu thai từ một tiểu yêu tinh ưu tú dưới Địa ngục, chuyên thúc giục những kẻ phạm tội chậm chạp, lười biếng bằng cây đinh ba. Hẳn là cô đến từ vùng đất của núi lửa và dung nham phun trào. Rồi anh nhớ ra, thực tế phần nào thật đúng là như vậy.
Cô nằm như bệnh nhân trên giường khám bệnh và cầm tay anh di chuyển cùng tay mình để lòng bàn tay anh chỉ lướt qua da cô.
“Khu vực cấm là bước tiếp theo trong quá trình tiến hóa.”
“Chắc hẳn em đã nói chuyện với Alex.”
“Vâng, nhưng anh ta biết phải tìm kiếm cái gì, còn anh thì không. Hở vòm miệng.” Tay họ lướt trên môi cô. “Hở hàm ếch.” Tới vết sẹo ở cổ. “Ung thư tuyến giáp.”
“Chúng ta không cần làm thế này.”
“Nhưng chúng ta đã làm.”
Lướt qua ngực cô, nó kích động chọc vào lòng bàn tay anh. “Trái tim Chernobyl, một lỗ thủng trong tim theo đúng nghĩa đen.” Cô miết ngón tay anh dọc theo xương sườn mình. “Xương và tủy xương. Bệnh bạch cầu.” Và xuống sâu hơn. “Ung thư tuyến tụy và gan.” Tới khu vực thầm kín. “Ung thư cơ quan sinh sản. Chưa kể đến một loạt các khối u, đột biến, cụt tay, què chân, thiếu máu, cứng bắp, ngu dốt. Em chỉ muốn cho anh biết anh đang dính vào cái gì.”
“Anh đang học hỏi đây.”
Cô nói, “Lúc thảm họa xảy ra, và khi mọi người biết chuyện gì đang diễn ra, họ không còn tỏ ra cao thượng nữa. Các đoàn tàu chật kín, không ai có thể thoát khỏi Kiev đủ nhanh. Họ tích trữ viên iot; nhưng dù sao họ cũng đã bị ảnh hưởng. Tất cả đều uống say mèm, người người làm tình điên loạn. Nếu anh muốn biết con người hành động như thế nào vào ngày tận thế thì chính là như vậy. Người Chernobyl và Pripyat tỏa đi xin việc khắp cả nước, nhưng chẳng ai thuê họ. Ai muốn có người bị nhiễm phóng xạ trong nhà mình chứ, kể cả thời đó hay bây giờ? Mọi người rất có tài phát hiện ra bọn em. Bằng cách hỏi tuổi và nơi sinh. Em không đổ lỗi cho họ. Anh sẽ ở đây đêm nay chứ?”
“Anh phải ra ngoài một chút nhưng anh sẽ trở lại.”
“Sẽ không đâu.”
“Có chứ. Anh có một câu hỏi. Trong nghĩa trang của ngôi làng, đứa trẻ cuối cùng được chôn cất là khi nào? Tên là gì?”
“Chẳng quan trọng. Họ chôn tất cả bọn trẻ và cháu chắt ở đó.”
“Bất chấp quy định của Khu vực cấm à?”
“Sự tồn tại của họ đã là trái quy định rồi.”
“Cái tên Obodovsky có quen thuộc với em không?”
“Không và không câu hỏi nào nữa.” Cô lại nắm tay anh, lướt thẳng một đường từ khóe miệng tới khuôn ngực run rẩy và dừng lại ở phần hõm mượt mà nơi hông mình. “Em sẽ kéo anh trở lại,” cô thì thầm. “Em sẽ khiến anh kiệt sức, không thể rời giường được.” Cô nhấc đầu lên lúc anh trượt vào trong cô và hôn anh mãnh liệt, giữ chặt môi anh như thể nếu thả ra cô sẽ bị rơi xuống mặt đất. “Anh có biết em muốn gì không?”
“Em muốn gì?”
“Em muốn đám người chết xéo đi.”
Ở Pripyat, ánh sáng chậm lại như một màn sương lững lờ. Arkady đến điểm hẹn đúng mười giờ và trong hai mươi phút vừa qua, anh chỉ thi thoảng nghe thấy tiếng bước chân hoặc trông thấy bóng người di chuyển, có lẽ anh em Woropay muốn đảm bảo anh chỉ đến một mình.
Phía trước quảng trường là tòa thị chính, khách sạn, nhà hàng, trường học, nhưng giờ chỉ còn lại các bức tường mà thôi. Ánh trăng chiếu xuống những nơi không có đèn đường, tạo ra những hình thù kỳ quái, biến vòng quay Ferris thành một cái ăng-ten khổng lồ. Ít ra, các nền văn minh khác khi mất đi đều để lại những di tích tuyệt vời. Còn các tòa nhà ở Pripyat, cái nọ tiếp nối cái kia, đều rơi vào tình trạng bị phá hủy nghiêm trọng.
Dymtrus Woropay chợt hiện ra như một bóng ma to lớn ngay sát cạnh Arkady, “Bỏ xe lại. Đi theo tôi.”
Nói dễ hơn làm. Anh em Woropay đeo kính nhìn ban đêm, trượt bằng giày patanh, kêu lách cách trên nền xi măng và lướt trên mặt cỏ. Lúc đi bộ chúng có vẻ vụng về, nhưng trên giày trượt chúng lượn những vòng cung rất duyên dáng. Arkady rảo bước trong lúc hai anh em lượn ra lượn vào trong bóng tối để hướng anh đi dọc theo một đường mái vòm tới lối đi bộ xuyên qua nơi đã từng là khu vườn được chăm sóc kỹ càng và giờ trở thành mê cung của những cành cây thấp.
Chẳng thứ gì cản trở được anh em Woropay; chúng trượt qua vũng nước, làm nước bắn tung tóe, dùng vai gạt cây bụi sang một bên, tiến thẳng tới tòa nhà hai tầng có các cột đá chống đỡ bức tranh tường vẽ hình đàn ống và các nguyên tử: Nhà hát văn hóa một thời của Pripyat. Taras, cậu em, đẩy cửa mở ra và hú hét lúc trượt vào hành lang. Dymtrus lướt vào theo cách của mình và giơ hai tay qua đầu như thể gã vừa ghi bàn thắng.
Khi Arkady bước vào thì anh em Woropay đã khuất xa. Anh có thể nghe tiếng chúng vọng lại, nhưng bên trong quá tối nên khó xác định được chúng đi về hướng nào, lối đi lại rất phức tạp bởi hàng dãy phòng diễn xếp ngang dọc theo hành lang. Những vở kịch nào đã bị bỏ lại, để má kề má, tựa vào nhau mãi mãi? Bác Vanya gặp Kitty Karenina. Tất nhiên cũng sẽ có các buổi biểu diễn của thiếu nhi. Vua Chuột và Raskolnikov.
Tiếng các phím đàn piano bị quét qua vang lên từ sâu bên trong nhà hát, Arkady lướt qua hàng loạt phòng diễn cùng các kệ để đồ kêu loảng xoảng trong phòng chứa, lọt vào một hành lang hẹp gần như tối om. Anh dùng ánh sáng lập lòe từ đầu điếu thuốc để soi rõ lối đi dọc theo bức tường bị vẽ lên những lời nguyền rủa, đe dọa và hình giải phẫu thô thiển. Anh đã từng đến đây nhưng là vào ban ngày. Bóng tối không hề cảnh báo về mảnh kính vỡ dưới chân hay dây kim loại bị đứt đang lơ lửng trước mặt.
Cuối cùng, Arkady cũng dò dẫm tới được một tấm màn sân khấu, anh kéo sợi dây và ánh sáng từ ngọn đèn dầu tỏa ra. Một cây đàn piano bị gãy, mất phím đặt trên sân khấu, Taras Woropay vừa chơi vừa hát, “Bạn không thể luôn có được thứ mình muốn, nhưng bạn sẽ có được thứ mình cần!.” Trong khi đó, Dymtrus đeo ngược kính đi đêm trên đầu, vừa trượt vừa nhảy nhót điên cuồng từ cánh gà này sang cánh gà kia.
Khán đài là những tầng ghế dài màu đỏ, rải rác vài bộ bàn ghế gãy, chai lọ, giường đệm, giống như đồ nội thất bị ném ra thềm nhà. Bóng của Dymtrus in trên các bức tường. Một chiếc đi văng bị kéo sang bên cạnh cây đàn nơi Karel Katanay đang nằm tựa lên gối, chăn đắp ngang người. Arkady hầu như không nhận ra anh chàng đầu đinh trong bức ảnh ở nhà của người ông. Karel Katanay này có mái tóc dài, đính hạt cườm, khuôn mặt xanh xao cùng đôi mắt đỏ quạch. Chiếc áo phông khúc côn cầu, đội Detroit Red Wings, rộng thùng thình trên người. Những bông hoa bướm nhỏ, trầm tư trong những lọ đầy nước đặt quanh cái ghế và chai nước khoáng Evian loại một lít kẹp giữa hai chân gã. Arkady không biết mình đang trông đợi điều gì, nhưng chắc chắn không phải thế này. Anh đã đọc mô tả về buổi chầu của Nữ hoàng Elizabeth. Karel Katanay cũng giống hệt như vậy, một Elizabeth đệ nhất khô héo với hai gã cận thần ngu ngốc. Gã gối lên chiếc gối satin ở góc có thêu dòng chữ Je Ne Regrette Rien.* Khi Karel mỉm cười, thích thú vì Dymtrus xoay tít đầy hăng hái, anh thấy chân răng của gã đã bị sưng và mềm đi.
“Lấy đi những thứ bạn cần! cần! cần!”
Taras gục xuống phím đàn, còn gã anh trai to béo thì xoay tròn đến chóng mặt trên sâu khấu, Katanay làm một cử chỉ hoan hô mà không thực sự vỗ tay vào nhau.
Dymtrus dừng lại, chỉ về hướng Arkady. “Mang cho anh ta.”
“Một chiếc ghế.” Giọng Katanay không lớn hơn tiếng thì thầm là mấy, nhưng Dymtrus ngay lập tức nhảy khỏi sân khấu để mang một chiếc ghế từ chỗ ngồi khán giả lên và đặt trước chiếc đi văng để Arkady và Katanay có thể ngồi ngang hàng nhau. Nhìn gần, Katanay trông như hình vẽ của một đứa trẻ.
Arkady nói, “Trông cậu không được khỏe.”
“Tôi sắp tiêu rồi.”
Mũi Katanay rỉ ra dòng máu. Gã ấn chiếc khăn bông vào thấm máu một cách tự nhiên, gần như thanh lịch. Chiếc khăn có những chấm màu nâu cho thấy nó đã được dùng từ trước.
“Cảm cúm mùa hè,” Katanay nói. “Vậy là anh muốn biết về xác chết người Nga mà tôi tìm thấy?”
“Phải.”
“Chẳng có gì nhiều để nói. Một lão già ngu ngốc tôi tìm được ở một ngôi làng.”
Chất giọng khàn khàn của Katanay hạ thấp xuống mức thân mật, như thể họ đang thảo luận về một cảnh trong vở kịch sắp được diễn ngay trên sân khấu này. Katanay bảo gã chưa từng nhìn thấy ông ta trước đây và cũng không biết ông ta là người Nga cho đến khi giấy tờ của ông ta bị mất. Gã tìm thấy ông ta vào buổi sáng, lúc đó ông ta đang nằm ngửa, đầu quay về nghĩa trang, chảy máu nhưng không quá nhiều, ướt sũng vì mưa, đã lạnh cứng, bị chó sói cắn xé. Gã tình cờ phát hiện ra cái xác cùng một người cư trú bất hợp pháp gã đã gặp trước đó, tên là Seva, khoảng bốn mươi tuổi, cụt ngón út trên bàn tay trái. Arkady viết lại từng chi tiết đề phòng trường hợp anh em Woropay muốn phủ nhận sau này. Ghi chép là tốt. Nhưng quanh Katanay, chúng giống mấy con chó hết sức nghe lời, và rõ ràng gã đã yêu cầu chúng phải giữ im lặng.
“Chỉ vài câu hỏi thôi. Lúc đó, ông ta ăn mặc thế nào?”
“Ông ta rất giàu có. Toàn đồ đắt tiền.”
“Giày tốt à?”
“Rất đẹp.”
“Lau chùi kỹ lưỡng?”
“Bóng loáng.”
“Không dính bùn?”
“Không.”
“Áo sơ mi của ông ta bị ướt. Nó có dính bẩn không?”
“Vài cái lá thôi, tôi nghĩ thế.”
“Vậy là ông ta bị lật ngửa ra à?”
“Ý anh là gì?”
“Một người đã chết sẽ không lăn xung quanh.”
“Có thể lúc đó ông ta chưa chết hẳn.”
“Giống như có người lật ông ta lại để lấy ví tiền, sau đó ném giấy tờ tùy thân đi hơn. Cậu có tìm thấy thứ gì khác trên người ông ta không? Hướng đi, diêm, chìa khóa? Một lá thư?”
“Chả có gì.”
“Không chìa khóa ô tô à? Chẳng lẽ ông ta vẫn cắm nó trong xe?”
“Tôi không biết.”
“Cậu không nhận ra ông ta bị cắt cổ à?”
“Vết cắt nằm trong cổ áo và không có nhiều máu. Dù sao, lũ sói cũng đã xâu xé ông ta.”
“Kéo đi hay xé nát?”
“Không lôi kéo, chỉ táp vào mặt và mũi một chút, đủ để cắn đứt một con mắt.”
Một bức tranh đáng yêu, Arkady thầm nghĩ. “Lũ sói chỉ ăn mắt thôi à?”
“Chúng ăn mọi thứ.”
“Cậu thấy dấu chân chúng à?”
“Rất lớn.”
“Cậu có thấy chiếc ô tô hoặc vết bánh xe nào không?”
“Không.”
“Lúc đó dân làng đang ở đâu, vợ chồng Panasenkos và hàng xóm của họ ấy?”
“Tôi không biết.”
“Tại sao cậu lại có mặt ở đó?”
Dymtrus nói, “Đủ rồi. Cậu ấy đã trả lời cả triệu câu hỏi.”
“Không sao đâu, Dyma,” Katanay nói. “Theo lệnh của đại úy, chúng tôi phải kiểm tra lại dân số các ngôi làng trong Khu vực cấm cùng những đồ vật có giá trị.”
“Giống kiểu tượng ấy hả?”
“Vâng.”
“Cậu có muốn nghỉ một chút và uống gì đó không?”
“Có.” Katanay nhấp chút nước khoáng của Pháp và chúi mặt vào khăn tay để cười. Đề phòng bị chảy máu, Arkady đoán thế. “Tôi vẫn chưa vượt qua được Wayne Gretzky. Nói thật đi, anh có biết Gretzky không?”
“Không,” Arkady thì thầm, “không nhiều hơn những gì cậu biết về gã nhập cư bất hợp pháp bị cụt ngón út Seva đâu.”
“Sao anh biết?”
“Các chi tiết kỳ lạ. Dễ nói dối.”
“À?”
“Nó luôn có tác dụng. Đưa tay cậu cho tôi.”
Anh em Woropay ngọ nguậy lo lắng nhưng Katanay vẫn chìa tay cho anh, lòng bàn tay hướng lên. Arkady lật lại nhìn móng tay tím ngắt của gã. Anh ra hiệu Katanay rướn về phía trước và xách đèn lên quan sát tua tủa các mao mạch đang chảy máu trong đôi mắt trắng dã của Katanay.
“Nói thật đi,” Katanay lên tiếng. “Tôi sắp chết hả?”
“Nhiễm Xesi?”
“Triệu chứng quá rõ ràng.”
“Có điều trị gì không?”
“Anh sẽ phải uống Xanh Prussia, nó sẽ giải độc Xesi, nhưng phải uống trong chín ngày. Tôi không muốn. Giờ thì đến bệnh viện cũng chẳng còn nghĩa lý gì nữa?”
“Chuyện gì đã xảy ra? Sao cậu lại bị nhiễm?”
“A, đó lại là câu chuyện khác.”
“Có lẽ không. Ba người bị nhiễm độc Xesi: người đàn ông Nga đó, đối tác kinh doanh của ông ta và cậu. Cậu không nghĩ là có liên quan à?”
“Tôi không biết. Nó phụ thuộc vào cách nhìn nhận của anh. Lịch sử diễn ra theo cách rất hài hước, đúng không? Chúng ta đã trải qua quá trình tiến hóa, và giờ chúng ta sắp sửa tiến hóa ngược. Mọi thứ đều bị phá hủy. Không biên giới, không ranh giới. Không giới hạn, không thỏa thuận. Đánh bom liều chết, lũ trẻ dùng súng, hằng ngày có cả triệu đô la được vận chuyển bằng máy đến Matxcova giống như ma túy vậy. Sinh sản vô tính, AIDS, Ebola. Tất cả đều đang hủy hoại nhân loại. Ít nhất, tôi cũng đang bị hủy hoại.”
Karel trông còn tiều tụy hơn cả Pasha hay Timofeyev lúc được tìm thấy nên Arkady buộc phải hỏi, “Có phải bằng cách nào đó, cậu đã ăn phải Xesi không?”
“Không bao giờ đặt Xesi lên bánh mì. Tôi bị chảy máu từ bên trong. Không tiểu cầu. Không niêm mạc dạ dày. Bị nhiễm độc. Tôi là một khối đẫm máu từ đầu tới chân. Lý do tôi đồng ý gặp anh là để nói rằng gia đình tôi không liên quan gì cả. Dymtrus và Taras cũng thế.” Katanay dừng lại, ho sặc sụa. Anh em Woropay ân cần như y tá, lau máu ở miệng cho gã. Gã ngẩng đầu lên và mỉm cười. “Tốt hơn ở bệnh viện. Tôi đã có buổi biểu diễn đầu tiên ở đây trong vở kịch Peter và Chó sói. Tôi đóng vai con sói. Tôi luôn cho mình là sói cho đến khi thực sự gặp một con.”
“Đó là ai?”
“Rồi anh sẽ biết. Dù sao, chúng ta đã lạc đề. Chỉ nói về người Nga tôi phát hiện thôi.”
“Ô tô của ông ta. Cậu đã kéo nó về. Có gì bên trong không? Giấy tờ, bản đồ, chỉ dẫn?”
“Không.”
Arkady liếc nhìn đồng hồ trên tay gã. “Đồng hồ của ông ta. Cậu nói là một chiếc Rolex?”
“Vâng. Ồ, đó là lén lút. Anh lật tẩy tôi.” Katanay giơ tay ra khoe chiếc Rolex vàng như thứ đồ trang sức rẻ tiền.
Dymtrus đấm vào gáy Arkady. Gã không đánh giá cao sự phạm thượng này.
Katanay nói, “Không, không, công bằng là công bằng. Anh ấy lật tẩy tớ. Dù sao cũng không có vấn đề gì.”
“Thật chứ?” Arkady hỏi.
“Trả khẩu súng cho Dymtrus. Cậu ấy thấy xấu hổ.”
“Chắc chắn.”
Arkady đưa khẩu súng cho Dymtrus trong lúc gã lẩm bẩm, “Gretzky.”
Katanay dừng lại để thở. “Thôi được, có một bản đồ trong xe và giấy phép qua các trạm kiểm soát cùng chỉ dẫn đường đi tới đây.”
“Chính xác là chỗ nào?”
“Ngôi làng.”
“Bây giờ bản đồ và chỉ dẫn đang ở đâu?”
“Tôi không biết.”
“Cậu thấy chúng lúc phát hiện cái xác hay lúc kéo xe?”
“Lúc chúng tôi phát hiện ra cái xác.”
“Cậu nói là tìm thấy xác chết lúc đang đi vận động người dân. Cổng nghĩa trang cách ngôi nhà gần nhất khoảng năm mươi mét. Tại sao cậu lại đi đến đó.”
“Tôi không nhớ.”
“Người cư trú bất hợp pháp là ai? Ông ta dẫn cậu tới cái cổng à?”
Katanay dừng lại như một vận động viên điền kinh bị thiếu không khí cho đến khi đủ sức trả lời. “Hulak.”
“Boris Hulak? Người bị chết ở hồ làm mát hả?”
“Chuyện đó nên đơn giản như vậy. Vui chứ?”
Karel Katanay trượt xuống gối.
“Còn cậu?”
“Chó sói là những chiếc kèn đồng Pháp*,” Katanay lẩm bẩm. “Nó xứng đáng.”
Lúc Arkady chạy xe ngang qua chiếc quan tài khổng lồ, anh có cảm giác như một con quái vật đang cựa mình bên dưới lớp vỏ thép và dây kẽm gai. Nhưng con quái vật không chỉ nằm ở đó. Nó đang cưỡi trên vòng quay Ferris ở đây, cuộn xoáy qua dòng máu ở kia, hòa vào dòng sông, bén rễ trong hàng triệu thân thể. Nét đặc trưng của nó là gì? Một bản nhạc hồ cầm báo điềm gở. Một ghi chú. Duy trì liên tục. Trong bốn mươi ngàn năm.
Karel Katanay không giống như hình dung của Arkady. Anh em Woropay cũng thế. Chúng tạo thành một nhóm trung thành tuyệt đối với triết lý không thể tiêu hóa được như Alex Gerasimov. Arkady băn khoăn không biết bao nhiêu phần trí óc của Alex đã bị bóp méo. Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, một giàn thiêu được anh em Dymtrus và Taras chuẩn bị ư? Katanay đã ra đi đúng lúc, nói được nửa phần thật, nửa phần giả để bảo vệ bạn bè của gã, và Arkady có khuynh hướng cho rằng anh em chúng vô tội theo kiểu không đủ thông minh để được giao phó bất kỳ phần nào của kế hoạch thực sự. Tương tự với Hulak, mặc dù rõ ràng đó là giây phút cuối cùng của Katanay, dường như gã rất miễn cưỡng khi gọi ông ta là người cư trú bất hợp pháp. Nếu không phải Hulak thì là ai? Và Katanay bị nhiễm độc bằng cách nào?
Phụ thuộc vào cách nhìn nhận của anh, Katanay đã nói. Đúng. Vụ tự tử của Ivanov và vụ sát hại Timofeyev có nhiều mối liên kết song song hơn. Nhiễm độc Xesi là cách thức hiện đại, được lên kế hoạch kỹ lưỡng và có tính khoa học. Cắt cổ mang tính cá nhân, truyền thống và chớp lấy cơ hội. Tuy nhiên, cả hai dường như đều bắt nguồn từ một thảm họa cách đây mười bảy năm. Như Ivanov đã từng nói, ‘Chẳng bí mật nào được chôn giấu mãi mãi’. Giả dụ có hàng ngàn nạn nhân khắp Ukraine, Nga và Belarus, nhưng lại có dấu vết mang tính cá nhân trong cái chết của Timofeyev. Suy cho cùng, ông ta đã đến đây.
Càng về gần căn nhà gỗ của Eva anh càng đi qua nhiều biển cảnh báo phóng xạ trông như những nhát rìu. Anh không cần quay lại. Cô sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Cô rất phức tạp. Sự thực là, sau khi tiếp xúc với Karel Katanay, một phần Arkady khao khát có cơ hội đốt hết quần áo, cọ rửa mình trong dòng dung nham và cưỡi xe đến nơi xa nhất có thể.
Vì vậy, chiếc xe tự tìm đường về phía cô. Anh cưỡi xe qua cây cầu kêu lạch cạch, chạy dọc hàng cây hoa đuôi sóc đang gật gù tới căn nhà giữa rừng bạch dương. Anh thấy cô ngồi trên giường trong chiếc áo choàng tắm, đang hút thuốc, chai rượu và gạt tàn đặt giữa hai chân. Trông cô như thể đã nhìn chằm chằm vào lỗ thủng trên cửa từ lúc anh rời đi.
Arkady hỏi, “Chúng ta uống rượu à?.”
“Chúng ta đang uống.”
Mùi hăng hăng trong không khí cho biết đó không phải là nước.
“Em có nghĩ chúng ta uống quá nhiều không?”
“Phụ thuộc vào hoàn cảnh. Em thường xem hồ sơ bệnh nhân vào buổi tối, nhưng từ khi anh đến em đã uống nhiều hơn. Chỉ cố để tìm hiểu anh là ai. Khi có câu trả lời, có thể em sẽ muốn tỉnh táo.”
“Hỏi anh đi.” Anh cố lấy chai rượu nhưng cô giữ rất chặt.
“Không, không, anh là Người của những câu hỏi. Alex nói hầu hết mọi người thường không hỏi tại sao từ lúc lên mười, chỉ có anh là ngoại lệ.”
“Alex đã ở đây à?”
“Thấy chưa? Vấn đề là em ghét những câu hỏi và chọc ngoáy cuộc sống của người khác. Em không thấy chúng ta có tương lai.”
Anh kéo chiếc ghế đến sát giường và ngồi xuống. Ở cạnh cô chẳng khác nào đang nhìn một con chim đập đầu vào tấm kính. Bất cứ điều gì anh làm cũng có thể trở thành thảm họa.
“Này, anh có một câu hỏi.”
“Không câu hỏi nào hết.”
“Quan điểm của em về Noah là gì?” Arkady hỏi.
“Trong Kinh thánh á?”
“Kinh thánh, trận lụt, con thuyền.”
“Anh là một người lạ lùng.” Anh cảm giác cô đùa bỡn về câu hỏi, xem xét nó từ góc độ của anh. Eva nói, “Quan điểm của em về Noah là rất tầm thường, về Chúa còn tầm thường hơn. Chuyện quái gì đã khiến anh hỏi thế?”
“Anh chỉ đang băn khoăn, ‘Sao lại là Noah?’. Ông ta là thợ mộc hay thủy thủ?”
“Thợ mộc. Ông ta chỉ làm mỗi việc là trôi lềnh bềnh và cứu lũ động vật ngu ngốc. Không giống như ông ta định đi bất cứ đâu.”
“Sao em biết?”
“Chúa sẽ chỉ dẫn ông ta.”
“Em nói đúng.” Nếu Timofeyev lái xe từ Matxcova tới một ngôi làng nhỏ bé ở Ukraine mà ông ta chưa từng biết, vậy ông ta sẽ cần chỉ dẫn. “Em có cho là con thuyền có thể đã đậu ở đây không?”
“Sao không? Đây là một nơi tuyệt vời.” Eva nói. “Cứ cho là có đủ người Ba Lan, Do Thái, Hồng quân và Bạch vệ bị sát hại, chưa kể đến nạn nhân của Stalin và người Đức, nhưng vẫn tốt đẹp chán. Sữa hảo hạng, táo lê ngon nhất. Bọn em thường dành cả mùa hè ở sông, đi thuyền hay trên bờ cát. Pripyat vốn nổi tiếng về cá măng. Em đã có thể trải khăn tắm và nằm dài trên bờ cát, nhìn đám mây trắng mịn, mơ về giấc mơ nhảy múa, đi du lịch nước ngoài nơi em gặp được một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng, một thiên tài đầy đam mê, cưới anh ta và sinh sáu hoặc bảy đứa con. Bọn em sẽ sống ở London, nhưng thường xuyên nghỉ hè ở đây. Em sẽ để anh đoán: Phần nào trong đó em chưa thực hiện được?”
“Một câu hỏi đánh lừa hả?”
“Hoàn toàn không. Câu hỏi đánh lừa là, anh sẽ ở đây bao lâu? Anh sẽ thình lình biến mất à? Mọi người thường làm thế. Họ có nửa cuộc đời trong một hoặc hai tuần và bụp, họ biến mất, mang theo câu chuyện lôi cuốn về việc sống chung với những người bản xứ kỳ lạ của Khu vực cấm.”
“Chúng ta khiêu vũ nhé.” Arkady giật lấy chai rượu. “Anh khiêu vũ giỏi chứ?”
“Rất tệ, nhưng anh nhớ em đã nhảy với Alex và anh ghen tị với anh ta thế nào.”
“Nhưng anh cũng nhảy với Vanko.”
“Bị bắt buộc.”
“Điệu nhảy chậm?”
“Làm ơn.”
Cô trượt ra khỏi giường tới chỗ chiếc đài đĩa. “Một điệu valse giữa đêm. Thật lãng mạn. Anh luôn gây bất ngờ. Anh cắt cỏ như nông dân thực thụ và cũng có thể khiêu vũ.”
“Anh cũng lấy làm ngạc nhiên về bản thân.”
“Điệu valse giữa đêm ở Chernobyl, thật trớ trêu.”
“Chính xác.”
Anh vòng tay qua người cô và thực hiện một bước xoay ngả người. Cô nhẹ một cách khó tin nên cũng không có gì rắc rối cả.
Điện thoại Arkady chợt đổ chuông. “Kệ nó,” Eva nói.
“Anh chỉ xem ai gọi thôi.”
Anh đoán là Victor hoặc Zhenya nhưng bất ngờ thay lại là Zurin, viên công tố gọi từ Matxcova.
“Renko, tin tốt đây. Xin lỗi vì đã gọi cậu vào nửa đêm. Chúng tôi sẽ đưa cậu về nhà.”
Arkady phải mất một lúc mới bình tĩnh lại được.
“Ông đang nói gì?”
“Cậu sẽ trở lại Matxcova. Chúng tôi đã đặt vé cho cậu chuyến bay sáu giờ sáng, hãng Aeroflot. Vé sẽ sẵn sàng đợi cậu ở quầy bán vé. Cậu thấy thế nào?”
“Tôi vẫn chưa xong việc.”
“Đó không phải là thất bại, hoàn toàn không. Tôi chắc chắn cậu đã làm việc rất chăm chỉ. Tuy nhiên, chúng tôi đã quyết định khép lại vụ việc tại Chernobyl, ít nhất là từ phía Nga. Tôi nghĩ cậu sẽ rất vui mừng.”
Arkady xoay lưng về phía Eva. “Bên Ukraine hoàn toàn không tham gia điều tra vụ này.”
“Vậy thì đành chịu. Lẽ ra người Ukraine phải chung tay gánh vác ngay từ lúc bắt đầu. Họ không thể luôn dựa dẫm vào chúng ta để dọn sạch mớ hỗn độn của mình được.”
“Nạn nhân là công dân Nga.”
“Bị giết ở Ukraine. Nếu ông ta bị giết ở Pháp, Đức, liệu chúng ta có phải đi điều tra không? Tất nhiên là không. Tại sao ở Ukraine lại khác?”
“Bởi vì nó thế.”
“Họ muốn được độc lập, giờ họ đã được thỏa mãn. Còn vấn đề về nhân lực nữa. Tôi không thể để một điều tra viên cấp cao ở Chernobyl vô thời hạn được. Thêm nữa nó còn gây nguy hiểm tới sức khỏe của anh.”
“Tôi cần thêm thời gian,” Arkady nói.
“Như thế sẽ lại cần thêm thời gian và rồi thêm nữa. Không, chuyện này đã được quyết định. Hãy đến sân bay, bắt chuyến buổi sớm và tôi hy vọng được gặp cậu ở văn phòng vào trưa mai.”
“Còn Timofeyev thì sao?”
“Thật đáng tiếc nhưng ông ấy đã chết nhầm chỗ.”
“Còn Ivanov?”
“Sai rồi. Chúng ta không tái điều tra một vụ tự tử.”
“Tôi vẫn chưa hoàn thành.”
“Điều cuối cùng. Trước khi đến văn phòng, cậu hãy tắm rửa thật sạch sẽ và đốt hết quần áo đi,” Zurin nói rồi cúp máy.
Eva rót đầy hai ly rượu như nhân viên phục vụ quầy bar lành nghề.
“Lệnh khởi hành à? Anh định đi đâu từ chỗ này? Chắc hẳn anh phải đi đâu đó.”
“Anh không biết.”
“Đừng buồn bã. Anh không thể bị kẹt ở đây mãi. Sẽ có người bị giết ở Matxcova.”
“Anh chắc thế.”
“Anh ngủ được bao lâu với một phụ nữ bị nhiễm phóng xạ? Em muốn nói sự chống đối chưa hẳn đã là tốt.”
“Em không bị nhiễm phóng xạ.”
“Đừng ngụy biện với em, em là bác sĩ. Em chỉ đơn giản là cần hiểu tình hình. Chẩn đoán. Có vẻ như anh sẽ rời đi sớm.”
“Anh không định làm thế.”
“Ồ, thật sao? Em phải nhìn nhận anh là một kiểu người khác.”
“Kiểu nào?”
“Ảo tưởng.” Eva mỉm cười. “Em xin lỗi, thế là không công bằng. Anh đã rất hài lòng với bản thân, còn em thì hài lòng về anh. Đừng bao giờ làm nổ tung quả bóng là một nguyên tắc tốt. Nhưng anh hãy vui vẻ rời đi. Thoát khỏi sự lưu đày, trở lại cuộc sống.”
“Đó là những gì anh được bảo.” Anh cảm thấy tâm trí đang chạy đua mười hướng.
“Bí mật nhé, anh không chút vui vẻ, hay nhẹ nhõm khi nhận được quyết định nằm ngoài tầm kiểm soát à? Nói thật, em mừng cho anh.”
“Không.”
“Thế cũng tốt, bởi vì em nghĩ chúng ta không phải là cặp đôi lý tưởng. Rõ ràng anh ghét sự giả dối, mà em lại hoàn toàn giả dối. Chưa kể đến những thứ hỏng hóc.” Cô nhìn anh mặc áo, đi giày. “Chính xác thì khi nào anh phải đi.”
“Ngay bây giờ.”
“Ồ.” Nụ cười của cô chìm xuống. “Quá gấp gáp, còn hơn cả tình một đêm.” Cô uống một ngụm hết nửa ly rượu rồi đặt xuống. “Không phải samogon. Chúng ta sẽ luôn có bữa tiệc samogon của mình. Chà, người ta bảo lời tạm biệt ngắn gọn là tốt nhất.”
“Một ngày sau, anh sẽ quay trở lại. Chậm nhất là hai ngày.”
“Đừng có…” Cô giữ chặt áo choàng lúc anh bước tới. Một vệt sáng chạy dọc xuống mặt cô. “Khu vực cấm là một chốn giải trí riêng biệt, cực kỳ riêng biệt. Và anh vừa bị bỏ phiếu loại ra ngoài. Vậy nên, ra ngoài mau.”