Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 13 - Che Chở
Ý nghĩ đầu tiên đến với cô là quay đầu và bỏ chạy, hay ngất xỉu. Một con người không có nhân tinh cũng giống như sống mà không có mặt, hay một bộ ngực phanh ra để lộ trái tim. Một điều gì đó huyền bí và không tự nhiên thuộc về thế giới của những con ma đêm, không phải thế giới của nhận thức, thế giới đang sống.
Vì thế Lyra ôm chặt lấy Pantalaimon, trái tim cô đập loạn nhịp và cổ họng khô đắng, lạnh lẽo như màn đêm. Cơ thể cô vã mồ hôi lạnh bởi một cảm giác còn lạnh lẽo hơn.
“Ratter,” cậu bé nói, “các người đã bắt mất Ratter phải không?”
Lyra không thắc mắc gì về điều cậu nói.
“Không,” cô nói với giọng run rẩy và sợ hãi. “Tên cậu là gì?”
“Tony Makarios,” cậu nói. “Ratter đâu?”
“Mình không biết…” Cô bắt đầu cố nuốt thật mạnh để ngăn cơn buồn nôn. “Bọn Gà trống tây…” nhưng cô không thể nói hết câu. Cô phải chạy ra khỏi lều, ngồi một mình trên tuyết, tất nhiên cô không cô đơn, vì Pantalaimon luôn ở đó. Ôi, bị tách khỏi nó như cậu bé kia bị tách khỏi Ratter! Điều tồi tệ nhất trên đời này! Cô thấy mình đang khóc thổn thức, Pantalaimon cũng nức nở, cả hai đều cảm thấy buồn đau, thương cảm với cậu bé chỉ còn một nửa.
Rồi cô lại đứng lên.
“Ra đây nào,” cô gọi với giọng run run. “Tony, ra đây đi. Bọn mình sẽ đưa cậu đến nơi an toàn.”
Có tiếng động trong căn nhà cá, rồi cậu bé xuất hiện trước ngưỡng cửa, vẫn ôm chặt con cá khô của mình. Cậu đã mặc đủ quần áo ấm, một chiếc áo choàng có mũ chần bông dày và ủng lót lông thú, nhưng trông chúng cũ kỹ và không vừa vặn. Trong vùng sáng rộng hơn đến từ những quầng sáng đã nhạt màu của hiện tượng cực quang và mặt đất phủ đầy tuyết, trông cậu còn đáng thương, mất mát hơn lúc trước nhiều, khi nép mình tránh ánh đèn bên chiếc giá phơ cá.
Người đàn ông mang chiếc đèn tới đã lùi lại cách đó mấy mét, giờ to tiếng gọi họ.
Iorek Byrnison dịch lại: “Ông ta nói cô phải trả tiền cho con cá kia.”
Lyra chỉ muốn bảo con gấu giết phức ông ta, nhưng cô bình tĩnh lại và nói, “Chúng ta sắp đưa đứa bé này đi khỏi bọn họ. Họ có thể trả công cho chúng ta bằng một con cá.”
Con gấu thuật lại. Người đàn ông càu nhàu, nhưng không tranh cãi. Lyra đặt cây đèn của ông ta xuống đất và cầm lấy tay cậu bé chỉ còn một nửa đến chỗ con gấu. Nó trở nên lóng ngóng, không sợ hãi hay ngạc nhiên trước con gấu trắng to lớn đang đứng rất gần. Khi Lyra giúp cậu ngồi lên lưng Iorek, cậu chỉ nói, “Tôi không biết Ratter của tôi đâu rồi.”
“Không, bọn mình cũng không biết, Tony ạ,” cô nói. “Nhưng bọn mình sẽ… Bọn mình sẽ trừng phạt lũ Gà trống tây. Bọn mình sẽ làm vậy, mình hứa đấy. Iorek, tôi ngồi lên cũng không sao chứ?”
“Bộ áo giáp sắt của tôi còn nặng hơn mấy đứa trẻ con nhiều,” nó nói.
Thế là cô trèo lên ngồi sau Tony và giúp cậu bám chặt lấy bộ lông dài. Pantalaimon ngồi trong chiếc mũ trùm đầu của cô, ấm áp, gần gũi và tràn đầy thương cảm. Lyra biết rằng mong muốn của Pantalaimon là đến bên cạnh vuốt ve cậu bé bất hạnh, liếm láp, vuốt ve và sưởi ấm cho cậu như con nhân tinh của chính cậu sẽ làm. Nhưng tất nhiên điều cấm kỵ nặng nề đã ngăn cản nó lại.
Họ đi qua làng rồi leo lên đồi, những khuôn mặt người dân trong làng giãn ra vì nhẹ nhõm hi nhìn thấy thứ sinh vật què quặt gớm ghiếc đó đã được một cô bé và một con gấu trắng vì đại đem đi.
Trong trái tim Lyra, nỗi ác cảm đang vần nhau với lòng trắc ẩn, và lòng trắc ẩn đã thắng. Cô đặt tay lên hình dáng bé nhỏ gầy gò và giữ chặt cậu. Cuộc hành trình quay về lạnh lẽo, khó khăn, tăm tối hơn, nhưng dường như chính vì những điều đó mà nó diễn ra nhanh chóng hơn. Iorek Byrnison không hề mệt mỏi, Lyra đã biết cách cưỡi trên lưng nó, vì thế cô không bao giờ có nguy cơ ngã xuống. Còn cái cơ thể giá lạnh trong tay cô nhẹ tới mức một mặt nó rất dễ điều chỉnh, nhưng lại cũng rất trì trệ; cậu ngồi cứng đơ không động đậy trong khi con gấu di chuyện, vì vậy mặt khác nó cũng có cả khó khăn.
Cậu bé nói mải miết một điều gì đó.
“Cậu muốn nói gì thế?” Lyra hỏi.
“Mình nói là nó sẽ biết mình ở đâu chứ?”
“Ừ, nó sẽ biết thôi. Nó sẽ tìm cậu và bọn mình sẽ tìm nó. Giờ thì giữ thật chặt vào, Tony, không còn xa nữa đâu…”
Con gấu vẫn tiếp tục lướt đi. Lyra không biết mình mệt mỏi đến mức nào cho đến khi họ bắt kịp đoàn xe kéo. Đoàn xe phải dừng lại để cho đàn chó nghỉ sức, và đột nhiên tất cả bọn họ đều ở đó, Farder Coram, Ngài Faa, Lee Scoresby, tất cả ùa tới giúp đỡ và rồi im bặt khi thấy nhân dạng đi cùng với Lyra kia. Cô bị lạnh cóng đến mức thậm chí không nới lỏng vòng tay ôm quanh người cậu bé. Chính John Faa phải nhẹ nhàng tách hai đứa ra và nhấc cô xuống.
“Chúa nhân từ, cái gì đây?” ông nói. “Lyra, cháu yêu, cháu tìm được thứ gì thế này?”
“Cậu ấy tên Tony,” cô lập bập qua làn môi lạnh giá. “Người ta đã cướp mất nhân tinh của cậu ấy. Đó là điều bọn Gà trống tây làm.”
Những người đàn ông chững lại, sợ hãi, nhưng con gấu đã lên tiếng trách mắng trước sự ngạc nhiên rã rời của Lyra.
“Thật đáng hổ thẹn cho các người! Hãy nghĩ xem đứa bé này đã làm gì! Các người có thể không can đảm hơn được vậy, nhưng các người nên thấy hổ thẹn khi thể hiện là mình kém can đảm hơn.”
“Anh nói đúng, Iorek Byrnison,” John Faa nói và quay lại ra lệnh. “Hãy khơi to lửa lên và hâm nóng cháo cho đứa nhỏ. Cho cả hai đứa. Farder Coram, chỗ ngủ của anh đủ rộng chứ?”
“Có, John ạ. Hãy đưa nó đến đó và chúng ta sẽ làm cô bé ấm lên…”
“Còn cậu bé,” có ai đó nói, “nó có thể ăn và sưởi ấm, ngay cả nếu…”
Lyra đang cố nói với John Faa về chuyện các phù thủy, nhưng tất cả mọi người đều quá bận bịu còn cô đã quá mệt mỏi. Sau vài phút mơ màng với những ánh đèn, khói thuốc, những dáng người hối hả qua lại, cô cảm thấy những chiếc răng chồn ecmin của Pantalaimon đang cắn nhẹ vào tai mình. Cô tỉnh lại và thấy khuôn mặt con gấu đang ngay sát trước mặt.
“Những phù thủy,” Pantalaimon thì thầm. “Mình đã gọi Iorek.”
“À, đúng rồi,” cô thều thào. “Iorek, cảm ơn anh đã đưa tôi đến đó và trở về. Tôi quên mất việc kể cho Ngài Faa về các phù thủy, vì thế tốt hơn hết là anh hãy làm thay tôi.”
Cô nghe tiếng con gấu đồng ý, và rồi cô chìm sâu vào giấc ngủ.
Khi Lyra tỉnh dậy, trời đã sáng. Bầu trời phía đông nam sáng mờ và không khí ướt đẫm sương đêm. Trong làn sương đó những người Digan di lại như những bóng ma nặng nề, chất đồ lên và buộc chó vào xe.
Cô nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng từ trong chỗ nằm trên xe trượt của Farder Coram. Cô đang nằm dưới một đống chăn may bằng lông thú. Pantalaimon đã tỉnh táo hoàn toàn trước cô, cố gắng biến thành một con cáo Bắc cực trước khi quay về với hình dáng chồn ecmin ưa thích của mình.
Iorek Byrnison ngủ trên nền tuyết gần đó, đầu gối lên hai bàn tay to rộng. Farder Coram đã dậy và đang bận rộn. Ngay khi nhìn thấy Pantalaimon ló ra, ông đến gần để gọi Lyra dậy hẳn.
Cô nhìn thấy ông đang đến và ngồi dậy để nói chuyện.
“Farder Coram, cháu đã biết điều cháu không hiểu là gì rồi. Chiếc chân-kế cứ chỉ vào chim và không, lý nào lại thế chứ, vì đó có nghĩa là không có nhân tinh và cháu không hiểu làm sao mà có thể… Chuyện gì vậy?”
“Lyra, ta e là phải nói với cháu chuyện này sau hết thảy những gì cháu đã làm, nhưng cậu bé đó đã chết cách đây một tiếng. Cậu ấu không thể ngồi yên, không thể ở nguyên một chỗ; cậu cứ liên tục hỏi về con nhân tinh của mình, nó đang ở đâu, có phải nó sẽ tới ngay không, và lung tung cả; nó cứ ôm chặt lấy miếng cá để lâu ngày như thế… ôi, ta không biết nói gì hơn nữa, cháu ạ; nhưng cuối cùng nó cũng nhắm mắt lại và nằm im, đó là lần đầu tiên trông nó thanh thản, giống như những người chết khác, con nhân tinh tan biến vào không gian. Mọi người định đào một chiếc huyệt cho nó, nhưng mặt đất cứng như thép. Vì thế John Faa ra lệnh lập một giàn thiêu, và họ sẽ hỏa táng nó để cơ thể nó không bị hủy hoại bởi những động vật ăn xác chết.
“Cô bé, cháu đã làm một việc can đảm, một việc tốt đẹp, ta tự hào về cháu. Giờ thì chúng ta đã biết điều ác độc tồi tệ mà đám người đó có thể làm, và nhiệm vụ của chúng ta rõ ràng hơn bao giờ hết. Điều cháu cần làm là nghỉ ngơi và ăn chút gì đó, vì cháu đi ngủ quá sớm nên chưa ăn gì đêm qua, cháu phải ăn trong nhiệt độ này để cơ thể không bị yếu đi…”
Ông đang luôn tay làm việc, đặt những tấm chăn vào đúng chỗ, buộc chặt lại sợi dây thừng quanh thân xe trượt, cuốn những sợi dây quanh tay cho khỏi rối.
“Farder Coram, cậu ấy đang ở đâu? Mọi người đã thiêu cậu ấy chưa vậy?”
“Chưa đâu, Lyra, cậu ấy đang nằm ở đằng sau kia.”
“Cháu muốn đến nhìn cậu ấy.”
Ông không thể từ chối cô điều đó, vì trông cô còn đáng sợ hơn cả xác chết, việc nhìn thấy cậu bé có thể khiến cô bình tâm lại. Cùng với Pantalaimon trong hình dáng con thỏ rừng trắng chạy thoăn thoắt bên cạnh, Lyra lảo đảo đi dọc các dãy xe trượt nơi những người đàn ông chất củi thành đống lớn.
Cơ thể cậu bé nằm dưới một tấm chăn kẻ ca rô để cạnh đường đi. Cô quỳ xuống và lật tấm chăn lên bằng hai bàn tay đeo găng. Một người đàn ông định ngăn cô lại, nhưng những người khác lắc đầu.
Pantalaimon trườn đến sát bên Lyra khi Lyra nhìn xuống khuôn mặt đáng thương. Cô tháo găng tay ra và chạm vào đôi mắt cậu. Chúng đã lạnh như băng, Farder Coram đã nói đúng; Tony Makarios không có gì khác với bất cứ người bình thường nào phải chia cách nhân tinh vì cái chết. Ôi, nếu người ta cướp mất Pantalaimon khỏi cô? Cô đỡ cậu bé lên và ôm cậu như thể muốn ghì sát cậu vào trái tim mình. Tất cả những gì Tony bé nhỏ đáng thương có là một miếng cá khô…
Nhưng miếng cá đâu rồi?
Cô kéo tấm chăn ra. Nó không còn ở đó nữa.
Cô lập tức đứng ngay dậy, đôi mắt giận giữ tóe lửa nhìn vào đám người gần đó.
“Con cá của cậu ấy đâu?”
Họ dừng lại, bối rối, không hiểu cô muốn nói gì; tuy thế vài nhân tinh trong số họ hiểu, và quay sang nhìn nhau. Một trong số những người đàn ông bắt đầu nhăn nhở cười trừ.
“Anh còn dám cười sao! Tôi sẽ xé xác anh nếu anh dám cười cậu ấy! Đó là tất cả những gì cậu ấy có, chỉ là một mẩu cá khô, nhưng đó là tất cả những gì cậu ấy có thay cho một con nhân tinh để yêu thương và đối xử tốt! Ai đã mang nó khỏi cậu ấy? Nó đâu rồi?”
Pantalaimon đã biến thành một con báo tuyết, rất giống nhân tinh của Ngài Asriel, nhưng cô không nhận thấy. Tất cả những gì cô quan tâm lúc này là con cá đã bị người nào lấy đi.
“Bình tĩnh nào, Lyra,” một người đàn ông nói. “Bình tĩnh lại đi, cô bé.”
“Ai đã lấy nó đi?” Cô lại nổi nóng, và người đàn ông Digan lùi một bước trước cơn thịnh nộ của cô.
“Tôi đã không biết,” một người đàn ông khác nói với vẻ hối lỗi. “Tôi nghĩ đó chỉ là thứ cậu bé dùng để ăn. Tôi lấy nó ra khỏi tay cậu ấy vì nghĩ nó không còn tác dụng gì nữa. Mọi chuyện là vậy, Lyra.”
Vậy thì giờ nó đâu rồi?”
Người đàn ông nói một cách khó khăn. “Vì không nghĩ là cậu ấy cần nó nữa nên tôi đã vứt cho mấy con chó. Tôi thực sự xin lỗi cô.”
“Người anh cần xin lỗi không phải tôi, mà là cậu ấy.” Cô nói, và quỳ ngay xuống, đặt tay lên hai gò má giá lạnh của cậu.
Rồi một ý tưởng chợt nảy đến trong đầu cô. Cô lục lọi trong chiếc áo khoác. Không khí lạnh lùa vào khi cô cởi chiếc áo, nhưng chỉ trong vài giây, cô đã tìm thấy thứ đang cần, lấy ra một đồng tiền vàng trong chiếc ví trước khi mặc lại áo.
“Tôi muốn mượn con dao của anh,” cô bảo người đàn ông đã lấy con cá đi. Khi anh ta đưa cho cô, cô nói với Pantalaimon, “Tên nó là gì?”
Tất nhiên nó hiểu ý cô muốn hỏi, và trả lời, “Ratter.”
Cô giữ đồng xu thật chặt bằng một bàn tay đeo găng, tay kia cầm con dao như một chiếc bút chì, khắc tên con nhân tinh mất tích lên đồng tiền vàng.
“Mình hi vọng là nó sẽ có tác dụng, nếu mình coi cậu như một Học giả Jordan,” cô thì thầm với cậu bé đã chết, và cố mở miệng cậu để nhét đồng xu vào. Việc này thật khó khăn, nhưng cô xoay xở được, rồi lại loay hoay để khép hàm cậu lại.
Cô trả lại con dao cho người đàn ông cùng lời cảm ơn và quay lại chỗ Farder Coram trong ánh nắng sớm lờ mờ.
Ông đưa cho cô một bát súp mới lấy từ trên bếp xuống, cô húp từng ngụm một cách ngon lành.
“Chúng ta sẽ làm gì với những phù thùy đó, Farder Coram?” cô nói. “Cháu tự hỏi không biết bà phù thủy của ông có trong số đó không nữa?”
“Bà phù thủy của ta ư? Ta sẽ không giả định xa đến thế đâu, Lyra. Có thể họ đang đi đâu đó. Có rất nhiều mối quan tâm trong cuộc sống của một phù thủy; những điều chúng ta không nhìn thấy được; những căn bệnh bí hiểm họ phù phép mà chúng ta cho là chẳng có gì đáng ngại; những nguyên nhân chiến tranh chúng ta không hiểu nổi; những niềm vui và nỗi buồn liên quan tới những loài cây nhỏ xíu có hoa mọc trên lãnh nguyên… Nhưng ta ước gì có thể nhìn thấy họ đang bay, Lyra ạ. Ta ước ta có thể được nhìn một cảnh tượng như vậy. Giờ thì hãy ăn hết chỗ súp đó đi. Cháu có muốn chút nữa không? Còn cả bánh mì nữa đấy. Ăn thật nhiều vào, cô bé, vì chúng ta sẽ nhanh chóng lên đường.
Thức ăn đã làm Lyra sống lại, giờ đây sự lạnh gái trong tâm hồn cô bắt đầu tan chảy. Cùng với những người khác, cô đến nhìn cậu bé chỉ còn một nửa nằm trên giàn hỏa thiêu, cúi đầu và nhắm mắt nghe lời cầu nguyện của John Faa, rồi những người đàn ông rải dần lên và châm lửa, ngọn lửa bừng lên trong phút chốc.
Khi đã chắc chắn nó đã được thiêu hết, mọi người bắt đầu lên đường. Đây là một cuộc hành trình gian khổ. Tuyết bắt đầu rơi sớm, rồi rất nhanh chóng cả thế giới thu hẹp lại chỉ còn những cái bóng màu xám của đầu lũ chó kéo xe, tiếng lắc lư và cọt kẹt của xe kéo, cái lạnh như cắt da cát thịt, cả một đại dương mênh mông những bông tuyết lớn chỉ tối hơn bầu trời và chỉ sáng hơn mặt đất mà thôi.
Trong khung cảnh đó, đàn chó vẫn tiếp tục chạy, những cái mõm vểnh cao, thở ra đầy hơi nước. Chúng tiếp tục chạy xa về phía bắc, trong khi ánh sáng buổi trưa vàng vọt đến và đi trong cảnh tranh tối tranh sáng bao trùm lấy cả thế giới. Họ dừng lại để ăn uống và cầu nguyện. Trong khi John Faa nói chuyện với Lee Scoresby về cách họ có thể sử dụng khinh khí cầu, Lyra nghĩ về loài sinh vật bay do thám. Cô hỏi Farder Coram chuyện gì đã xảy ra với chiếc hộp đựng lá thuốc dùng để nhốt nó.
“Ta đã cất kỹ đi rồi,” ông nói. “Nó ở dưới đáy túi đựng quần áo, nhưng chẳng có gì để xem đâu. Ta đã hàn dính nó vào rồi, như ta đã nói. Ta không biết chúng ta sẽ làm gì với nó nữa, nói thật với cháu như vậy. Có thể chúng ta sẽ giết chết nó. Nhưng cháu không cần phải lo lắng, Lyra ạ. Khi ta còn giữ nó, cháu sẽ được an toàn.”
Ngay khi có cơ hội, cô thò tay vào túi đựng quần áo may bằng vải dầu lạnh cóng và lấy chiếc hộp thiếc bé xíu ra. Cô có thể cảm nhận tiếng đập cánh liên tục khi chạm vào chiếc hộp.
Trong khi Farder Coram đang nói chuyện với các lãnh tụ khác, cô mang chiếc hộp đến chỗ Iorek Byrnison và giải thích với nó ý tưởng của mình. Cô chợt nảy ra ý định đó khi nhớ lại cảnh nó đã chọc thủng tấm kim loại như thế nào.
Nó lắng nghe chăm chú, rồi lấy một chiếc nắp hộp bánh bích quy, gập nó thành một hình trụ dẹt. Cô thán phục trước sự khéo léo của đôi tay nó: không như hầu hết những con gấu bình thường khác, móng vuốt ngón chân cái của nó có hướng ngược lại giúp chúng có thể giữ chặt các đồ vật trong khi làm việc. Nó có khả năng bẩm sinh về sức mạnh và sự khéo léo với kim loại. Chỉ cần nhấc mảnh kim loại lên một hai lần, uốn sang bên này bên kia rồi dùng móng vuốt vạch một đường vòng quanh, và gập lại. Giờ thì nó cũng đang gập các mép gờ lại cho đến khi chúng dựng đứng rồi làm một cái nắp để đậy vừa lại. Theo yêu cầu của Lyra nó làm ra hai chiếc: một chiếc kích thước với chiếc hộp đựng thuốc lá ban đầu, chiếc còn lại đủ lớn để chứa chính chiếc hộp đó cùng một ít tóc, rong rêu và địa y lèn thật chặt để bưng kín không để tiếng ồn lọt ra. Khi chiếc hộp đóng lại, nó to đúng bằng chiếc chân-kế.
Khi mọi việc đã hoàn thành, cô ngồi bên Iorek Byrnison trong khi nó gặm một chiếc đùi tuần lộc đã đông cứng như gỗ.
“Iorek,” cô nói, “có khó khăn lắm không khi sống mà không có một con nhân tinh? Anh không cảm thấy cô đơn à?”
“Cô đơn?” nó nói. “Tôi không biết. Họ nói với tôi như thế này là lạnh. Tôi không biết lạnh là thế nào, vì tôi không bị lạnh. Vì thế tôi cũng không hiểu cô đơn nghĩa thế nào. Những con gấu sinh ra là để sống một mình.”
“Thế còn những con gấu Svalbard thì sao?” cô hỏi. “Có hàng nghìn con, đúng không? Tôi nghe nói thế.”
Nó không nói không rằng mà bẻ khớp tay phát ra âm thanh như một súc gỗ bị gãy.
“Thứ lỗi cho tôi, Iorek,” cô nói. “Tôi hi vọng đã không xúc phạm anh. Chỉ là tôi thấy tò mò thôi. Anh biết không, tôi tò mò quá mức về những con gấu Svalbard như vậy là vì cha tôi đấy.”
“Cha cô là ai?”
“Ngài Asriel. Người ta đã bắt giam ông ấy tại Svalbard. Tôi nghĩ bọn Gà trống tây đã phản bội và trả tiến cho lũ gấu để giữ ông trong tù.”
“Tôi không biết. Tôi không phải là một con gấu Svalbard.”
“Tôi đã nghĩ anh là…”
“Phải. Tôi đã từng là một con gấu Svalbard. Nhưng bây giờ không còn nữa. Tôi đã bị đày đi vì tội giết một con gấu khác. Vì thế tôi bị tước mất tước hiệu, tài sản cùng bộ giáp sắt và bị đày đến sống bên kia rìa thế giới của loài người và chiến đấu nếu tìm được người thuê mình làm việc đó, hay những việc làm chân tay và nhấn chìm ký ức của mình trong men rượu.”
“Sao anh lại giết con gấu đó?”
“Vì giận dữ. Có rất nhiều cách để những con gấu trút giận lên nhau, nhưng tôi đã mất kiểm soát. Vì thế tôi đã giết nó và phải trả một cái giá quá đắt.”
“Vậy là anh đã từng có tước vị cao và giàu có,” Lyra nói với giọng thán phục. “Giống hết cha tôi, Iorek ạ! Mọi chuyện cũng xảy ra với ông ấy như thế sau khi tôi ra dời. Ông ấy cũng giết ai đó và người ta lấy đi mọi tài sản của ông ấy. Chuyện xảy ra rất lâu trước khi ông ấy trở thành tù nhân ở Svalbard. Tôi không biết chút gì về Svalbard, ngoại trừ nó ở rất xa trên phương Bắc… Có phải nó được bao phủ bởi băng tuyết không? Anh có thể đến được đó băng qua biển băng không?”
“Không phải từ bở bên bày. Đôi khi phía nam nó đóng băng, đôi khi lại không. Cô cần có một cái thuyền.”
“Hay một chiếc khinh khí cầu, có lẽ thế.”
“Hay một chiếc khinh khí cầu, đúng vậy, nhưng phải cần gió thổi đúng chiều nữa.
Nó gặm nhấm chiếc đùi tuần lộc, và một ý niệm len vào tâm trí Lyra nhắc cô nhớ về những phù thủy trên bầu trời đêm; nhưng cô không nói gì về chuyện đó. Thay vào đó cô hỏi Iorek Byrnison về Svalbard, và háo hức lắng nghe nó kể về những dòng sông băng, những mỏm đá và tảng băng nổi, nơi những con moóc nanh trắng nằm thành từng đàn hàng trăm con hoặc hơn nữa, về những bở biển đầy hải cẩu, hay kỳ lân biển đập những chiếc nanh vào nhau chan chát trên mặt biển băng; về những bờ biển ảm đạm lởm chởm đá, những mỏm cao hàng nghìn mét hoặc hơn, nơi những con má núi ngồi trên mỏm đá và nhảy bổ xuống, về những mỏ than và mỏ dầu nơi những con gấu làm thợ rèn đập mỏng những mảnh kim loại và tán chúng thành bộ giáp sắt…
“Nếu người ta đã tước mất bộ giáp của anh, Iorek, vậy anh lấy đâu ra bộ này?”
“Tôi tự làm cho mình tại Nova Zembla bằng kim loại đến từ bầu trời. Cho đến khi tôi làm xong nó, tôi vẫn chưa hoàn thiện.”
“Vậy là những con gấu có thể tự tạo nên linh hồn của mình…” cô nói. Có rất nhiều điều cần biết trên đời. “Ai là Vua của Svalbard thế?” Cô tiếp tục. “Những con gấu có Vua không?”
“Ông ta tên là Iofur Raknison.”
Cái tên này ngân lên một hồi chuông trong tâm trí Lyra. Cô từng nghe thấy nó trước đây, những là ở đâu? Và không phải qua miệng một con gấu, cũng không phải qua lời người Digan. Người nhắc đến nó là một Học giả, những kẻ thông thái rởm kiêu ngạo, chắc chắn là được nói tại Học viện Jordan. Cô có gắng nhớ lại. Ồ, cô rất quen với nó.
Giờ thì cô đã nhớ ra rồi: Phòng nghỉ. Các Học giả đang lắng nghe Ngài Asriel. Chính là Giáo sư Palmerian đã nói gì đó về Iofur Raknison. Ông ta dùng từ panserborne mà Lyra không hiểu, và cô không biết Iofur Raknison là một con gấu. Nhưng lúc đó ông ta nói nó thế nào nhỉ? Vua của Svalbard là một kẻ tự phụ và ưa nịnh. Còn có điều gì nữa, giá mà cô nhớ được, nhưng đã có rất nhiều chuyện xảy ra kể từ lúc đó…
“Nếu cha cô là tù nhân của những con gấu Svalbard,” Iorek Byrnison nói, “ông ấy sẽ không trốn thoát được đâu. Ở đó không có khu rừng nào để lấy gỗ đóng thuyền. Mặt khác, nếu ông ta là người cao quý, ông ta sẽ được đối xử xứng đáng. Họ sẽ cho ông ấy một ngôi nhà để ở, người hầu để sai bảo, thực phẩm và chất đốt.”
“Liệu bọn gấu có bao giờ bị đánh bại không Iorek?”
“Không.”
“Hoặc bị lừa, có thể lắm chứ?”
Nó ngừng nhai và nhìn thẳng vào cô. Rồi nó nói, “Cô sẽ không bao giờ lừa được những con gấu mặc giáp. Cô đã nhìn thấy bộ áo giáp sắt, giờ hay xem những vũ khí của tôi.”
Nó buôn rơi miếng thịt và giơ tay ra, lòng bàn tay ngửa lên cho cô nhìn. Mỗi lòng bàn tay đều được phủ một lớp sừng dày vài centimet, và mỗi móng vuốt ít nhất là dài bằng cả bàn tay Lyra, sắc như dao. Nó để cô vuốt vào chúng với vẻ ngạc nhiên.
“Chỉ cần một cú bợp là nghiền nát đầu một con hải cẩu,” nó nói, “hay làm gẫy lưng một người, hay xé đôi một đứa trẻ. Tôi còn có thể cắn nữa. Nếu cô không ngăn cản tôi ở Trollesund, tôi đã bóp nát sọ người đàn ông dó như bóp một quả trứng. Sức mạnh đó quá lớn cho những trò lừa bịp. Cô không thể đánh lừa một con gấu. Cô muốn tôi chứng minh không? Hãy lấy một cây gậy và đấu với tôi.”
Háo hức muốn thử, cô bẻ một cành cây trong bụi cây bám đầy tuyết, bẻ hết những nhánh nhỏ xung quanh và vụt nó vun vút bên này bên kia như một thanh kiếm. Iorek Byrnison ngồi bệt xuống và chờ đợi, tay khoanh trước ngực. Khi đã sẵn sàng đối mặt với nó, cô không muốn đâm nó vì trông nó rất thản nhiên. Thế là cô khoa chiếc gậy lên, huơ sang phải rồi sang trái, không định đánh vào người nó, nó vẫn không hề động đậy. Cô làm như thế nhiều lần, và không lần nào nó xê dịch dù chỉ là một phân.
Cuối cùng cô quyết định xiên thẳng vào người nó, không mạnh, nhưng để cái que chọc vào bụng nó. Ngay lập tức nó giơ tay gạt cây gậy sang bên.
Ngạc nhiên quá, cô thử lại lần nữa và kết quả cũng tương tự. Nó chuyển động nhanh nhẹn và chính xác hơn cô rất nhiều. Cô cố gắng đánh lạc hướng nó, cầm chiếc gậy như một thanh kiếm, và chẳng lần nào chạm được vào người con gấu cả. Dường như nó biết cô định làm gì trước khi cô hành động, khi cô chọc vào đầu nó, cái chân to lớn gạt cây gậy sang bên rất nhẹ nhàng, và khi cô dùng đòn nhử, nó không hề động đậy.
Cô tức điên lên, lao cả người vào cuộc tấn công dữ dội, thọc, quật, xỉa, đâm và chẳng lần nào qua được đôi tay của nó. Chúng vươn ra khắp mọi nơi, đúng lúc để đỡ đòn, đúng vào vị trí có thể chặn đánh.
Cuối cùng cô cảm thấy sợ, và dừng lại. Cô đã toát hết mồ hôi trong lớp áo lông thú, mệt đứt hơi, kiệt sức, còn con gấu vẫn ngồi yên không xê dịch. Nếu cô có một lưỡi gươm sắc thật sự, chắc nó cũng chẳng hề hấn gì.
“Tôi cá là anh có thể bị trúng đạn,” cô nói, rồi ném cây gậy đi. “Làm sao anh có thể làm được như vậy?”
“Bằng cách không phải là con người,” nó nói. “Đó là nguyên nhân tại sao cô không bao giờ có thể lừa một con gấu. Chúng tôi nhìn thấy các trò lừa bịp và dối trá rõ như ban ngày. Chúng tôi có thể nhìn nhận chuyện đó theo một cách loài người đã quên mất. Nhưng cô thì lại biết đấy; cô có thể hiểu được chiếc máy đọc biểu tượng.”
“Cái đó đâu giống nhau, phải không?” cô nói. Giờ thì cô thấy bồn chồn về con gấu còn hơn cả khi cô chứng kiến cơn thịnh nộ của nó nữa.
“Giống nhau đấy,” nó nói. “Người lớn không đọc được chiếc máy đó, theo như tôi biết. Cũng như tôi giỏi hơn những chiến binh là con người, cô cũng giỏi hơn người lớn vì đọc được chiếc máy biểu tượng.”
“Vâng, tôi cho là thế,” cô nói, bối rối và không hài lòng. “Như vậy nghĩa là tôi sẽ quên cách dùng nó khi tôi lớn lên phải không?”
“Ai mà biết được? Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc máy biểu tượng, hay một người có thể đọc được nó.”
Nó thả rơi người xuống bốn chân và đi nhai khúc thịt của mình. Lyra đã cởi bớt áo choàng lông thú, nhưng giờ trời rất lạnh nên cô phải mặc vào. Dù gì thì cô cũng đang cảm thấy rất băn khoăn. Cô muốn hỏi ý kiến chiếc chân-kế ngay bây giờ, nhưng trời quá lạnh, mọi người đang gọi cô vì đã đến lúc phải đi tiếp. Cô cầm lấy chiếc hộp thiếc Iorek đã làm, đặt chiếc hộp trống không trở lại túi quần áo của Farder Coram và đặt chiếc hộp có sinh vật bay do thám vào chiếc túi đeo trên vai cô bên cạnh chân-kế. Cô thấy vui vì cuộc hành trình lại bắt đầu.
Các lãnh tụ đã đồng ý với Lee Scoresby rằng khi đến điểm dừng chân kế tiếp, họ sẽ bơm căng khinh khí cầu để ông có thể theo dõi từ trên cao. Tất nhiên Lyra rất mong được bay cùng ông, và tất nhiên nó bị cấm; nhưng cô vẫn bám theo ông trên đường đến đó để quấy rầy ông bằng những câu hỏi.
“Ông Scoresby, ông sẽ bay tới Svalbard như thế nào?”
“Cháu cần một chiếc khí cầu điều khiển được và một động cơ chạy bằng khí gas, thứ gì đó như zeppelin, hoặc cách khác là một ngọn gió nam tốt lành. Nhưng chết tiệt, ta chẳng dám thử đâu. Cháu từng đến nơi đó chưa? Một nơi khỉ ho cò gáy, tồi tàn hoang vu nhất, trống trải nhất và bất tiện nhất trên đời.”
“Cháu chỉ đang thắc mắc, nếu Iorek Byrnison muốn quay lại…”
“Anh ta sẽ bị giết. Iorek đang chịu án đày. Ngay khi anh ta đặt chân lên đó, chúng sẽ xé xác anh ta ra thành từng mảnh.”
“Ông bơm hơi vào khinh khí cầu như thế nào, ông Scoresby?”
“Có hai cách. Ta có thể tạo khí hidro bằng cách bơn axit sulphuric vào bột sắt. Ta thu lấy khí thoát ra và bơm dần vào khinh khí cầu như vậy. Cách còn lại là tìm một cái ống dẫn khi gần một lò đốt than, hoặc lò nung vôi. Ta có thể lấy khí từ lò nung vôi nếu cần, và từ đầu nữa. Việc tạo ra khí gas không khó. Nhưng cách nhanh nhất là dẫn khí từ dưới đất lên. Một đường ống dẫn khí tốt sẽ làm đầy khí cầu trong vòng một giờ.
“Ông có thể chở được mấy người?”
“Sáu, nếu cần.”
“Ông có chở được Iorek Byrnison khi đang mặc bộ áo giáp của anh ấy không?”
“Ta đã từng làm thế rồi. Ta từng một lần cứu anh ta từ trong tay những người Tartar, khi anh ta bị thương và bị bỏ đói—đó là trong chiến dịch Tunguska, rồi ta bay đến và đưa anh ấy đi. Nghe thì có vẻ dễ, nhưng chết tiệt, ta đã phải tính toán trọng lượng của anh chàng to đầu đó dựa trên ước đoán. Rồi ta còn phải hạ xuống để tìm khí gas dưới cái pháo đài bằng băng giá anh ta đã làm. Nhưng từ trên không ta có thể biết ở dưới là loại đất nào, ta đoán đào sâu xuống sẽ không sao. Cháu biết đấy, để hạ xuống ta phải xả khí ra khỏi khí cầu, không thể cất cánh lại nếu không được bơm thêm. Dù thế nào, bọn ta cũng đã xoay xở được, cùng với cả bộ giáp và tất nhiên cả những thứ cần thiết khác.”
“Ông có biết về chuyện người Tartar đục những cái lỗ trên đầu người không?”
“Ồ, dĩ nhiên là ta phải biết chứ. Họ đã làm như vậy hàng nghìn năm nay. Trong chiến dịch Tunguska chúng tôi bắt sống được năm người Tartar và ba người trong đó có lỗ trên đầu, một người có đến hai lỗ.”
“Họ làm như vậy cho nhau sao?”
“Đúng thế. Đầu tiên họ cắt rời ra một khoanh da đầu, như thế họ có thể nhấc phần đó lên để lộ xương sọ. Sau đó họ cắt một vòng tròn xương nhỏ ra khỏi xương sọ, rất cẩn thận để không đâm thủng não, rồi họ khâu mảnh da đầu lại như cũ.”
“Cháu nghĩ họ làm thế với những kẻ thù!”
“Quỷ thật, không. Đây là một đặc quyền thiêng liêng. Họ làm như vậy để thần linh có thể nói chuyện với họ.”
“Ông từng nghe về một nhà thám hiểm tên là Stanislaus Grumman chưa?”
“Grumman hả? Tất nhiên rồi. Ta gặp một người trong đội thám hiểm của ông ấy khi bay trên sông Yenisei hai năm trước. Ông ấy đang theo đường đó để đến sống giữa các bộ lạc người Tartar. Thực ra, ta nghĩ ông ta đã để người khác đục lỗ trên đầu mình. Đó là một nghi thức trong lễ kết nạp, nhưng người đàn ông nói chuyện với tôi không biết nhiều về chuyện này.”
“Vậy thì… nếu ông ta là một người công dân danh dự của người Tartar, họ sẽ không giết ông ấy phải không?”
“Giết ông ấy ư? Vậy ông ấy chết rồi sao?”
“Vâng, cháu đã nhìn thấy xương sọ của ông ấy,” Lyra nói với giọng tự hào. “Cha cháu đã tìm thấy nó. Cháu nhìn thấy khi ông ấy cho các Học giả xem tại Học viện Jordan ở Oxford. Người ta đã đục lỗ trên đó.”
“Vậy ai đục lỗ trên đó?”
“Thì những người Tartar. Các Học giả nghĩ như vậy… Nhưng cũng có thể không phải.”
“Có thể đó không phải là đầu của Grumman,” Lee Scoresby nói. “Có lẽ cha cháu muốn đánh lạc hướng các học giả.”
“Cháu nghĩ là ông ấy muốn như vậy thật,” Lyra trầm tư nói. “Ông ấy đang muốn yêu cầu họ đưa tiền.”
“Và khi họ trông thấy cái đầu, họ đưa tiền cho ông ấy?”
“Vâng.”
“Một cú lừa ngoạn mục. Người ta sẽ bị sốc khi nhìn thấy một thứ như thế. Họ không muốn nhìn quá kỹ càng.”
“Đặc biệt là các Học giả,” Lyra nói.
“Chà, coi bộ cháu còn biết nhiều hơn ta. Nhưng nếu đó đúng là đầu Grumman, ta đoán không phải những người Tartar đã đục lỗ trên đó. Họ không đục lỗ trên đầu kẻ thù, không phải họ, còn ông ấy chỉ là con nuôi của người Tartar.”
Lyra suy nghĩ lại chuyện này khi họ đi tiếp. Những dòng ý nghĩ hỗn độn đang quay cuồng quanh cô: bọn Gà trống tây và sự độc ác của chúng, nỗi e sợ của chúng về Bụi, thành phố hiện lên trong hiện tượng cực quang, cha cô ở Svalbard, mẹ cô… Bà ấy đang ở đâu? Chiếc chân-kế, các phù thủy bay về hướng bắc. Tony Makarios bé nhỏ đáng thương, và thứ sinh vật bay do thám, khả năng tự vệ kỳ lạ của Iorek Byrnison…
Rồi cô chìm vào giấc ngủ. Mỗi giờ qua đi họ càng đến gần Bolvangar hơn.