Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-11-05 19:15:22 +0700
Chương 14
- B
áo cáo đồng chí đại úy!
- Việc gì thế? - Cli-mô-vít hỏi, vẫn còn mơ màng, chưa chịu mở mắt.
- Nhưng mời đồng chí tỉnh dậy đã nào!
- Tôi tỉnh rồi mà - Cli-mô-vít nói, mắt vẫn nhắm - Đồng chí muốn gì?
- Thưa đồng chí đại úy, có báo động.
Cli-mô-vít liền ngồi nhỏm dậy và mở choàng mắt.
- Báo động tác chiến - người cần vụ đứng trước anh nói - Chỉ huy trưởng binh đoàn cho gọi đồng chí - Cli-mô-vít quấn vội đôi poóc-ti-an-ki vào chân, đi bốt và đứng dậy khỏi giường; đây là một đống cành lá chặt hôm qua, bên trên phủ tấm áo đi mưa.
Đại úy Xi-nít-xin, trưởng ban tham mưu tiểu đoàn, ngủ trong căn lều nhỏ sát bên Cli-mô-vít đã đi ra ngoài lều, đứng ra lệnh, tiếng the thé oang lên.
Cli-mô-vít đóng vội cúc áo mặc áo da lái xe tăng, bước ra và đi về phía lều đồng chí chỉ huy binh đoàn. Mánh bạt cửa hé mở và từ xa người ta nhìn thấy một vệt sáng mờ mờ trên mặt đất.
Xa-rít-sép đã mặc quần áo xong, đứng ở giữa lều, hai chân giạng ra, đang vội vàng cạo mặt, một chiếc khăn nhét vào trong cổ áo để hở.
Cách đây năm phút, sau khi nhận được lệnh của ban tham mưu tập đoàn quân điều động binh đoàn hành quân cấp tốc về phía khu vực núi Ba-in Xa-gan, và phải có mặt đầy đủ tại đấy lúc mười giờ, Xa-rít-sép đã tức khác triệu tập các tiểu đoàn trưởng đến họp. Sau khi mặc áo và khoác dây đeo, ông mới kịp nhận ra rằng mình chưa cạo mặt nên lúc này ông đang cạo mặt trong khi chờ đợi các sĩ quan đến và vừa cạo vừa hỏi đại úy mang lệnh từ ban tham mưu tập đoàn quân đến về tình hình hôm trước. Xa-rít-sép muốn biết rõ lý do người ta bắt binh đoàn ông phải chuyển quân giữa ban đêm, có phải là để làm một cuộc hành quân chớp nhoáng như lần vừa rồi hay là để lao vào chiến đấu. Những câu trả lời của đại úy làm ông nghiêng nhiều về lý do thứ hai.
Xa-rít-sép cũng thấy rõ là đại úy sốt ruột muốn tiếp tục hành trình của anh, nhưng ông không để cho anh đi vội.
Ác-tê-mi-ép sốt ruột thật sự; người ta không nhìn thấy gì trên thảo nguyên cả; anh đã vòng một quãng dài vô ích; hơn nữa anh đã phải thay lốp ở dọc đường và đến đây bằng chiếc lốp xơ-cua. Khi Xa-rít-sép biết chuyện đó, ông liền gọi người lái xe của mình lên và bảo anh ta đưa cho Ác-tê-mi-ép một chiếc lốp xe khác.
- Nếu không, khi xe nổ lốp, anh lại phải thay săm và mất nửa tiếng. Tốt hơn hết là đợi năm phút nữa như thế bảo đảm hơn.
- Thưa đồng chí binh đoàn trưởng, trung đoàn bộ binh lúc này ở đâu? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Theo lệnh nhận được, trung đoàn này phải ở cách hậu quân chúng tôi mười cây số vào hồi đêm, theo đường thẳng. Ban đêm, cứ cho là mười lăm. Anh đừng sốt ruột nữa, anh sẽ đi ngay bây giờ.
- Tôi không sốt ruột đâu. Một sĩ quan khác đã được phái đến chỗ đó, nhưng chúng tôi nhận được lệnh phải truyền đạt hai lần những chỉ thị của trên cho các đồng chí. Khi anh ta đến đây, thì tôi lại phải đến chỗ ấy.
- Thế nào anh cũng tới nơi, Xa-rít-sép bình tĩnh nói, vừa lấy hai ngón tay căng mảng da cổ dưới hàm để cạo nốt. Anh hãy nói cho tôi biết, ở ban tham mưu người ta nghĩ gì về cuộc tiến công này của xe tăng Nhật, đúng là cuộc tổng tiến công hay chỉ là một trận nghi binh.
- Tôi không rõ. Khi tôi đi, ở đấy vẫn chưa có ý kiến rứt khoát.
- Nhưng mà chúng có bao nhiêu xe tăng cơ chứ? Năm mươi hay một trăm.
- Hiện thời khó mà có một con số chính xác. Trên một mặt trận khá rộng, không biết mấy chục xe tăng đi tiến công nhiều đợt khác nhau. Theo như tài liệu nói chung nhận được, thì có đến một trăm, nhưng cũng có thể người ta đã đếm trùng một số chiến xa nào đó trên những điểm khác nhau. Vậy cứ cho là bảy mươi nhăm.
- Và hai mươi đã bị pháo binh ta bắn cháy? - Xa-rít-sép hỏi lại.
- Cũng phải đến thế - Ác-tê-mi-ép nói giọng chắc chắn.
- Cũng khá đấy - Xa-rít-sép nói, vẻ trầm ngâm suy nghĩ.
Ông không phải chỉ nghĩ đến những chiến xa Nhật đã bị phá hủy, mà nghĩ đến vấn đề chung ngoài những chiếc chiến xa Nhật này, đến vấn đề đọ sức giữa chiến xa và pháo binh, cuộc đọ sức, mà theo như tin tức Ác-tê-mi-ép mang đến, pháo binh Xô-viết đã thắng lợi. Lần này, pháo binh Xô-viết thắng lợi, được lắm, nhưng cũng sẽ đến ngày mà chiến xa Xô-viết phải ăn đạn pháo binh Nhật.
- Được, mặc dù chưa có ý kiến ở ban tham mưu - Xa-rít-sép đột nhiên nói - nhưng ý kiến riêng anh thế nào? Đây là một cuộc tổng tiến công hay chỉ là nghi binh?
- Theo tôi, thì mặc dù số lượng chiến xa nhiều như thế, đây vẫn chưa phải là cuộc tổng tiến công, chúng sẽ mở nó ở một hướng khác.
- Tại sao?
- Vì chúng bắt đầu vào buổi chiều; như thế là chúng không dự định sẽ thu được thắng lợi trước ban đêm và thật ra chúng nhấn mạnh quá để chúng ta phải chú ý tới. Quá nhiều đại bác của thúng bắn hú họa, vì chúng làm quá ầm ĩ. Tóm lại, tất cả những cái đó táo bạo quá, trực tiếp quá.
- Phải, nhận định của anh có lý lắm - Xa-rít-sép nói. Ông dốc một nửa lọ nước cô-lô-nhơ vào khăn và bắt đầu từ từ xoa mặt và cổ, một cách thích thú.
Những ý kiến Ác-tê-mi-ép vừa trình bày, tự anh cũng thấy là hợp lý, nhưng nói thật ra, ý kiến cho rằng quân Nhật không thọc mũi dùi tiến công chủ yếu vào giữa, mà vào một hướng khác, anh chỉ mới bắt đầu có từ lúc đã muộn rồi, vào buổi chiều, khi anh nhìn thấy đồng chí tổng chỉ huy ở đài quan sát. Người ta vừa hồi hộp báo cho đồng chí biết tin có ba mươi chiến xa Nhật nữa mới xuất hiện ở khu vực giữa. Đồng chí thản nhiên nghe người báo cáo tin, còn hơi dửng dưng nữa là khác, và đáng lẽ trả lời đồng chí chỉ ra lệnh cho đồng chí trưởng ban tham mưu cử hai sĩ quan thân chinh đi xem xẻt tình hình ở sườn bên trái và sườn phải.
Ác-tê-mi-ép hy vọng được là một trong hai sĩ quan đó; nhưng anh bị thất vọng; hai sĩ quan khác đi về phía sườn và anh được phái đi tức khắc về hậu phương đem đến cho binh đoàn xe tăng, đã ngừng lại nghỉ buổi tối, lệnh tiếp tục hành quân.
- Thế là đại bác đã lên tiếng rồi - Xa-rít-sép nói, vẻ tư lự - Và sau một tháng tạm ngừng.
- Hơn chứ. Trận đánh gay go cuối cùng xảy ra vào ngày hai mươi chín tháng năm, và hôm nay đã mồng hai, hay đúng hơn, mồng ba tháng bảy.
- Anh đã ở đây suốt thời gian ấy phải không?
- Không, tôi mới đến đó hai ngày.
Ác-tê-mi-ép định thêm «sau khi ở bệnh viện ra», nhưng anh lại thôi.
Xa-rít-sép đã cạo mặt xong, tháo chiếc khăn ra để lộ trên ngực áo một huân chương «Cờ đỏ», nước sơn đã cũ, ông được tặng sau Nội chiến.
- Thưa đồng chí binh đoàn trưởng, mệnh lệnh của đồng chí đã được chấp hành, chiếc bánh sơ-cua đã lắp xong - người lái xe của Xa-rít-sép đứng ở cửa lều nói vào, nét mặt lộ rõ anh đã chấp hành mệnh lệnh đó một cách không vui vẻ lắm - Còn gì nữa không ạ?
- Tôi có thể đi được chứ? - Ác-tê-mi-ép cũng hỏi.
- Được - Xa-rít-sép nói - Chúc anh đi bình yên.
- Đồng chí binh đoàn trưởng, xin chúc đồng chí ra trận may mắn - Ác-tê-mi-ép nói vừa bước ra khỏi lều.
Khi ra đến cửa, anh suýt va phải một nhóm sĩ quan. Bóng dáng của một người trong bọn họ (tối quá anh không nhìn được rõ mặt) anh thấy có vẻ quen quen, nhưng một phút sau, anh đã quên cuộc gặp gỡ đó - Mặt dán vào khung kính cửa, anh cố mày mò tìm phương hướng trong thảo nguyên đang chạy vùn vụt đen ngòm bên cạnh xe.
*
* *
Mặt trời đã lên cao trên vòm trời; chín giờ sáng. Binh đoàn xe tăng do Xa-rít-sép chỉ huy tiến đến gần núi Ba-in Xa-gan; theo những tin tức cuối cùng hồi sáng, thì hồi đêm quân Nhật đã chuyển nhiều lực lượng vào khu vực này, trên bờ phía Tây Khan-khin Gon, Địa điểm mà người ta gọi là núi Ba-in Xa-gan, nhìn từ phín Tây-bắc - nghĩa là phía những chiến xa đến - chẳng có vẻ gì là một quả núi. Thảo nguyên kéo thành một đường dốc thoai thoải dài mấy cây số, và đến hết dốc, người ta hình như không thể tưởng tượng được rằng ngọn núi Ba-in Xa-gan, như bản đồ đã chỉ rõ, lại có thể đột nhiên chạy dốc dựng đứng từ trên mấy trăm thước xuống mặt sông Khan-khin Gon.
Cli-mô-vít, trong chiến xa của mình, đi dẫn đầu tiểu đoàn. Lưng tựa vào nắp máy xe tăng để mở, hai tay chống trên thành tháp. Qua găng da, anh cảm thấy nhiệt độ của khung thép đã lên cao. Chỉ một tiếng đồng hồ nữa phơi nắng là kim loại sẽ trở nên cháy bỏng. Hôm qua, vào khoảng trưa, đang lúc hành quân anh thiu thiu ngủ và đã để chạm má vào khung thép; bị đau quá, anh choàng tỉnh dậy và đến giờ má vẫn còn những vết cháy bỏng đỏ tím.
Sức nóng bức không thể chịu được từ lúc bắt đầu hành quân, cho đến trận mưa hôm qua dịu được một chút, lúc này lại bắt đầu; hậu quả của nó là đặt Cli-mô-vít lên cương vị chỉ huy tiểu đoàn. Hành quân đến hôm thứ hai, Ma-ki-en-kô, tiểu đoàn trưởng, ngột ngạt không chịu được đã bỏ mũ ra và đứng đầu trần một tiếng đồng hồ. Bị cảm nắng, sau khi cấp cứu anh đã được chuyển về hậu phương, lúc đó vẫn còn chưa tỉnh.
Thay Ma-ki-en-kô chỉ huy tiểu đoàn, theo lệnh của Xa-rít-sép, Cli-mô-vít thấy bận tâm gấp đôi khi đến gần Ba-in Xa-gan.
Một là vì trong một trận đánh (và ngày hôm đó thế nào người ta cũng đánh nhau; không những anh phỏng đoán thế, mà anh còn cảm thấy trước rõ rệt) anh thích chỉ huy đại đội của mình hơn là tiểu đoàn. Anh không cảm thấy bối rối hay bị đè bẹp trước những trách nhiệm mới, chỉ vì anh quen tính toán mọi sự việc ở tỷ lệ tương đối hẹp của đại đội anh, có thế thôi, và anh luôn luôn lo ngại đã bỏ sót một điều gì trong cáỉ gia đình lớn mà hiện thời anh quản lý, và nhất là anh thường tự hỏi xem mình có quên không ra một mệnh lệnh cần thiết, quên nói với người nào, hay quên kiểm tra một chi tiết này hay chi tiết khác. Nhưng trong tiểu đoàn tất cả đều hoàn toàn đâu vào đó, tuyệt đối không có một điều gì, một cái gì bị quên hay bỏ sót: cương vị công tác mới làm anh lo ngại.
Cli-mô-vít cũng còn một lý do lo ngại nữa: khi chỉ định anh thay thế Ma-ki-en-kô, Xa-rít-sép đã bỏ qua đại úy Xi-nít-xin, trưởng ban tham mưu tiểu đoàn. Xa-rít-sép có những lý do của ông để xử sự như vậy. Trong thời bình, chắc ông sẽ chẳng quyết định như thế nhưng với triển vọng một trận đánh trước mắt, một số điểm trong lý lịch Xi-nít-xin, một số chi tiết không có ghi, nhưng ông vẫn nhớ rõ: «Có tinh thần kỷ luật, chấp hành tốt, nhưng thiếu tính chủ động» nên ông không cử anh ta thay tiểu đoàn trưởng, và nghiêng về Cli-mô-vít.
Không biết những lý do đó, nên trong thâm tâm Cli-mô-vít vẫn cho rằng việc Xa-rít-sép không chỉ định Xi-nít-xin là không đúng, nhưng với Cli-mô-vít, mệnh lệnh là mệnh lệnh, một cái gì không thể bàn cãi, và nếu Xi-nít-xin, phật ý, có ý định biểu lộ sự bất mãn của anh ta trong đơn vị hay có ý làm giảm uy tín của Cli-mô-vít, anh sẽ chẳng do dự gì mà không cương quyết chỉnh cho anh ta một trận, và có thể tàn nhẫn nữa.
Tuy trong thâm tâm, Xi-nít-xin hết sức bất bình, nhưng anh ta vẫn không để lộ vẻ gì là bất mãn, anh ta còn cố giúp đỡ Cli-mô-vít một cách sốt sắng và ân cần. Hành động như thế, Xi-nít-xin càng làm cho Cli-mô-vít tin chắc thêm vào ý kiến của mình cho Xa-rít-sép đã lầm khi gạt Xi-nít-xin ra. Cli-mô-vít luôn luôn cảm thấy ngượng nghịu trước anh trưởng ban tham mưu của mình.
Xe tăng của Xi-nít-xin theo sau xe của Cli-mô-vít độ ba chục thước. Cũng đứng như Cli-mô-vít trong tháp xe, Xi-nít-xin bỏ mũ ra đang quạt. Cli-mô-vít nhìn rất rõ chiếc áo da, cài cúc đến cổ, chiếc mũ dài và mái tóc húi ngắn của Xi-nít-xin.
- Vát-xi-li Vát-xi-li-ê-vít! - Cli-mô-vít chụm hai tay lên miệng làm loa và kêu to để Xi-nít-xin nghe được rõ hơn, mặc dù tiếng xe tăng chạy rầm rầm - Đội mũ vào, nếu không cậu lại theo Ma-ki-en-kô mất thôi!
Xi-nít-xin không hiểu Cli-mô-vít nói gì, nhưng qua điệu bộ anh hiểu ra và đội ngay mũ lại.
Binh đoàn xe tăng tiến trên thảo nguyên từng chặng một, tiểu đoàn Cli-mô-vít đi giữa. Những khẩu đại bác, ban đêm bỏ vải bọc ra, chưa nhả đạn, nhưng ba ngày hành quân cũng đã làm do mười người trong binh đoàn, bị quỵ vì nóng và nắng. Một trong những xạ thủ ở trên tháp bị ngất đi và chết luôn; người ta đã chôn anh ta trong thảo nguyên vào một trong những chặng nghỉ chân.
Trong những ngày cuối tháng năm, sau khi binh đoàn dời khỏi chỗ trú quân mùa đông, ngày thứ ba được lệnh ngừng lại, vì tình hình tạm yên ngoài mặt trận. Những chiếc lều đóng quân mùa hè đã được căng lên nhanh chóng và cho đến cuối tháng sáu, binh đoàn ở trên thảo nguyên, xa tất cả mọi làng xóm có dân cư, luôn luôn thao diễn chiến thuật và bắn tập.
Rồi binh đoàn được lệnh phải tức khắc lên đường hành quân về phía Đông. Lần đầu tiên trong suốt mùa hè, một trận mưa ngắn, nhưng như trút nước xuống hôm trước, nhưng ngay từ sáng như một chuyện cố tình, trời oi bức ngột ngạt lạ lùng, ngay cả đối với mùa hè ở Mông-cổ. Qua những lỗ châu mai của xe tăng, các chiến sĩ lái xe tăng nhìn thấy nổi tiếp nhau trong ba ngày liền những cánh đồng cỏ rộng mênh mông vô tận, những vùng đất muối và hàng hàng núi cát. Chỗ nào cũng cát; cát vào trong mắt, cát lạo xạo, giữa hai hàm răng, cát vào mũi, cát cùng với sức nóng hun đốt của không khí làm rách cổ họng, thoáng có những người ho sặc sụa hàng tiếng đồng hồ, tưởng như cát vào đến tận phổi và rít lên kin kít theo nhịp thở. Khi gió nổi lên, cát bay vào cổ rồi vào trong áo, chui vào lỗ châu mai vào xe tăng, làm mắt những người lái xe bị thương. Những vành xích nghiến răng ken két, những động cơ nóng rãy, những cột không khí ngùn ngụt bốc lên từ những pháo tháp chiến xa. Những người khốn khổ nhất vì oi bức là những anh thợ máy lái xe và những anh phụ trách xưởng sửa chữa lưu động. Ban đêm, trong những lúc chiến xa ngừng lại, họ phải điều chỉnh máy và sửa chữa những chỗ hư hỏng lúc ban ngày, mặc cho muỗi xô đến làm thịt.
Ban ngày, những chỉ huy chiến xa, thay thế những chiến sĩ lái xe trong một hay hai tiếng để họ có thể chợp mắt chút ít trên ghế chỉ huy, nhưng khí hậu ngột ngạt làm không tài nào ai nhắm mắt được.
Đoạn đường vài trăm cây số vượt bằng xe tăng qua sa mạc, dưới ánh nắng mặt trời trên những đất muối và cồn cát cũng đã là một trong những thử thách đối với tinh thần con người và máy móc, nó cho phép ban chỉ huy chỉnh đốn lại, theo hướng lạc quan, cách nhìn nhận của mình về tác dụng của chiến xa trên một địa hình tương tự.
Trong thời bình, sau ngày cuối của một cuộc hành quân như thế, sẽ có một ngày nghỉ. Nhưng ba ngày hành quân cấp tốc qua sa mạc, về phía núi Ba-in Xa-gan dẫn họ thẳng vào trận đánh. Hầu như không ai còn nghĩ đến cuộc hành quân nữa, những người còn nhớ đến nó đều suy nghĩ nhất là về chuyện không biết máy móc hao mòn sẽ ảnh hưởng đến mức độ nào lúc phải ném chúng vào chiến đấu, vì bao giờ thì chặng thứ hai sẽ tới mang dự trữ xăng, cần thiết cho những trường hợp tác chiến đòi hỏi những cuộc chuyển vận kéo dài.
Buổi sáng hôm đó tất cả đều làm cho người ta linh cảm thấy sắp bước vào chiến đấu. Gió thổi rạp từng đợt sóng cỏ trên thảo nguyên và mặt trời nóng cháy, đỏ ngầu trèo nhanh lên trên vòm trời như muốn được nhìn thấy hết, không sót một chi tiết nào về sự kiện sắp xảy ra.
Từ tinh mơ, những đội khu trục thay phiên nhau bay hộ tống binh đoàn, và chỉ riêng trong nửa tiếng vừa rồi, hai đội, mỗi đội chín máy bay ném bom đã bay rồi về phía mặt trận. Tiếng ình ình của các động cơ át cả tiếng bom nổ, nhưng người ta nhìn rõ mồn một những cột khói ở chân trời. Khi đội thứ hai bay qua những cột khói bốc lên rất gần.
Căn cứ vào những mục tiêu đó, Cli-mô-vít đoán có lẽ chỉ còn cách phòng tuyến quân Nhật độ bốn hay năm cây số là cùng.
Anh nghĩ bụng: «Và chúng ta cứ thế này tiến vào mặt trận không nghỉ chân, không nhận được mệnh lệnh mới? Chỉ còn đi độ mười lăm phút nữa thôi.» Anh cũng biết rõ là không thể có chuyện như thế được, nhưng dù sao anh cũng cứ thấy lo lo.
Vừa hay lúc đó, chiếc xe tăng của Xa-rít-sép với số hiệu 1 viết bằng sơn trắng trên pháo tháp, đi vượt lên đầu rồi quay vòng lại và Xa-rít-sép, đứng trong pháo tháp, phất cờ ra hiệu cho tất cả ngừng lại.
Chiều ngày 2 tháng bảy, đồng chí chỉ huy trưởng tập đoàn quân đã không lầm, khi ông nhận định những cuộc tiến công của chiến xa Nhật vào bờ phía đông sông Khan-khin Gon trong khu vực đường hành lang trung tâm không có tầm quan trọng quyết định mà chỉ tỏ ý lo ngại về tình hình sườn bên trái và sườn phải.
Mặc dù quân Nhật trên một số điểm nào đó đã đẩy lui được những lực lượng Xô-viết, đồng chí tổng chỉ huy vẫn không ra lệnh cho những lực lượng dự bị vượt sang bờ sông phía đông mà chỉ cho chuyển đến gần Khan-khin Gon. Đồng chí vẫn nghĩ rằng quân Nhật sẽ không tung chủ lực của chúng theo hướng đó, và đồng chí đã nghĩ đúng. Những cuộc tiến công dữ dội của quân Nhật ở mặt trước vào hồi tối và đêm ngày mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng bảy, với hai trung đoàn xe tăng có nhiều tiểu đoàn bộ binh và mấy sư đoàn pháo binh trợ lực, không nhằm mục đích nào khác ngoài việc giam chân chủ lực Xô-viết và Mông-cổ ở khu vực trung tâm.
Trung tướng Ca-mát-xu-ba-ra tổng chỉ huy quân đội Nhật, tự đề ra cho mình mục tiêu chính là nhân những cuộc tiến công đó, bất ngờ chuyển chủ lực vào lúc đêm và sáng, sang bờ sông phía tây ở cuối sườn bắc. Quân Nhật định sau đó sẽ tiến nhanh về phía nam theo dọc sông Khan-khin Gon và chiếm lĩnh mặt sau, kể từ bờ sông phía tây, cả hai đầu cầu, và như thế là bao vây chặt tất cả tập đoàn quân Xô-viết và Mông-cổ còn đóng ở trên bờ phía đông.
Để bảo đảm cho cuộc hành binh này thắng lợi, vào hạ tuần tháng sáu, quân Nhật đã bí mật tập trung cách biên giới không xa lắm, chung quanh thành phố nhỏ Gin-gin Xu-mê, một đạo quân gồm hai mươi lăm nghìn người gồm sư đoàn bộ binh thứ 23 hai trung đoàn xe tăng, một trung đoàn công binh, mấy trung đoàn pháo binh và một số đơn vị của chính quyền bù nhìn Mãn Châu quốc.
Ba trăm máy bay đã được tập trung trên những sân bay lân cận. Sự thắng lợi của cuộc hành binh này hình như là không còn nghi ngờ gì nữa đối với quân Nhật, đến mức trong một mệnh lệnh ngày 30 tháng 6, tướng Ca-mát-xu-ba-ra đã chỉ rõ địa điểm đóng ban tham mưu của hắn trên núi Ba-in Xa-gan, một khi chiếm được quả núi này.
Bộ phận tình báo Xô-viết, từ cuối tháng sáu, đã nhận được tin về những cuộc chuẩn bị của quân Nhật, nhưng vẫn không biết rõ hết mọi chi tiết. Sở dĩ có cuộc hành quân cấp tốc của binh đoàn chiến xa và nhiều đơn vị thiết giáp và bộ binh chính là do những tin tức từng phần ấy về sự tập trung lực lượng của quân Nhật.
Sau khi tiến công các lực lượng Xô - Mông ở khu vực trung tâm và qua những trận đánh liên tục diễn ra lúc tối và lúc đêm bị mất một nửa số quân của hai trung đoàn xe tăng, Ca-mát-xu-ba-ra, trong đêm mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng bảy, cho chuyển sang bên kia sông Khan-khin Gon, những lực lượng xung kích của hắn, gồm một sư đoàn bộ binh và bốn trung đoàn pháo binh.
Suốt đêm và sáng sớm hôm sau, dưới sự yểm hộ của máy bay quân Nhật vượt sông Khan-khin Gon bằng cầu nổi, bằng mảng, bằng thuyền và bằng cách bơi tay. Trập tuyến Xô-viết do những lực lượng tương đối ít bảo vệ trong khu vực này, chấm hết ở cách điểm đổ bộ của quân Nhật hai cây số. Ngay cả trong khu vực Ba-in Xa-gan, và chếch hơn nữa về phía Bắc chỉ có mỗi một trung đoàn kỵ binh Mông-cổ phụ trách bảo vệ một bên sườn, sẵn sàng đối phó với mọi tình hình.
Lẽ dĩ nhiên mấy trăm kỵ binh không có thể chặn đứng được ở ngay giữa thảo nguyên một sư đoàn bộ binh đã bắt đầu thiết lập được một đầu cầu.
Sau khi đã nổ súng dữ dội vào quân Nhật, cuối cùng trung đoàn rút lui vào trong thảo nguyên, và tiếp tục dùng đại liên và súng trường quấy rối địch.
Từ lúc mở đầu những trận đánh, tướng Ca-mát-xu-ba-ra đã đặt nhiều hy vọng vào những trung đoàn bộ binh của hắn hơn là vào những trung đoàn chiến xa ở trên gửi xuống. Nhìn thấy những chiến xa hạng nhẹ theo một kiểu đã cổ, ngụy trang màu xanh lá cây, tím, và vàng diễu qua Gin-gin Xu-mê, hắn đã quyết định không vì chúng mà giảm tốc độ vượt sông. Hắn đã phái hai trung đoàn đến khu vực trung tâm để làm nghi binh. Nhưng những tin tức nhận được hồi đầu buổi sớm, lúc hắn cùng với ban tham mưu chuyển sang bờ bên kia Kha-khin Gon, cũng đã làm hắn thất vọng trong một chừng mực nào. Từ hôm qua, pháo binh Nga đã phá hủy hơn bốn mươi chiến xa của hắn. Nếu Hồng quân chỉ phá hủy được độ mười hay hai mươi chiếc thì sau này, trong đám bạn hữu trong ban tham mưu của đạo quân Quan-đông, hắn sẽ có thể phê bình bộ Chiến tranh đã không biết hiện đại hóa những chiến xa và tăng cường vỏ thép của chúng một cách khá nhanh chóng. Nhưng với con số năm mươi chiến xa bị phá hủy trong những giờ đầu của trận đánh, hắn biết hắn sẽ phải trả lời với cấp trên về việc đó và hắn biết muốn tránh khỏi rầy rà cần phải đạt được một số thắng lợi chớp nhoáng và quyết định, tốt nhất là phá được những chiến xa Xô-viết.
Tuy tổn thất có đau đớn nhưng tình hình đối với Ca-mát-xu-ba-ra cũng có một khía tốt: rõ ràng là pháo binh có thể chặn được chiến xa tương đối dễ dàng. Vậy bốn trung đoàn pháo binh chuyển từ bên bờ kia sang cho phép viên tổng chỉ huy các lực lượng Nhật-bản hy vọng rằng sẽ đến lượt chiến xa Xô-viết bị chặn lại nếu các đơn vị này tiến công. Chỉ cần chuẩn bị cho chu đáo. Tinh mơ hôm đó, máy bay thám thính cho biết rằng những đơn vị thiết giáp Nga đã đến gần Ba-in Xa-gan và những lực lượng bộ binh gần nhất, cũng như pháo binh vẫn còn cách mặt trận sáu mươi cây số. Như thế là không lo gì những bộ phận này sẽ đến được trước ban đêm. Một cuộc tấn công của xe tăng không có bộ binh và pháo binh hỗ trợ là điều không thấy nói trong bất cứ một cuốn sách quân sự nào trên thế giới, và bên phía Hồng-quân chắc cũng sẽ không làm chuyện đó. Ca-mát-xu-ba-ra còn có cả một ngày trước mặt.
Một giờ trước, trinh sát Nhật tiến về phía Nam Ba-in Xa-gan đã vấp phải xe tăng Xô-viết. Ca-mát-xu-ba-ra không cho rằng sự việc đó có một tầm quan trọng đặc biệt, nhưng hắn cũng nhắc lại một lần nữa lệnh đã ra hôm trước: pháo binh và bộ binh phải chuẩn bị chống xe tăng, bằng cách bảo vệ đường qua sông trên một vành bán nguyệt lớn.
Rồi hắn ra lệnh chuyển sang nhanh hơn những lực lượng còn ở trên bờ sông phía đông. Vào lúc mười một giờ, những lực lượng này và những bộ phận đã chiếm lĩnh đầu cầu, được hệ thống phòng thủ chống xe tăng bảo vệ ở phía bắc và phía tây phải vượt qua trận tuyến của quân đội Xô - Mông và tiến về phía nam, dọc theo sông Khan-khin Gon, như vậy là lập tức cắt đứt được tất cả mọi liên lạc của địch và kẹp chặt nó trong một gọng kìm.
Trên mỏm núi Ba-in Xa-gan người ta đã đào hầm trú ẩn và dựng cho ban tham mưu hai gian lều lớn bằng lụa kép, màu ka-ki. Ở đó có thể nhìn xa vài chục cây số về phía đông. Dòng nước xanh của sông Khan-khin Gon chảy dài giữa lau sậy, cắt ngang bởi những cầu nổi trên đó quân Nhật vẫn còn tiếp tục vượt sang. Xa hơn, một vài dãy cồn ở giữa đã có vết bánh xe đi lúc đêm vạch thành một con đường. Người ta có thể nói là con đường đang bốc khói: đất khô nắng bốc lên từng đám bụi mù mịt đằng sau những chiếc xe vận tải nối tiếp nhau chạy trên quãng đường này.
Người ta nhìn rõ xa xa khói tỏa trên Gin-gin Xu-mê, nơi hôm qua ban tham mưu còn đóng; bảy giờ, theo như đã dự kiến trước trong mệnh lệnh, ban tham mưu đã đóng trên đỉnh núi Ba-in Xa-gan. Xa hơn nữa là những trái núi ăn ngang ra rìa dãy núi Đại Khin-gan. Đằng sau là Cáp-nhĩ-tân, San-sung và ban tham mưu của đạo quân Quan-đông, nơi tất cả mọi người, lúc này chắc đều cảm thấy thèm được như tướng Ca-mát-xu-ba-ra, trừ tên tổng chỉ huy U-ê-đa; hắn không ưa đi thăm mặt trận, nhưng ngược lại rất thích phỗng tay trên những thành tích của người khác và lúc này chắc cũng đã chuẩn bị sẵn sàng làm việc này rồi.
Tầm mắt nhìn không được xa lắm (độ hai hay ba cây số) trên những dốc núi Ba-in Xa-gan thoai thoải chạy về phía tây và phía bắc tạo thành những mỏm núi nhỏ cỏ mọc kín. Chiến xa Xô-viết lúc này đang tập trung sau những mỏm núi đó. Trinh sát báo tin đã trông thấy hai hay ba xe tăng nhưng về sau những chiếc xe ấy lại biến mất ngay.
Ở bên dưới, trên những cầu nổi và trên đường dốc đổ về phía Khan-khin Gon, tiếng cam nhông chạy ầm ầm, ì ạch bò lên dốc và phải hàng mấy chục bàn tay đẩy đằng sau. Lại một trung đoàn pháo binh nữa sang sông. Binh lính hối hả, thỉnh thoảng lại nhìn lên trời.
Mặc dù từ tinh mơ những khu trục Nhật-bản phủ kín trên bầu trời Ba-in Xa-gan, những phóng pháo Xô-viết đã tiến công vị trí đầu cầu, nhiều lần trút bom xuống những chỗ tập trung quân đông nhất, và đã làm thương vọng hơn hai trăm người.
Sau khi đứng mấy phút bên chiếc lều của mình, tướng Ca-mát-xu-ba-ra lên xe pho, cũng sơn đúng một mầu với mầu vải lều. Chiếc xe còn mới tinh; thời gian gần đây người ta vừa cung cấp loại xe này cho quân đội; bộ phận máy móc là của Mỹ, lắp cũng theo kiểu Mỹ, do xưởng O-da-ka phụ trách, chỉ khác là tay lái lắp bên phải, vì luật lệ giao thông trong những thành phố Nhật-bản quy định xe đi bên trái.
Hơi nhổm người trên đệm ngồi để liếc nhìn một cách khoan khoái trong chiếc gương nhỏ trên xe, khuôn mặt cạo nhẵn, vừa bình tĩnh vừa có vẻ khinh khỉnh của hắn, viên tổng chỉ huy Nhật-bản ra lệnh cho người lái xe lái một vòng quanh vành bán nguyệt phòng thủ chiến xa.
Ngay từ phút đầu, hắn nhận thấy rằng đêm và buổi sớm đã không bị bỏ phí. Người ta đã làm tốt nhất là khoảng những giờ cuối cùng gần đây sau khi hắn nhắc lại mệnh lệnh hôm qua. Trên tất cả trận tuyến, những xẻng đất tung tới tấp lên trời. Một vài khẩu pháo đã được bố trí trong những chiếc hầm sâu hình vành cung, để pháo có thể di động trên một đường vòng đến một trăm tám mươi độ. Trong những hướng người ta dự kiến có nhiều khả năng nhất là xe tăng sẽ tiến công, nhô lên những «túi»; đáy là những đơn vị gồm ba khẩu pháo, khẩu giữa bắn vào chiến xa trong lúc hai khẩu kia, bố trí ở hai bên sườn phía trước, vẫn im lặng và chỉ khi chiến xa đã «lọt túi», mới nhả đạn từ hai bên vào, cùng một lúc.
Ca-mát-xu-ba-ra nghĩ bụng khi nào trung đoàn cuối cùng, lúc này đương sang sông, leo được lên dốc Ba-in Xa-gan và chiếm lĩnh trận địa, số lượng pháo sẽ lên đến hơn một trăm năm mươi khẩu và hắn sẽ không còn ngại một cuộc tiến công nào của xe tăng nữa.
Bên những vị trí pháo, người ta đã đào những hầm sâu cho đại liên cỡ lớn. Việc di chuyển những khẩu đại liên ấy từ bên kia sông sang đã tiến hành chậm; bây giờ mới bắt đầu bố trí.
Giữa những khẩu đội và những khẩu pháo riêng lẻ đã đào xong những hố tròn cho những «thiện xạ» săn chiến xa. Trong những hố cá nhân đã có những người sẵn sàng chai xăng và sào tre dài khoảng năm thước, có gài mìn ở đầu. Những chiếc sào tre đó sẽ nhét mìn vào xích xe tăng. Ngoài ra còn có những hầm đào song song hai chiếc một, cách nhau khoảng hai mươi thước. Những lính ở trong hầm có nhiệm vụ khi tác chiến giữ hai đầu một sợi dây thép ở giữa có buộc mìn. Khi một chiếc xe tăng vào hành lang giữa hai chiếc hầm, chúng chỉ có việc kéo nhanh sợi dây để di chuyển mìn sang phía đường xe tăng đi.
Tất cả những cách thức bố trí này đã được thử thách trong những cuộc diễn tập mùa xuân năm trước ở vùng chung quanh Khai-la, trên một địa hình chọn lựa đặc biệt giống với địa hình vùng Ba-in Xa-gan. Bây giờ chỉ còn đợi thử thách trong thực tiễn.
Ca-mát-xu-ba-ra nhìn thấy mặt nhiều tên lính tái nhợt. Những chuẩn bị tỉ mỉ đã chỉ rõ nguy cơ đang đe dọa chúng lớn đến nhường nào. Nhưng hắn vẫn cố nghĩ «Tại đêm qua trời lạnh và khá nhiều đứa có lẽ là chỉ bị rét cóng, thế thôi».
Đã trên đường về lều chỉ huy, Ca-mát-xu-ba-ra còn dừng lại trước một khẩu đội cao xạ, loại bắn nhanh, kiểu mới, từ Đức gửi sang, coi như một cử chỉ thân thiện sau khi hiệp ước chống Quốc tế cộng sản được ký kết.
Máy bay nhung nhúc trên trời, những khẩu cao xạ này chẳng thiếu gì việc làm, nhưng Ca-mát-xu-ba-ra ra lệnh cho tên chỉ huy chuẩn bị trường hợp phải nổ súng vào chiến xa hay vào bộ binh của đối phương.
Về đến lều, Ca-mát-xu-ba-ra liên lạc ngay bằng điện thoại với trung tướng Y-át-xu-ô-ca ở bên bờ phía đông.
Y-át-xu-ô-ca báo cáo vắn tắt bằng một giọng bực mình là hắn đã chiếm lĩnh trong khu vực trung tâm thêm hai quả đồi nữa, nhưng hắn đã bị những tổn thất quan trọng do pháo binh Xô-viết gây nên khiến hắn không thu được thắng lợi quyết định.
Bỏ ống nói xuồng, Ca-mát-xu-ba-ra mỉm cười vì thấy Y-át-xu-ô-ca bực bội; hắn không thích tên tướng được thăng cấp quá nhanh này. Và không phải tình cờ mà hắn phân công cho Y-át-xu-ô-ca chỉ huy những lực lượng phụ trách nhiệm vụ thứ yếu, làm nghi binh. Hắn không muốn san sẻ chiến thắng với Y-át-xu-ô-ca.
Lúc ấy là mười giờ hai mươi phút. Một phút nữa, thiếu tướng Cô-bay-át-xi, chỉ huy lực lượng xung kích, sẽ phải báo cho hắn biết là y đã sẵn sàng chọc thủng tuyến phía nam. Quả vậy, trên đồng hồ kim chỉ giây chưa đi hết một vòng đã thấy Cô-bay-át-xi đi vào lều và đưa hai ngón tay lên chiếc vành mũ tí xíu của hắn. Nhưng cùng một lúc tiếng ầm ì của những chiến xa mở hết máy rộ lên từng hồi nghe cứ to dần và vang lớn, rõ mồn một.
*
* *
Đúng mười giờ ba mươi phút buổi sớm binh đoàn xe tăng của Xa-rít-sép, có sư đoàn thiết giáp Mông-cổ hỗ trợ, cùng một lúc tấn công theo ba hướng: Tây-bắc, Bắc và Nam - vào tuyến phòng ngự của quân Nhật bố trí theo hình bán nguyệt.
Vào lúc đó không những Ca-mát-xu-ba-ra và Cô-bay-át-xi, mà tất cả sĩ quan và binh lính Nhật đã vượt qua Khan-khin Gon, đều nghe thấy tiếng rú ầm ầm của một trăm năm mươi động cơ xe tăng.
Đứng trên một cao điểm, nhìn những xe tăng đi xa và mất hút ngay sau những mô đất, Xa-rít-sép mỗi lúc một cảm thấy ân hận hơn.
Ông cũng biết rằng tự mình không nên tham gia ngay vào cuộc tấn công, không phải chỉ vì trận đánh mới bắt đầu, vả lại sau khi nhận được những tin tức đầu tiên, đứng trên đồi quan sát này mà truyền những mệnh lệnh mới đi còn dễ dàng hơn là đứng trên pháo tháp một chiếc xe tăng nhiều. Ông cũng hoàn toàn hiểu rằng, nếu tình hình đòi hỏi sự can thiệp của chính bản thân ông và của đại đội xe tăng ông để lại dự bị, đứng trên đài quan sát này mà quyết định phải tiếp viện về phía nào cũng sẽ dễ dàng hơn.
Và sau hết, ông nhớ là đồng chí tổng chỉ huy đã ra lệnh cho ông phải đứng ở trên đài quan sát này và bây giờ không phải là lúc thảo luận, làm trái mệnh lệnh đó được.
Song nhìn theo đoàn xe tăng của mình đang xông vào cuộc tấn công, ông cảm thấy một nỗi đau xé nhói buốt đến độ không thể tự chủ được; đưa tay lên vành mũ, ông nói với đồng chí tổng chỉ huy đứng bên cạnh, giọng khàn khàn:
- Thưa đồng chí tổng chỉ huy, xin đồng chí cho phép tôi được tham gia cuộc tiến công phía sườn bên trái. Chính về phía đó, tình hình có thể trở nên hiểm nghèo.
Những lời như thế, trước và sau ông, các sĩ quan đều đã nói trong những phút tương tự với cấp trên của họ. Nếu chỉ có một mình Xa-rít-sép ở đài quan sát thì kinh nghiệm, lương tri và những yêu cầu của chiến thuật quân sự sẽ ngăn ông không được rời khỏi đây. Nhưng bên cạnh ông lại có đồng chí tổng chỉ huy. Đứng cạnh như vậy, Xa-rít-sép cảm thấy mình không thoải mái lắm, ông ao ước được đi ra xa đồng chí tổng chỉ huy, càng nhanh càng hay, lên tiền tuyến, hay lao vào chiến đấu. Ông đề nghị cho cá nhân mình được tham gia cuộc tiến công, cũng là một cách trút lên vai đồng chí tổng chỉ huy trách nhiệm phải lạnh lùng chú ý đến tất cả mọi chi tiết của tình hình và chỉ dành lại cho mình lòng dũng cảm và sự hăng say.
Quay về phía Xa-rít-sép, đồng chí tổng chỉ huy nhìn ra xa và, không giấu diếm vẻ khó chịu, đồng chí lạnh lùng nói, giọng bình tĩnh nhưng nghiêm khắc:
- Trước hết, tôi sẽ không tăng binh đoàn anh lên làm trung tâm của vũ trụ. Tôi không hề có ý định ở lại đây thay anh. Tình thế có thể đòi hỏi tôi phải có mặt ở nhiều địa điểm khác, Hai là, ở sườn trái anh đã có chính ủy binh đoàn (thực thế, Goóc-đi-ép-xki vừa đi tiến công với tiểu đoàn sườn trải); ba là, bây giờ cuộc tiến công vừa mới bắt đầu, nếu anh tin chắc là ở sườn trái một tiểu đoàn không đủ để bảo đảm thắng lợi, thì anh hãy tiếp viện thêm cho họ. Nếu anh tin chắc như vậy - đồng chí tổng chỉ huy nhắc lại giọng hơi mỉa mai - vì như tôi chẳng hạn, thì tôi lại tin chắc chỉ là chính anh muốn tự mình đi đến đấy.
Nói xong, đồng chí tổng chỉ huy chẳng để ý đến Xa-rít-sép nữa, đồng chí ngồi xuống chiếc ghế xếp bằng vải bao giờ cũng mang theo trong xe, đeo kính vào và trải một chiếc bản đồ lên trên đùi.
Đồng chí đáng lẽ còn trả lời Xa-rít-sép bằng những lời nghiêm khắc lắm, không những chỉ vì bản tính đồng chí là một người sỗ sàng và đôi lúc còn muốn tỏ rõ cho mọi người biết nữa, mà còn vì đồng chí đã tham gia Nội chiến trong cùng một trung đoàn với Xa-rít-sép, đồng chí biết Xa-rít-sép từ lâu, và thấy mình có một tình cảm bè bạn thật sự đối với người chỉ huy binh đoàn xe tăng này. Tính tổng chỉ huy thích biểu lộ tình bè bạn đó bằng một thái độ hết sức nghiêm khắc trong tất cả mọi việc có dính líu đến công tác. Nhưng lần này, ông tự chủ được vì ông hiểu Xa-rít-sép đang vô cùng lo ngại cho binh đoàn của ông ta. Tổng chỉ huy ngoài mặt tuy vẫn tỏ ra hết sức bình tĩnh nhưng bên trong ông còn lo ngại cho binh đoàn này hơn Xa-rít-sép nhiều và điều đó làm ông bực mình.
- Điều đáng buồn là bản đồ của bọn Nhật còn chính xác hơn bản đồ của chúng ta - tổng chỉ huy vừa nói vừa cầm lấy từ tay sĩ quan tùy tòng tấm bản đồ của đối phương lọt vào tay quân đội Xô-viết chiều hôm trước; ông đối chiếu trên hai bản đồ những ghi chú về khu vực Ba-in Xa-gan và nói tiếp - Xem bản đồ này có thể cả quyết là bọn chúng đã lợi dụng những vụ lộn xộn ở biên giới để cho máy bay chụp ảnh. Tôi cho rằng quãng đồng lầy nhỏ này thấy ghi trên bản đồ của chúng mà không thấy ghi trên bản đồ của ta là có thật ở phía sườn bên trái.
Xa-rít-sép vừa nhìn cả hai bản đồ vừa nói:
- Dù sao, phạm vi hoạt động dự kiến cho tiểu đoàn ở sườn trái tiến công cũng ở cách đây nửa cây số.
- Ngoài phạm vi hoạt động dự kiến trước cuộc tiến công, tổng chỉ huy vừa nói vừa đứng dậy, còn có một cái khác mà không ai có thể dự kiến trước được: là khí thế sôi nổi của cuộc chiến đấu, và trong trường hợp chúng ta, của cuộc chiến đấu đầu tiên. Đồng chí phái ngay một xe tăng đuổi theo truyền lệnh, trường hợp nào cũng không được vượt qua chỗ miếu đổ.
Xa-rít-sép đi ra cách đấy mấy bước để ra lệnh, còn tổng chỉ huy đứng một mình. Vài giây sau. đồng chí thấy một chiến xa liên lạc loại nhỏ đến đỗ trước mặt. Ác-tê-mi-ép bụi phủ kín đến tận lông mày, nhảy xuống đưa cho tổng chỉ huy một bọc giấy. Từ bờ phía đông, tham mưu trưởng báo cáo rằng, chấp hành mệnh lệnh của tổng chỉ huy, ông ta đã rút một sư đoàn pháo binh khỏi trận đánh và chuyển đến sườn phía trái. Đến mười giờ bốn mươi nhăm, lúc xe tăng bắt đầu tiến công, pháo binh sẽ từ bờ sông bên kia, nã đạn vào những chiếc cầu nổi của quân Nhật và vào sườn phía đông núi Ba-in Xa-gan. Nhưng tham mưu trưởng cùng viết thêm là bắt buộc phái bắn ở tầm giới hạn và như thế là sẽ không được bảo đảm chính xác lắm.
- Cũng không sao. Miễn là có bắn - tổng chỉ huy nói to như không phải ông đang đọc bản báo cáo mà là đang nói chuyện với tham mưu trưởng bằng điện thoại; ông ngước đôi mắt nghiêm nghị nhìn đại úy đang đứng nghiêm trước mặt, hỏi - Liên lạc đâu? Truyền đi là nếu...
- Xin phép được báo cáo với đồng chí là chính mắt tôi đã nom thấy liên lạc lúc ở cách đây một cây số, họ sẽ đến đây trong vải mươi phút nữa - Ác-tê-mi-ép nói nhanh, anh bối rối vì dù phải cắt lời đồng chí tổng chỉ huy, nhưng vì thấy điều mình nói là quan trọng nên anh nhất định nói.
- Nếu thế thì anh ở lại đây - tổng chỉ huy chỉ trả lời ngắn ngủn có thế rồi quay về phía những xe tăng vừa biến mất, lắng tai đợi nghe những tiếng súng đầu tiên.
Tính khoảng cách và tốc độ của xe tăng thì chỉ mười phút nữa cùng bọn Nhật sẽ phải bắt đầu nổ súng, nếu chúng không giữ được thái độ bình tĩnh cần thiết cứ để xe tăng tiến đến gần sát phòng tuyến của chúng. Tổng chỉ huy hy vọng rằng chúng sẽ không bình tĩnh được như vậy.
Sớm hôm đó, khi nhận được tin báo có nhiều lực lượng quân Nhật vượt sông sang bờ phía tây Khan-khin Gon, ông đã nhìn thấy rõ ngay âm mưu của chúng định trước tiên chiếm lấy núi Ba-in Xa-gan rồi tiến theo dọc bờ sông phía tây để bao vây các lực lượng Xô-viết trên bờ sông. Ông tin chắc là mình đã nhận định đúng, cũng như tin chắc là mình đã có quyết định duy nhất đúng trong trường hợp hiểm nghèo này khi ra lệnh cho các đơn vị xe tăng không ngừng lại nghỉ, cứ thế độc lực xông vào xô quân Nhật xuống sông Khan-khin gon. Nói tóm lại là không chờ bộ binh cũng như pháo binh gì hết. Tổng chỉ huy đã tận dụng mọi khả năng của của mình để trợ lực thêm cho cuộc tiến công này của xe tăng: pháo sẽ từ bờ sông bên kia bắn sang, và tất cả lực lượng không quân ông có trong tay sẽ cất cánh và tập trung trên Ba-in Xa-gan. Tất cả các đơn vị đang hành quân ra mặt trận đều nhận được lệnh phải tranh thủ tiến hết sức gấp.
Ông cũng hoàn toàn thấy rõ trách nhiệm mình phải gánh lúc quyết định như vậy, nhưng mỗi một giờ chậm thêm là một giờ cho phép quân Nhật mở rộng và củng cố trận địa trên bờ phía tây; tổng chỉ huy tự nhủ: tác dụng bất ngờ sẽ bù vào chỗ liều tay; hơn nữa những người, những xe tăng vừa lao vào cuộc tiến công lại là những con người Xô-viết, những xe tăng Xô-viết: đặt trên bàn cân. những nhân tố đã tính đến cùng phải là những nhân tố quyết định.
Về mặt kỹ thuật, ông tôn trọng sức mạnh của quân đội Nhật-bản, ông biết rằng trong các trận đánh vẫn thường có những thay đổi và những lầm lẫn và ngay hôm nay cũng có thể xảy ra. Nhưng ông vẫn cảm thấy không thể nào nghi ngờ, dù chỉ trong một tích tắc, tính chất hơn hẳn cuối cùng người lính Xô-viết so với người lính Nhật, cũng như không thể đột nhiên tin rằng chế độ tư bản lại hơn hẳn chế độ Xô-viết.
Những tin tức do máy bay truyền xuống nhấn mạnh rằng mặc dù quân Nhật đã hối hả đào những hầm trú ẩn ở đầu cầu, hàng ngũ của chúng vẫn còn rất lộn xộn: người và xe cộ tập trung đông đến độ hầu hết những quả bom thả xuống đều trúng địch. Những tin tức đó đóng một vai trò chủ chốt trong quyết định, chuyển ngay sang tấn công.
Tất cả cho phép người ta nghĩ rằng nói chung, quân Nhật rõ ràng là có chuẩn bị chờ đợi một cuộc tiến công, nhưng tuyệt đối không phải một cuộc tiến công ngay tức khắc; chúng cho rằng xe tăng còn phải đợi bộ binh mới dám hành động. Trong những trường hợp dồn dập một lúc như vậy, phải cho xe tăng tiến công ngay, không cần đợi bộ binh nữa.
Đến Mông-cổ bằng máy bay mấy ngày gần dây, vừa mới kịp đi duyệt các đơn vị và làm quen với các địa hình và nắm tình hình, đồng chí tổng chỉ huy, mười chín năm sau Nội chiến ngày hôm qua lại nghe thấy đạn rít trên đầu, lại nhìn thấy những cảnh thương vong, nghe những báo cáo như mười chín năm về trước của những người vừa mới nhìn thẳng vào một cái chết.
Đồng chí rất hiểu rằng người ta ai cũng sợ chết, rằng can đảm không phải là hành động không sợ hãi mà là vượt ra ngoài sợ hãi, rằng dũng cảm là chấp hành mệnh lệnh một cách nghiêm chỉnh, coi thường nguy hiểm, và phẩm chất anh hùng chính là cái bước tiến thêm về phía cái chết, đồng chí cũng biết rõ ràng người chấp hành mệnh lệnh từng chữ, là người hoàn thành nhiệm vụ một cách tự do khi tự quyết quyết định cần hay không cần phải tuân theo tinh thần của những mệnh lệnh ấy.
Từ ngày hôm qua, đã nhiều lần đồng chí nhận thấy ở những sĩ quan và chiến sĩ cái phẩm chất anh hùng, cái tinh thần anh dũng đó. Đồng chí luôn luôn tin chắc sẽ như vậy, nhưng niềm tin vững chắc đó được thực tế chiến đấu xác nhận lại tăng thêm một sức mới. Biết rằng đẩy lùi, như hôm qua, những cuộc tiến công chính diện còn dễ dàng hơn là đè bẹp và hất xuống sông một sư đoàn bộ binh và nhiều trung đoàn pháo Nhật, và lúc này khi các chiến sĩ đã được thử thách trong chiến đấu, đồng chí không những tin rằng có thể thu được một số kết quả nào đó, mà còn có cơ đại thắng nữa.
Tổng chỉ huy tin tưởng như thế vì bản thân ông cũng là một trong số những người đã từng leo dần, từ thấp đến cao, những cấp bậc trong đời sống nghiêm khắc và dân chủ của Hồng quân, và bản thân ông cũng đã từng sống những hoàn cảnh mà hiện nay hầu hết những người dưới quyền ông, các chiến sĩ, các hạ sĩ và sĩ quan, từ chỉ huy trung đội đến chỉ huy trung đoàn đang trải qua.
Kinh nghiệm đó càng làm ông thêm tin ở các cán bộ và chiến sĩ ấy như tin chính bản thân mình.
Nghĩ đến tất cả những cái đó một lần cuối cùng, tổng chỉ huy nhớ lại một tuần trước Xta-lin đã triệu tập đồng chí với nhóm sĩ quan cao cấp mà công tác vừa bị thay đổi vì tình hình căng thẳng ở Viễn-đông. Nhớ lại lúc đó, đồng chí tưởng tượng như lúc này đồng chí đang đứng trước Xta-lin và lần đầu tiên trong đời, đồng chí báo cáo trực tiếp điều quyết định vừa rồi với Xta-lin.
Phải, đồng chí có thể không sợ sệt nhìn thẳng vào mặt Xta-lin, mà báo cáo quyết định vừa rồi.
Đồng chí nói với Xa-rít-sép khi ông ta trở về:
- Địa hình không tốt lắm.
Địa điểm hai người đang đứng cũng như cả một vùng lân cận, không có một địa điểm nào có thể dùng làm đài quan sát tốt được. Xe tăng bị một dãy đồi nhỏ che khuất. chỉ có thể lại nhìn thấy được khi lên tới trên đỉnh núi Ba-in Xa-gan.
- Chính vì thế mà tôi đề nghị… - Xa-rít-sép nói giọng hơi ngập ngừng, ông muốn trở lại vấn đề hồi đầu câu chuyện.
Trước mặt hai người, phía chân trời. hàng loạt tiếng nổ vang lên cùng một lúc, đất rung chuyển liên tiếp nhiều lần và không khí âm vang tiếng nổ rền như tiếng sấm từ xa vọng lại. Ngay lúc đó, xe tăng hiện ra giữa những tiếng nổ, nhìn xa nên chỉ bé xíu. Những đám nổi lại bốc tung lên như một bức thành chung quanh đám xe tăng, mặt đất lại rung động liên tiếp.
Một phút sau, hai người lại nghe thấy một loạt tiếng nổ thứ ba nữa, lần này ở xa hơn chỉ hơi nghe rõ. Nhìn vào đồng hồ, đồng chí tổng chỉ huy không nói gì, đồng chí thấy tham mưu trưởng đã theo đúng thời gian định trước, pháo từ phía đông bắt đầu bắn vào đám quân Nhật đang qua sông.
Chỉ huy trưởng binh đoàn mỗi lúc một cảm thấy nỗi thèm khát cháy bỏng muốn đi về phía trước, không muốn đứng ở đài quan sát này nữa. Mặt ông lộ rõ một niềm đau khổ quá nhức nhối về số phận những chiến sĩ và những chiếc xe tăng của binh đoàn ông, thông cảm đồng chí tổng chỉ huy lặng lẽ đặt bàn tay nặng nề lên vai ông ta và nói:
- Xa-rít-sép, biết tính sao! Chúng ta được đào tạo trong suốt hai mươi năm trời là để cho giờ phút này.
Chính tổng chỉ huy cũng vừa nghĩ rằng quân Nhật có nhiều pháo và binh đoàn, không có bộ binh trợ lực, sẽ bị tổn thất rất nặng. Đồng chí biết và chấp nhận điều đó, hoàn toàn với đầy đủ ý thức. Đồng chí gánh trách nhiệm của toàn bộ sự việc hay đúng hơn trách nhiệm của một sự việc: chiến thắng, chiến thắng sẽ biện bạch cho những tổn thất mà do quyết định của đồng chí, đồng chí đã vì cần thiết bắt binh đoàn Xa-rít-sép phải chịu. Quả vậy, không chiến thắng, những tổn thất đó không thể tha thứ được. Nhưng đồng chí tin ở thắng lợi và tin chắc là mình đã hành động đúng.
Xa-rít-sép cũng tin ở thắng lợi, nhưng ông không có dưới quyền mình cả tập đoàn quân mà tình hình chung lúc này lệ thuộc vào khả năng của binh đoàn, qua những tổn thất có thể xoay chuyển cục diện trận đánh. Ông chỉ có một binh đoàn ấy, binh đoàn mà ông biết nhóm chiến sĩ phụ trách từng chiếc xe tăng mới, và chính những chiến sĩ đó những chiếc xe tăng đó lúc này đang hy sinh dưới làn đạn của pháo binh Nhật. Nhiều cột khói đen đặc sệt đã bốc cao ở phía chân trời, ông không thể lẫn nó với cái gì khác được, đúng là những chiếc xe tăng của binh đoàn ông đang bốc cháy. Ông đã cùng đồng chí tổng chỉ huy chuẩn bị trận đánh, cùng chia xẻ niềm tin ở thắng lợi, và cũng như đồng chí ấy, ông cũng đã cố gắng nhìn thấy trước những tổn thất nhưng, dù sao ông vẫn cảm thấy đau đớn không thể chịu được.
Tin chắc quyết định của mình là đúng, nhưng đồng chí tổng chỉ huy cũng hiểu tâm trạng của Xa-rít-sép. Vẫn đặt tay trên vai Xa-rít-sép, đồng chí nói:
- Tôi đã ra lệnh cho đồng chí tham mưu trưởng phải trực tiếp chịu trách nhiệm chuyển đến cho bộ binh tất cả những phương tiện chuyên chở có trong tay để ít nhất tiểu đoàn tiểu đội có thể có mặt ở đây trong vài giờ nữa. Binh đoàn thiết giáp thứ bảy cũng sắp đến. Tôi hy vọng nó sẽ tới vào lúc ba giờ chiều.
Xa-rít-sép ngước cặp mắt biết ơn nhìn đồng chí tổng chỉ huy. Suốt buổi sáng hôm nay, ông vừa cảm thấy sung sướng vừa bực mình vì có đồng chí bên cạnh. Cuối cùng, giữa hai tình cảm đó ông chọn lấy một: ông thấy sung sướng vì đã có đồng chí tổng chỉ huy ở bên.
- Ra lệnh cho xe tăng của đồng chí lại gần đây, đồng chí tổng chỉ huy vừa nói, mắt vừa đăm đăm nhìn về phía chân trời đen ngòm khói đạn. Đồng chí trèo lên chiến xa, còn tôi sẽ đi xe theo sau. Chúng ta tiến về phía trước.
Đồng chí lấy tay chỉ về phía một ngọn núi ở cách chỗ hai người đang đứng một cây số.
*
* *
Ba tiểu đoàn xe tăng bao vây quân Nhật ở phía Tây-bắc và phía Nam, đã chọc thủng những phòng tuyến địch, dùng đại bác tiêu diệt và nghiến nát đại bác của địch, lăn trên các hầm trú ẩn và các ổ đại liên; nhiều xe tăng đã bị bốc cháy. Tiểu đoàn của Cli-mô-vít, tiến công mười phút sau các tiểu đoàn bạn. mới chỉ đến gần phòng tuyến của quân Nhật thuộc khu vực trung tâm, đang chìm trong một không khí im lặng kinh khủng.
Đứng trong pháo tháp, nắp xe để mở, Cli-mô-vít là người đầu tiên leo lên đỉnh một quả đồi nhỏ, từ đó anh nhìn ngay thấy chằng chịt cả một bàn cờ những ụ đất nhỏ màu xanh lá cây, những khẩu pháo của bọn Nhật ngụy trang dưới lau sậy, và cỏ.
Rút những lá cờ hiệu ở trong bốt ra, anh phất nhanh trong không khí để ra lệnh: «Làm như tôi», rồi đậy nắp thép trên đầu xuống. Qua màu xanh nhạt của kính xe tăng, những khẩu pháo Nhật lại trông như những đợt sóng bình thường của một khoảng đất phủ cỏ. Xe tăng, mỗi lúc một tiến gần, nhưng đại bác vẫn thấy im lặng.
Cli-mô-vít chĩa nòng súng vào một ụ đất gần nhất; toàn bộ cơ thể anh lúc này căng thẳng và bận rộn. Ngồi trong xe tăng đang chạy với tốc độ giới hạn, một chân để trên bàn đạp, anh nhìn mục tiêu qua máy ngắm mà anh luôn luôn điều chỉnh lại, cả hai tay điều khiển những bộ phận giúp cho hệ thống kính nhòm chuyển động theo hướng thẳng đứng hay xoay vòng. Vừa điều khiển những bộ phận đó, anh vừa lẩm nhẩm đếm đến mười.
Anh bỗng nghĩ nhanh chóng kỳ lạ đến những điều tản mạn nhất chẳng có gì làm cho mạch lạc với nhau, nếu không phải cảm giác của sự nguy hiểm chết người, sức mạnh duy nhất có thể làm cho chúng theo nhau tiếp diễn ra như vậy trong óc anh. Anh nghĩ thầm xe tăng của đồng chí trưởng ban tham mưu tiểu đoàn đang đi cạnh xe anh, phía bên phải, và nếu có việc gì xảy ra, Xi-nít-xin sẽ thay anh chỉ huy đơn vị; trung úy Óp-sin-ni-cốp mới chỉ là một tay xạ thủ trung bình và cần phải theo dõi xem lúc chiến đấu tình hình sẽ ra sao; anh nghĩ dù thế nào Li-u-ba cũng sẽ không trở về với mẹ, chị thà ở vậy một mình, anh nghĩ đến tấm ảnh vợ anh để quên trong túi một chiếc áo khác. Anh hình dung thấy lại ngôi nhà gửi trẻ nơi anh đã được nuôi nấng, và bức tranh vẽ những chiến sĩ thủy quân ném lựu đạn vào một chiếc xe tăng «Ri-các-đô của quân đội Anh»; anh nghỉ thầm cần phải rút súng lục ra khỏi bao và nhét nó vào túi áo da; và cuối cùng anh thấy trời nóng quá. Sau hết Cli-mô-vít nhớ ra rằng địa hình làm sai lạc tầm xa lúc ngắm và anh ân hận đã không báo trước cho cả tiểu đoàn biết điểm này trước khi tiến công. Giữa lúc đó anh lẩm nhẩm: anh dậm chân vào bàn đạp. Mô đất xanh nứt tung ra làm hai. Một cột khói bốc lên trời.
Cli-mô-vít thấy trong mình trảo lên niềm hạnh phúc chớp nhoáng, đặc biệt, không gì có thể so sánh được, chỉ ngoài chiến trường người ta mới cảm thấy, nhưng ngay lúc đó ngực anh va vào quy-lát đại bác, lưng và đầu anh va vào vỏ thép của xe tăng. Chiếc xe bị lắc mạnh rồi đứng hẳn lại.
Đột nhiên không còn nhận ra được đồng chí chiến sĩ bắn súng máy trên tháp xe nữa; đầu bê bết máu, mặt dập nát nom kinh khủng, anh ta lăn từ chỗ ngồi, và giáng cả sức nặng mềm nhũn của cơ thể anh xuống đầu Cli-mô-vít.
Sau khi lấy tay áo lau vết máu trên mặt, Cli-mô-vít nhìn xuống chân và thấy đồng chí lái xe đang ngồi, hai tay buông thõng, mặt gục vào tay lái. Lưng anh ta nhũn quá, không chút nhúc nhích, Cli-mô-vít hiểu rằng anh ta cũng bị hy sinh rồi, và anh ngồi tụt xuống đáy xe.
Xác của người xạ thủ vẫn đè nặng trên lưng Cli-mô-vít. Anh quay người trở lại cho chiếc xác lăn xuống. Động cơ không chạy nữa. Im lặng kỳ lạ trong xe.
Xti-ô-pa Xi-mô-li-a-cốp, người lái xe, có một lỗ nhỏ đen sì trên gáy, ngay sát vành mũ. Anh bị chết vì một mảnh đạn ô-buy văng phải. Vừa lầu bầu một lời rủa, Cli-mô-vít vừa lấy sức đẩy xác anh ta vào thành xe để lấy một chỗ ngồi trên ghế. Rồi cúi xuống, anh nhấc chân người chết, cứng đờ trên bàn đạp ra chỗ khác.
Ngồi vào mép ghế rồi, anh tìm được cách cho chân lên bàn đạp. Anh chạm vào xtác-lơ(1), xtác-lơ chuyển động. Anh mở máy và cho rú ga. Chiếc xe tăng lắc lư, xích nghiến ken két.
________________________________________ (1) Bộ phận để mở cho máy chạy.
Mới chỉ có một phút trôi qua từ giây lát hạnh phúc tột độ Cli-mô-vít cảm thấy sau khi anh bắn có một phát mà phá hủy được một khẩu pháo của quân Nhật cho đến lúc anh lấy vai thúc gạt thi hài người lái xe tăng sang một bên để lấy chỗ ngồi, và cho xe chạy, chiếc xe trong đó chỉ có một mình anh với hai xác chết.
Người lái xe, Xti-ô-pa Xmô-li-a-cốp và người bắn súng máy trên tháp xe, Di-bin, giây lát trước đây có cùng với Cli-mô-vít một quá khứ và một tương lai chung, nay đã không còn nữa: họ để anh ở lại một mình. Đạn đã phá một lỗ thủng lớn trên tháp xe, vô tuyến điện không dùng được nữa, đại bác và súng máy không bắn được nữa, Và dù có còn nguyên không suy xuyển. anh cũng không thể nào có một mình mà vừa bắn súng vừa lái xe được.
Khi anh dận ga, chính Cli-mô-vít cũng không biết rồi mình sẽ làm gì. Anh tiến về phía trước do sức mạnh của quán tính chi phối. Nhưng ngay phút sau anh nhìn thấy qua lỗ ngắm phía trước chiếc xe tăng số 4, xe của Xi-nít-xin, đã vượt anh và lúc này đang cháy ở cách anh một trăm thước. Xi-nit-xin đáng lẽ có thể và phải thay anh, đang chết cháy. Nhìn chiếc xe tăng của anh ta bốc lửa, Cli-mô-vít hiểu anh không còn được lựa chọn. Chỉ có mỗi một cách là tiến lên phía trước.
Lúc mở đầu cuộc tấn công anh đã ra hiệu «Làm như tôi». Xe tăng của anh không cháy. Chẳng có người nào ở trên đời này biết rằng anh có một mình với hai xác chết và anh không thể bắn được. Ngược lại. chiến sĩ của anh sẽ phản ứng thế nào khi xe tăng của anh - xe tăng dẫn đầu với số 3 sơn trắng trên tháp lại quay lại và rút lui? Vượt các xe tăng khác, đang đi chậm lại để bắn. Cli-mô-vít, súng máy và pháo vẫn câm lặng, cho xe chạy bốn mươi cây số một giờ lao vào tuyến đầu của những vị trí pháo Nhật, xô vào một khẩu bên cạnh của một trong những «túi» hình tam giác. Cli-mô-vít cho xe lăn trên bệ súng, và chỉ vừa kịp nhìn thấy một tên Nhật từ dưới hầm nhảy lên ngã lăn dưới xích xe; với cùng một tốc độ, anh phỏng được một trăm thước nữa thì vỏ thép bị một phát đạn; xe lại lăn trên một khẩu pháo khác, ngoặt sang bên để tránh một chiếc sào tre đầu buộc mìn từ dưới hầm đưa lên và leo một quả đồi nhỏ trên có đặt một khẩu đội cao xạ. Bọn pháo binh Nhật cuống cuồng điều chỉnh máy để có thể bắn nằm ngang, nhưng không kịp, Cli-mô-vít đã lao tới; trông thấy xe tăng đến gần, chúng vắt chân lên cổ chạy thẳng.
Cli-mô-vít lái xe cho lăn lên trên một khẩu pháo lật đổ nó cùng với tất cả bệ súng - Quay đằng sau, anh nghe thấy đuôi xe tăng vừa lật đổ một cái gì nữa, và anh hiểu đây là khẩu thứ hai. Anh lái vòng và đi về phía khẩu thứ ba; không nhìn thấy một khẩu thứ tư ở bên cạnh, anh đi về phía một cái khe bên trong anh nhìn thấy có nhiều xe vận tải và một chiếc xe con, che lấp sau một đường dốc và có lưới ngụy trang, xích xe nghiến ken két trên bệ súng vùi trong cát.
Cứ cho xe chạy giật lùi, anh lần lượt nghiến nát cả ba chiếc xe vận tải. Dưới sức đẩy của cả khối thép xe tăng, chiếc xe con lăn kềnh trước Cli-mô-vít. Hai bánh thụt xuống một đường hầm, Cli-mô-vít cảm thấy rõ ràng chiếc xe tăng của mình rướn lên và san phẳng chiếc xe dưới dây xích.
Ngay gần đấy, trên sườn núi, lúc này thấy nhô lên một cái lều vải lớn màu xanh lá cây. Anh lao thẳng xe tăng về phía đó, nhưng hai tên Nhật, tay cầm chai xăng từ một chiếc hầm nhảy lên. Một tên ném vội, chai xăng rơi cách xa xe tăng. Tên thứ hai, lăm lăm cầm chai xăng trong tay, bò lên để ném về phía sau xe.
Cli-mô-vít lái ngoặt thật nhanh một lần nữa nhưng không đổi hướng được. Anh lái về phía lều, nhưng xe không lao vào lều mà móc vào những chiếc cọc đóng xuống đất, dây xích kéo rê tấm vải lều theo đằng sau.
Chỉ một giờ sau anh mới ra khỏi trận; anh cảm thấy mình sắp sửa ngất đi. Sờ tay lên đầu, anh hiểu rằng anh bí thương ngay từ lúc bắt đầu và máu đông lại trên một anh không phải chỉ là máu của Di-bin, mà chính là máu anh nữa.
Anh đến một địa điểm, ở đó một xe vận tải đang hối hả tiếp tế đạn dược cho bốn chiếc tăng khác.
Cố lấy hết nghị lực một lần cuối cùng, anh mở nắp tháp lúc này hình như nặng một cách không thể tưởng được, ra khỏi xe và ngồi xuống bãi cỏ.
Trận đánh vẫn rền vang xa xa. Trên trời, máy bay trút hết loạt bom này đến loạt bom khác xuống các vị trí của quân Nhật. Người ta nghe thấy những tiếng nổ và những phát đại bác mau và gọn của xe tăng.
Một kỹ sư phụ trách ban kỹ thuật của tiểu đoàn, đầu trần, người ướt sũng mồ hôi, áo bê bết dầu mỡ chạy đến, theo sau là Tê-ren-chi-ép, chỉ huy đại đội hai, đang ở đấy đợi tiếp tế. Tê-ren-chi-ép mặt đen ngòm bồ hóng và tay trái buộc băng rất bẩn; người ta đã cắt tay áo da và tay áo quân phục của anh.
- Trông cậu như một tên ăn mày - Cli-mô-vít nói, chính anh cũng ngạc nhiên vì câu nói đùa của mình. Rồi anh quay lai nói với kỹ sư - Anh hãy xem giúp khẩu đại bác và khẩu đại liên và kéo hộ mấy người ra khỏi xe. Hai chiến sĩ của tôi bị hy sinh cả rồi.
Kỹ sư rùng mình, nhưng không nói gì và đi về phía xe tăng.
- Thế mà mình cứ tự hỏi mãi sao cậu lại không bắn - Tê-ren-chi-ép nói vừa ngồi xuống đất bên cạnh Cli-mô-vít. Cli-mô-vít không trả lời. Vẫn ngồi, hai tay chống xuống đất trong khi người y tá ngồi xổm bên cạnh, thoạt tiên cắt tóc anh rồi băng lại vết thương, buộc quanh đầu và vòng qua cằm một lượt băng chặt khít. Anh nghĩ thầm, trận đấu vẫn còn tiếp tục, anh cần phải trở lại ngay. Anh nhìn kỹ sư và hai chiến sĩ xe tăng nữa vừa chạy đến giúp sức kéo xác Xti-ô-pa và Di-bin ra khỏi xe.
Sau đò kỹ sư trèo lên tháp xe, đứng đấy dăm phút cho tháp xe quay đi quay lại, chĩa đại bác lên trời và giật cò bắn thử.
- Đại liên tắc không bắn được nữa, nhưng đại bác vẫn còn nguyên không việc gì, anh nói vừa leo ra đứng trên vỏ xe.
Cli-mô-vít hỏi Tê-ren-chi-ép.
- Trong số các chiến sĩ xe tăng lúc này có ai rỗi không?
- Trong ba mươi cậu lái xe chỉ có mỗi một cậu là rỗi. Xe tăng của cậu ta bị cháy, cậu ta nhảy ra thoát - Tê-ren-chi-ép nói.
- Và xạ thủ súng máy trên tháp xe?
- Không có ai cả.
- Cũng chẳng sao, mình sẽ lại cho xe đi không xạ thủ súng máy. Cậu cho người lái xe đến đây - Cli-mô-vít vừa nói vừa khó khăn lắm mới đứng dậy được; anh cảm thấy đất hẫng dưới chân. Đột nhiên anh hỏi:
- Các anh ở đây có nước không?
Kỹ sư đưa cho anh bình nước còn ấm. Cli-mô-vít uống ừng ực.
- Cậu muốn trở lại trận đánh đấy à? - Tê-ren-chi-ép hỏi, giọng ngập ngừng.
- Cho mình một người lái xe, mình đã nói với cậu rồi cơ mà! - Cli-mô-vít trả lời. Nhìn mặt băng bó và tái nhợt của Cli-mô-vít, Tê-ren-chi-ép thấy lạ lùng và ghê sợ quá khiến anh cùng chẳng nghĩ đến chuyện cưỡng lại nữa, anh gọi người lái xe đang ngồi trên cỏ cũng không cách xa đấy bao nhiêu. Cli-mô-vít biết người lái xe này, cũng như mọi chiến sĩ trong tiểu đoàn, nhưng thoạt đầu anh không nhận ra vì người anh ta bê bết đầy bồ hóng, đen ngòm đến nỗi không ai nhận ra được.
- Chỉ huy của cậu đâu? - Cli-mô-vít hỏi.
- Chết rồi.
- Thế xạ thủ súng máy?
- Cũng chết.
- Y như của tôi - Cli-mô-vít nói và vừa trau mày vừa đi về phía xe tăng của anh.
Anh không bằng lòng với mình. Lẽ dĩ nhiên việc lao lên đến cùng trong đợt tiến công đầu tiên của anh là đúng, nhưng rồi đáng lẽ anh phái rút ra khỏi trận đánh sớm hơn nữa. Tất cả những đại bác, những xe vận tải của Nhật bị xe tăng anh phá hủy và nghiến nát cũng không thể bù lại việc, còn có một mình, trong lúc quá mải mê chiến đấu, anh đã bỏ không lãnh đạo tiểu đoàn của anh. Anh rất trách mình về việc đó và vội vã vớt lại thời gian đã bị anh bỏ phí, theo ý anh.
Đã ngồi vào trong xe anh còn hỏi Tê-ren-chi-ép xem tất cả các xe đã dự trữ đạn dược đầy đủ chưa: sau khi thấy Tê-ren-chi-ép gật đầu, anh ra lệnh cho bốn chiếc xe kia theo mình. Lúc trèo lên tháp xe, anh thấy tay mình vấy máu và anh lại đau xót nghĩ đến Xmô-li-a-cốp và Di-bin. Một phút sau, năm chiếc xe tăng tiến về phía trận đánh.
Vào khoảng năm giờ chiều, Pô-li-nin đi hộ tống những máy bay ném bom trên mỏm núi Ba-in Xa-gan và sông Khan-khin Gon, mau lẹ nhào thẳng xuống, trước khi rời khu vực này bay về, đây là lần xuất trận thứ bảy trong ngày.
Sau bảy chuyến bay, đầu Pô-li-nin bã ra, nhức buốt, máu đập mạnh hai bên thái dương, nhưng vẫn còn đạn dự trữ và anh muốn trút hết số đạn đại liên này lên đầu quân Nhật.
Lúc máy bay nhào xuống, anh được nhìn sát gần bãi chiến trường mà suốt ngày hôm ấy anh bay lượn ở trên. Khắp trên mặt vùng cao nguyên, chiến hào cắt nát và ngổn ngang xác chết. Đâu đâu cũng thấy những khẩu đại bác nằm chỏng gọng, những hòm đạn đại bác tung tóe. những xe vận tải, xe tiếp tế bị phá hủy, những xe tăng dù bị cháy hay còn đang bốc lửa, những súng ống vung vãi.
Nhưng trên mảnh đất chết chóc này chưa phải là đã hết mọi cuộc sống. Vẫn còn những chiếc xe tăng lồng lộn nhả đạn đại bác và súng máy, pháo vẫn bắn, lựu đạn vẫn nổ, vẫn còn những người từ dưới hầm nhảy lên vã lao vào xe tăng vào chân ngựa, cuống cuồng, chạy hốt hoảng, lẻ loi hay từng nhóm một.
Xuống cách trận địa một trăm thước, Pô-li-nin bắn một tràng dài xuống một chiến hào của quân Nhật và lúc bay trở lại lên cao, anh lo ngại nghĩ thầm lúc đêm xuống xe tăng sẽ phải bỏ trận địa hoặc ở lại đây giữa hàng nghìn tên lính Nhật đã kịp chạy núp xuống đáy chiến hảo.
Anh bay về phía sân bay và lúc bay trên con đường nối liền Kha-mác-đáp và Tam-xắc Bu-lắc anh nhìn thấy một đoàn xe dài chở bộ binh, đang tiến về phía Ba-in Xa-gan.