Số lần đọc/download: 178 / 17
Cập nhật: 2020-06-05 02:27:21 +0700
Chương 14
T
ối mịt, Tả mới từ làng Thác về tới U Sung.
- Có chuyện gì hay kể ông nghe đi. - Ông cụ Tả kéo ghế cho cháu ngồi, háo hức hỏi, rồi nghểnh tai.
Xưa, ông kể cháu nghe, giờ, cháu kể ông nghe. Ồ! Cháu kể nhiều chuyện lạ: Ở làng Tày, Tây bắt người, cả làng kéo đến đòi thả. Đến nhà tổng đoàn Ngao đấu tranh, rồi lên cả đồn Tây.
Ông cụ Tả há hốc miệng, ngạc nhiên:
- Cháu bảo là tổng đoàn nó sợ, mặt sạm đen như hun khói à? Cả làng kéo đến nhà nó bắt nó phải thả chị Va à?
- Còn gì nữa. Nó sợ. Nó như con gà rù, đi lên đồn. Cả làng Tày đi như nước chảy. Lúc ấy cháu vừa đến, cháu cũng đi theo.
- Ha ha... Cháu thành con trâu đực, không biết sự cả con hổ dữ rồi!
- Sợ gì mà không đi! Đi hẳn lên đồn. Nom rõ mặt thằng Tây. Y như lần cháu và thằng Tiển thấy nó lần đầu. Đúng là cổ nó giống cổ con gà chọi, ngực nó có lông như lông con khỉ.
- Về sau thế nào?
- Tây đồn phải thả chị Va. Chị Va ra, mọi người nhảy lên reo hò. Thằng Tiển lộn đầu xuống đất, “trồng cây chuối”, hai bàn chân vỗ bồm bộp. Cái Phin chạy lại ôm chầm chị Va, khóc òa lên. Mừng quá mà! À ông này, cháu nói cái này, bí mật nhé. Ông có biết anh Lẳng không?
- Lẳng nào nhỉ?
- Anh Lẳng, anh cái Phin ấy.
- Ờ ờ...
- Anh ấy vượt ngục từ Lào Cai về, phá tan cả hai cái cối ngàn của lí Tăm và của tổng đoàn Ngao rồi biến mất.
- Biến đi đâu?
- Thế mới tài chứ. Ông à, ở cối ngàn có ma đấy nhé.
- Ma à?
- Ma! Mấy người lính dõng nói: Ma nó đi lọc cọc, kêu như tiếng mèo, mặc áo vải chàm, răng trắng ởn. Vì vậy chẳng anh lính nào nghe lệnh tổng đoàn Ngao ra đấy gác nữa. Sợ quá mà!
Ôi chao! Những chuyện ở làng Tày càng nghe càng thấy mê. Ông cụ Tả hai tay đan nhau, ốm gối, ngả người ra sau. Lòng ông cụ như có lửa đốt. Ông cụ càng ngóng chờ cán bộ lên.
o O o
Ai đã từng lên U Sung hẳn không thể quên những khu rừng vầu mọc rất đều suốt hai bên dọc đường đi. Xanh một sắc non tươi, vầu ở đây nồi bật như một tấm thảm màu giữa nguyên thủy rừng già ầm u. Không túm tụm chen chúc từng búi như tre, như mai, như nứa, vầu ở đây mọc cách xa nhau từng cây một, nên đi trong rừng vầu mà vẫn thấy thông thoáng, sạch sẽ. Sức sống, tinh thần tự lập của cây vầu cũng là một cái lạ nữa. Vừa nảy măng, đội đất nhô lên, chú măng vầu ta với cái ngọn nhọn hoắt đã sống cách xa thân mẹ hàng sải tay rồi. Trong rừng, uy nghi trang trọng như những cây cột cờ là những thân vầu già da ngả màu vàng bóng, lóng[83] to bằng bắp chân. Tuy vậy, hấp dẫn ta hơn vẫn là lớp vầu non tơ, lóng xanh mướt, khoanh mấu tròn tròn nổi u, gợi nhớ tới cái khuỷu tay, khớp chân của chú thiếu niên đang độ lớn.
Hết gần nửa ngày theo một vệt đường mòn, Tố mới vượt qua cái vành đai rừng vầu lên tới U Sung. Buổi trưa một ngày chớm đông, trời vùng cao có nắng nhưng vẫn thoáng hơi sương.
Ông cụ Tả đóng khăn áo mới, đứng ở cửa đón đợi Tố, vẻ mặt trịnh trọng và cảm động. Trong bộ quần áo chàm đậm, gương mặt đã đầy đặn, cái sống mũi dọc dừa cao cao nổi lên như một điểm sáng tinh thần, Tố trắng trẻo hơn mọi khi.
- Cháu thật có lỗi với cụ, mãi giờ mới lên đây được.
Thấy anh cán bộ vừa nói vừa cúi gập mình thi lễ, ông cụ Tả vội khom lưng đáp lễ và sụt sịt như người bị cảm:
- Đừng nói thế, cán bộ. Lời hay còn lại, lời dở bay đi. Sáng nay thấy chim sẻ hót ríu ran, thấy lửa reo trong bếp, điềm báo có khách quý đến chơi, hóa ra là đúng thật!
Hai người bước vào nhà. Cái khay nước cáu bụi đã được rửa sạch, đặt trên ghế mây. Hương chè rừng tỏa mùi thơm mộc mạc.
- Đáng lẽ cháu lên đây sớm hơn, nhưng lạc trong rừng vầu mất một đoạn. Nhưng lạc thế mà hay, càng đi càng thấy rừng vầu ta quý quá.
Ông cụ Tả gật đầu:
- Quý lắm, quý lắm. Tôi đã đi nhiều, đi mỏi cái chân mà chưa hết rừng vầu đấy, cán bộ à. Cán bộ có biết không? Cây vầu là con gái út Bàn Vương chúng tôi đấy. Khi cô gái út chết, Bàn Vương bảo: Con chết, con sẽ là cây vầu thanh cao như khi còn sống. Vì thế, người Dao tôi ở gần nhau nhưng không chen chúc.
Tố gật đầu, thích thú. Ông cụ Tả tiếp:
- Cán bộ biết rồi đấy. Năm Nhâm Dần, ông tổ họ Bàn chúng tôi nổi lên đánh Tây, quân của người đông lắm. Đi qua mười khu rừng vầu, ngả cả mười khu rừng vầu chẻ đũa mà không đủ mỗi người một đôi. Đi qua mười bãi cỏ gianh, nhổ cả mười bãi cỏ gianh mà không đủ mỗi người một nắm cỏ để lót chỗ ngồi.
Bữa cơm như đã dọn trên sàn. Ông cụ Tả vừa mời Tố ngồi vào mâm thì chú bé Tả ở đâu chạy về, leo lên sạp, ghé tai ông khe khẽ: “Ông à, báo hết cả làng rồi!”
Gật đầu, ông cụ Tả đưa đũa cho Tố. Cơm gạo nương hạt dài trắng muốt, thơm nức. Mùi măng chua gắt, mùi muối trộn ớt hăng hăng tỏa cùng mùi thịt sóc nướng xào hoa chuối ngọt ngào.
- Cán bộ ăn đi. Cứ ở đây với tôi, không lo gì. Thằng binh thầu Cai Vàng bị đuổi ra khỏi làng này rồi.
- Nó bị đuổi rồi ạ? - Tố đặt bát cơm xuống mâm.
Cầm đũa chỉ vào ngực mình, giọng ông cụ đầy kiêu hãnh:
- A! Tôi là trưởng họ mà tôi không đuổi được nó sao! Tôi gọi nó đến: Cai Vàng, mày là đứa làm phản người Dao, mày không phải họ Bàn. Mày đi đi! Nó phải đi. Không đi, ở lại thì như kẻ có ma chài, không ai nói chuyện, không ai nhìn mặt. Cả làng khinh ghét, xa lánh. Vợ con cũng không thèm ở cùng. Hà! Nó dám đi báo Tây đồn à? Nó dám thu lợn gà cho đồn dõng mà không hỏi tôi à?
Image
Tố nhìn ông cụ, khe khẽ:
- Thế là tốt lắm rồi. Nhưng ta cũng vẫn phải đề phòng, cụ ạ.
- Phải đề phòng chứ. Tôi đã cho gài súng khắp các ngả đường rồi. Súng gài ấy mà, cán bộ biết chưa?
Ông cụ đứng dậy, ra bếp, kéo từ gác bếp xuống một khẩu súng kíp, đưa cho Tố xem. A! Cây súng gài! Cây súng buộc ở chạc cây, nấp kín trong bụi, cò súng nối với sợi dây căng trên mặt đường, chĩa ngầm cái ngọn ra đón chờ. Con thú rừng, thằng kẻ cướp, lũ thổ phỉ, bọn giặc thù định hại người Dao ta hãy giờ hồn. Cây súng kíp gài đơn sơ sẵn sàng bất thình lình hạ gục mày đấy! Quay sang Tố, ông cụ Tả cười hờ hờ:
- Cán bộ xem cây súng gài thế có được không?
- Người Dao ta giỏi giang lắm.
- Còn nhờ cán bộ dạy bảo đấy. À, cán bộ là con thứ mấy trong gia đình?
- Dạ. Thứ ba ạ.
Nhấp nhổm, ông cụ Tả reo to:
- Thế thì từ nay người Dao tôi gọi cán bộ là Lảo Pham nhé. Lảo Pham là anh Ba mà. Hà hà...
Nói rồi ông cụ ngẩn người. Giờ ông mới có thể ngắm nghía một cách lặng lẽ dung mạo anh cán bộ này. Hà. Lảo Pham có đôi mắt sâu và sáng. Còn cái gò mũi cao và cả gương mặt tuy có gầy gò khắc khổ nhưng vẫn toát lên tình yêu mến và sự tin cậy chân thật.
Ngoài cửa đã lấp lóa ánh đuốc. Lát sau, căn nhà sáng lòa. Người trong làng U Sung đã đến họp. Lần này cả làng đến họp, đồng tâm nhất trí xin vào Việt Minh, công khai đối mặt với thực dân Pháp. Công khai đối mặt! Tính người Dao ở U Sung là vậy. Ngay thẳng như lóng vầu, dứt khoát, một lòng như dao chỉ có một lưỡi. Nói là làm!