Số lần đọc/download: 1302 / 27
Cập nhật: 2017-12-18 08:35:15 +0700
Chương 12
T
rung uý phải đợi đến đêm để tự mình thực hiện nhiệm vụ; giao việc nầy cho người khác thì nguy hiểm quá: tiếng đồn sẽ lan nhanh rằng cha Jôsê được ban bí tích trong nhà giam. Khôn ngoan hơn, cũng không nên báo cho ông cảnh sát trưởng biết. Không nên tin tưởng vào cấp trên khi mình đã đạt được thành công hơn họ. Trung uý biết là ông cảnh sát trưởng không hài lòng khi anh ta bắt linh mục về, theo ý ông ta, nên để cho linh mục trốn thoát.
Trong sân trong, trung uý cảm thấy có hàng chục đôi mắt đang kín đáo canh chừng mình: trẻ con tụ tập thành nhóm, sẵn sàng reo lên những câu chọc ghẹo cha Jôsê khi ngài xuất hiện. Viên sĩ quan hối tiếc vì mình đã hứa với linh mục việc nầy, nhưng anh ta sẽ giữ lời…vì đó sẽ là một chiến thắng trên cái thế giới xưa kia, cái thế giới dưới ách Thiên Chúa bằng cách có thể tỏ ra sự ưu việt, lòng can đảm, sự trung thành, sự công minh…
Ông gõ cửa,nhưng không ai trả lời: ông đợi trong bóng tối. như người ăn xin. Rồi ông lại gõ cửa và có giọng nói: Đến đây, đến đây. »
Cha Jôsê, mặt dán vào cửa sổ, hỏi:
• Ai đó?
Hình như ngài đang lục lọi cái gì trên nền nhà.
• Trung uý cảnh sát.
• Ồ, cha Jôsê la lên lạc giọng, xin lỗi. Cái quần của tôi đâu. Tối quá… »
Ngài làm như đang nâng một gì nặng lắm rồi nghe tiếng bựt như thể giây nịt hay giây treo bị đứt. Bên kia sân, mấy đứa trẻ bắt đầu la: Cha Jôsê! cha Jôsê!.
Nhưng khi cha Jôsê ra mở cửa, cha làm như không thấy chúng và chỉ ầm ừ.
• Đồ quỉ sứ.
• Tôi muốn ông đi lên đồn cảnh sát với tôi, trung uý nói.
• Nhưng tôi có làm gì đâu. Không làm gì hết. Không ai cẩn thận như tôi.
• Cha Jôsê, lũ trẻ con léo nhéo.
Ngài nói tiếp giọng van nài:
• Nếu ai đó báo cáo cho ông về một vụ đưa tang, họ đã báo sai. Tôi đã không đọc kinh.
• Cha Jôsê! cha Jôsê!...
Trung uý quay người và đi băng qua sân. Ông la tụi trẻ con: « Im đi. Về ngủ đi. Ngay lập tức.Nghe không?
Từng đứa một, lũ trẻ biến mất, nhưng khi trung uý quay lưng lại, chúng lại quay lại chổ cũ.
• Không ai làm gì được với lũ trẻ con nầy.
• Anh ở đâu,Jôsê. Có giọng đàn bà.
• Anh đây em. Cảnh sát.
Một bóng đàn bà khổng lồ mặc áo ngủ tiến về phía họ như một con sóng biển. Chỉ mới hơn bảy giờ tối. Trung uý nghĩ thầm: » Có lẽ bà nầy chỉ suốt đời mặc đồ ngủ và nằm trên giường. »
• Chồng bà, trung uý dằn từng tiếng, chồng bà phải lên trình diện đồn cảnh sát.
• Ai bảo?
• Tôi.
• Ông ta không làm gì sai.
• Anh đã giải thích với ông sĩ quan, em…
• Anh im đi, để em nói.
• Thôi, cả hai ông bà thôi ca cẩm đi, trung uý nói. Chúng tôi cần ông gặp một người…một linh mục. Ông ta muốn xưng tội.
• Với tôi?
• Vâng, chỉ với ông thôi.
• Tội nghiệp, cha Jôsê nói, hai con mắt đỏ quạch đảo quanh khu nhà.Tội nghiệp. » Ông hỷ mũi rồi ngước nhìn nhanh lên các vì sao.
• Anh không được đi, người đàn bà nói.
• Như thế là phạm luật, cha Jôsê nói.
• Ông không cần bận tâm.
• Không, chúng tôi phải quan tâm chứ, bà nói. Tôi biết ông đang âm mưu gì trong đầu. Ông không muốn để chồng tôi yên. Ông cài bẫy để bắt lỗi chồng tôi. Tôi biết mưu mô của các ông mà. Ông cho người đến xin chồng tôi đọc kinh…vì anh ấy tốt bụng. Nhưng xin ông nhớ cho: chúng tôi được nhà nước trợ cấp. »
Trung uý chậm rãi nói:
• Linh mục nầy…đã nhiều năm nay bí mật hoạt động cho giáo hội của các người. Chúng tôi đã bắt ông ta và dĩ nhiên ngày mai ông ta sẽ bị bắn. Ông ấy không phải là người xấu. Tôi đã cho phép ông ta gặp ông vì hình như việc nầy tốt cho ông ấy.
• Tôi biết ông ấy, người đàn bà ngắt lời. Ông ta là một thằng say,không gì khác hơn.
• Tội nghiệp, cha Jôsê nói. Có lần, ông ta đã muốn trốn ở đây..
• Tôi hứa với ông bà là sẽ không có ai biết việc nầy,trung uý nói.
• Không ai biết ư! người đàn bà chanh chua. Ngày mai cả thành phố sẽ biết. Nhìn đám trẻ kia kìa. Chúng không bao giờ để ông Jôsê yên. Không bao giờ ngừng,mọi người sẽ muốn xưng tội rồi ông tỉnh trưởng sẽ biết, người ta sẽ ngưng trợ cấp.
• Nhưng dù sao, bà ơi, đó là bổn phận của tôi,vị linh mục nói.
• Anh đâu còn là linh mục nữa, anh là chồng em, bà ta nói. Và bà dùng một từ thô tục. « Đó,bây giờ bổn phận của anh là như thế. »
Trung uý nghe họ tranh luận với sự hài lòng cay đắng. Như thể anh ta khám phá ra một niềm tin cũ.
• Tôi không có thời gian chờ hai vị cãi vã cho xong, ông nói. Ông có đi theo tôi không,có hay không?
• Ông không có quyền ép anh ấy, người đàn bà nói.
• Bà ơi, dù sao…dù sao tôi cũng là linh mục.
• Linh mục! người đàn bà la lên. Ông? Linh mục?
Bà ta nổi lên cười và lũ trẻ sau cửa sổ hùa theo.Cha Jôsê lấy tay che mặt, ngài rất đau khổ.
• Bà ơi….ngài nói, nhưng tràng cười vẩn tiếp tục.
• Ông có đi không?
Cha Jôsê phác một cử chỉ tuyệt vọng,như thể muốn nói rằng thêm hay bớt một thất bại nữa cũng không có ý nghĩa gì với cuộc sống của ngài.
• Tôi nghĩ là không được, ngài nói.
• Tốt thôi, trung uý trả lời rồi đột ngột quay gót.
Ông đã mất khá nhiều thời gian để làm việc nhân đạo. Ông nghe sau lưng tiếng cha Jôsê nói với theo:
• Xin nói với ông ấy là tôi sẽ cầu nguyện cho ông ta.
Tụi trẻ con táo tợn hơn. Một đứa cất lên giọng the thé:
• Jôsê, đi ngủ thôi!.
Câu nói làm trung uý phì cười. Nụ cười của ông, ít thuyết phục,làm cho tràng cười chung quanh cha Jôsê càng to hơn và bay lên tận các chòm sao mà ngày xưa ngài biết tên đang di chuyển theo trật tự.
Trung uý mở cửa phòng giam: bên trong rất tối. Ông khoá cửa cẩn thận, tay đặt lên báng súng lục.
• Ông ta không muốn đến, trung uý nói.
Trong bóng tối,một hình người ngồi co ro: đó là linh mục, ngồi chồm hỗm trên nền nhà như một đứa trẻ đang chơi.
• Ông muốn nói là tối nay?
• Ý tôi là ông ta sẽ không bao giờ đến.
Một chút im lặng nếu ta gọi đó là im lặng vì tiếng muổi vo ve không dứt, tiếng những con mối đụng vào tường. Sau cùng linh mục lên tiếng:
• Tôi đoán là ông ta sợ.
• Vợ ông ta không muốn cho ông ta đi.
• Tội nghiệp ông ta!
Ngài cố cười, nhưng không có âm thanh nào não nuột hơn cái gịọng cười gượng gạo. Đầu ngài lại gục xuống đầu gối Ngài có vẻ như buông xuôi và hoàn toàn bỏ cuộc.
• Như ông đã biết rỏ mọi việc,trung uý nói, ông đã bị kết án.
• Tôi không thể tham dự phiên tòa xử tôi sao?
• Có thay đổi đuợc gì đâu?
• Đúng thế.
Ngài im lặng, Nghĩ xem mình nên phải có thái độ như thế nào. Sau cùng ngài hỏi với giọng hững hờ:
• Ông có thể cho tôi biết …lúc nào không?
• Ngày mai
Câu trả lời nhanh,gọn chấm dứt những suy tư của ngài. Đầu gục xuống. Nhìn dáng ngài ta có thể nghĩ là ngài đang cắn móng tay.
• Thật không hay khi phải trải qua đêm cuối cùng một mình. Nếu ông muốn, tôi chuyển qua phòng chung với những người khác.
• Không,không. Tôi muốn ở một mình. Tôi có nhiều việc phải làm. Giọng ngài đứt quảng và ồm ồm như thể ngài bị cúm. « Tôi phải suy nghĩ đến nhiều việc ».
• Tôi muốn giúp ông một việc, trung uý nói. Ông muốn tôi mang cho ông một ít rượu không?
• Bất chấp luật lệ à?
• Vâng.
• Anh tử tế quá. Ngài cầm bình rượu nhỏ. «Tôi rất sợ đau ».
• Ai đều cũng phải chết cả,trung uý nói. Ngày giờ nào, đối với tôi không quan trọng.
• Anh thật nhân đức: anh không phải sợ gì cả.
• Những ý nghĩ của ông thật kỳ lạ! trung uý nói. Nhiều khi tôi nghĩ những gì ông nói đều là để thuyết phục tôi.
• Thuyết phục anh cái gì đây?
• Ồ, tôi không biết…để trả tự do cho ông, hay là tin vào lời dạy của hội thánh Công giáo thánh thiện của ông…rồi gì nữa…?
• Sự tha tội…
• Ông cũng không tin điều đó mà, đúng không.
• Không, tôi tin chớ,linh mục nói.
• Như vậy thì ông sợ cái gì.
• Tôi không ngu. Tôi luôn biết tôi đã làm gì. Và tôi không thể tự mình tha tội cho mình được.
• Nếu cha Jôsê đến đây,có khác gì không?
Trung uý chờ đợi khá lâu câu trả lời,nhưng khi nghe trả lời thì ông không hiểu.
• Một người khác..dễ hơn..
• Có gì tôi có thể làm cho ông nữa không?
• Không,không còn gì.
Trung uý mở cửa, tay vô tình đặt trên cò súng. Ông ta buồn vì vị linh mục cuối cùng đã bị giam, không còn gì làm ông bận tâm nữa. Những động lực trong công việc hình như đã bị bẻ gãy. Ông ta nhớ đến những ngày rượt đuổi như là một khoảng thời gian hạnh phúc vừa chấm hết và không bao giờ trở lại. Ông thấy mình mất phương hướng, như thể sự sống đã lùi xa khỏi vũ trụ của ông. Ông ta nói với linh mục giọng ân cần chua chát (ông không thể ghét được con người nhỏ bé nầy):
• Ông cố gắng ngủ đi.
Lúc ông đóng cửa,một giọng nói run rẩy làm ông dừng bước:
• Trung uý?
• Vâng
• Ông đã bắn nhiều người. Những người như tôi đó mà.
• Vâng.
• Cái đau có kéo dài lắm không?
• Không, chỉ một giây thôi. Ông trả lời.
Ông đóng cửa và băng qua sân mà không nhìn thấy những bức tường vôi trắng. Hình vị linh mục và tên cướp còn ghim trên tường; ông giật xuống, chúng đã nên vô dụng. Rồi ông ngồi vào bàn, tay ôm đầu, ngủ thiếp đi vì mệt, ông không nhớ mình đã mơ thấy gì, một cái cười, cái cười bất tận và một hành lang dài mà ông không tìm được lối ra.
Linh mục ngồi trên nền đất, bầu rượu cầm trong hai tay. Không chần chừ,ngài mở nút chai và đưa lên miệng. Rượu không có tác dụng gì: như thể ngài đang uống nước. Ngài đặt bầu rượu xuống và bắt đầu một cách xưng tội. Ngài thì thầm với chính mình: « Con đã phạm tội dâm dục ».Câu công thức có sẵn không có ý nghĩa gì cả: nó giống như một câu viết trên báo: không thể sám hối bằng cách kể tội như thế được. Ngài lại bắt đầu: « Con đã ngủ với một người đàn bà », và tưởng tượng vị linh mục kia đang hỏi: « Mấy lần? Bà ta có chồng không? Không. » Không nghĩ tới việc đang làm, ngài uống một ngụm rượu.
Lúc chất lỏng đó chạm lưỡi ngài,ngài nhớ lại con ngài, đang đi vào lều, bao phủ bởi một quầng ánh sáng,khuôn mặt buồn, cam chịu,tối sầm vì khôn trước tuổi.
• Chúa ơi, xin Chúa gìn giữ nó, ngài cầu khẩn. Xin phạt tội con, con đáng bị luận phạt,nhưng xin ban cho nó sự sống đời đời ».
Cái tình yêu nầy là tình yêu ngài cảm nhận cho con người nói chung: tất cả những ưu tư, tất cả những khát vọng để giúp cho các linh hồn được giải thoát hội tụ lại nơi đứa bé nầy. Ngài bắt đầu khóc: như thể ngài bị buộc phải đứng lại trên bờ nhìn con mình chìm xuống từ từ, nhưng ngài quên không biết làm sao để bơi. « Đó là cái tình cảm, ngài nghĩ,mà tôi phải dành cho tất cả mọi người trong mọi lúc » và ngài cố gắng thôi không suy nghĩ đến con bé nữa để nghĩ đến tên tạp chủng, viên trung uý, con bé trong trại chuối và cả ông nha sĩ mà ngài đã ghé nhà trong một lúc; ngài đã gợi lên một loạt những khuôn mặt đang cố gắng tuyệt vọng lôi kéo sự chú ý của ngài, bất kham như một cánh cửa mà ta không thể lay chuyển. Vì tất cả những người kia cũng đang gặp nguy hiểm. Ngài cầu xin: xin Chúa giúp đỡ họ, nhưng đang lúc cầu nguyện, hình ảnh con gái ngài bên đống rác lại ngự trị trong tâm trí ngài,và ngài biết rằng, ngài vẫn cầu nguyện cho con bé. Thêm một thất bại.
Một lúc sau,ngài lại trở lại xưng tội: « Con đã say rượu…con không nhớ mấy lần. Không có bổn phận nào mà con không lơ là. Con có tội kiêu ngạo…thiếu bác ái.. » Các câu nói trở thành sáo mòn, trống rỗng…Ngài cần một cha giải tội để giúp ngài soát xét lại lương tâm, chuyển từ công thức sang hành động.
Ngài uống thêm ngụm rượu và đứng dậy cách khó khăn vì tê chân. Ngài đi đến tận cửa ra vào và qua song sắt ngài nhìn khoảng sân vuông bên ngoài, nóng ấm, chan hoà ánh trăng. Ngài thấy những binh lính ngủ trên võng và một người trong bọn họ không ngủ được đang chầm chậm đưa võng qua lại, qua lại. Im lặng khó tả bao trùm khắp nơi, ngay cả trong các phòng giam. Có thể nói thế giới, con người đã quay mặt đi để tránh chứng kiến cái chết của ngài. Lần mò quay lại, ngài ngồi trong góc xa nhất, vò rượu kẹp giữa hai đầu gối. « Nếu mình không vô dụng đến thế, đến thế, ngài nghĩ… » Tám năm gian khổ và tuyệt vọng chỉ như là bức tranh hài hước về chức vụ linh mục: một vài người rước lễ, một vài người xưng tội, một gương xấu thường trực. Ngài nghĩ: « Phải chi mình có được một linh hồn để dâng cho Chúa, để có thể nói với ngài rằng: Đây, đây là kết quả công việc của con… » Nhiều người đã chết vì ngài. Họ xứng đáng là những vị thánh; một chút cay đắng dâng lên trong tim ngài, vì họ và vì Chúa đã không gởi đến cho họ một linh mục xứng đáng hơn. « Cha Jôsê và mình, ngài nghĩ, cha Jôsê và mình… » Ngài uống thêm một ngụm rượu, nhớ đến khuôn mặt lạnh lùng của các thánh sắp xua đuổi ngài.
Đêm trôi qua chậm hơn so với lần ở tù trước vì hôm nay ngài có một mình. Không phải do rượu, ngài uống giọt cuối cùng lúc hai giờ sáng và rượu làm ngài chợp mắt được một lúc. Cái sợ làm ngài thấy buồn nôn, ngài đau trong dạ dày và rượu làm miệng ngài khô khốc. Ngài tự nói lớn tiếng với mình vì đột nhiên ngài thấy sự im lặng không thể chịu đựng được. Ngài tự than vãn: « Những cái đó rất tốt..cho các thánh », và một lúc sau: « Tại sao ông ta biết là chỉ một giây? Một giây là bao lâu? » Rồi ngài khóc và đập nhẹ đầu vào tường. Họ đã cho cha Jôsê một cơ hội,nhưng không cho ngài. Chắc là vì họ không hiểu gì cả, chỉ nội một việc, trong một thời gian quá lâu, ngài đã thoát được. Có thể họ thành thật nghĩ rằng ngài sẽ từ chối những điều kiện mà cha Jôsê đã chấp thuận, rằng ngài không muốn lấy vợ, ngài tỏ ra kiêu hãnh. Có lẽ, nếu chính ngài đề nghị, có còn đủ thời gian không. Hy vọng làm ngài dịu lại một lúc và ngài ngủ, đầu tựa vào tường.
Ngài mơ một giấc mơ kỳ dị. Ngài thấy ngài đang ngồi trước một bàn uống cà phê, trước bàn thờ chính của nhà thờ chính toà. Sáu bảy dĩa thức ăn bày ra trước mặt ngài, và ngài ăn ngon lành.Mùi hương trầm phảng phất trong một không khí tưng bừng. Những dĩa thức ăn- như mọi thức ăn trong mơ- không có mùi vị gì,nhưng ngài có cảm tưởng khi ngài ăn xong,người ta sẽ dọn cho ngài những món ngon hơn. Một linh mục đang dâng lễ đi qua đi lại trước bàn thờ, nhưng ngài không lưu tâm: lễ lạy không hấp dẫn ngài. Rồi sáu dĩa thức ăn cũng cạn,một người vô hình nào đó rung chuông khi hát Thánh, Thánh, Thánh, và người dâng lễ quì xuống nâng Mình Thánh Chúa lên. Nhưng ngài vẫn ngồi,không nhúc nhích,không để ý đến Chúa trên bàn thờ, như thể Chúa nầy dành cho những người khác, không phải cho ngài. Rồi cái ly đặt cạnh cái dĩa của ngài tự đầy rượu và, mắt ngước lên, ngài thấy cô bé trại chuối đang phục vụ ngài.
• Em đã lấy trong phòng của ba, cô bé nói.
• Em không ăn cắp chứ?
• Không hẳn,cô bé trả lời giọng nghiêm túc.
• Ông bố thật tốt, ngài nói. Tôi quên mật mã..cô gọi là gì nhỉ?
• Morse.
• Đúng thế. Morse. Ba tiếng dài, một ngắn.
Và đột nhiên, những tiếng động vang lên: linh mục trên bàn thờ,một đoàn lũ những người vô hình trong nhà thờ, gõ ba tiếng dài và một tiếng ngắn…tóc,tóc,tóc…tóc.
• Cái đó nghĩa là gì? Ngài hỏi.
• Một thông điệp,cô bé trả lời vừa quan sát ngài cách nghiêm khắc: tràn đầy lòng thương hại và trách nhiệm.
Khi ngài thức dậy, bình minh đã ló dạng. Ngài thức dậy tràn trề hy vọng nhưng rồi hy vọng biến mất lập tức khi ngài lại nhìn thấy sân nhà tù. Đó là buổi sáng ngày ngài phải chết. Ngồi xỗm trên nền đất,hủ rượu hết trong tay,ngài cố gắng ăn năn tội: “ Lạy Chúa, con chán ghét tội con đã phạm, xin Chúa tha thứ…đóng đinh…và con đã đáng bị hình phạt lớn nhất.” Ngài lo ra: không phải lúc nào ta cũng cầu xin được chết lành sao? Ngài nhìn bóng mình trên tường nhà giam. Ngài có điên không khi cho rằng mình đủ sức để ở lại trong khi những người khác đều trốn thoát. “ Tôi là thằng ngu, vô dụng. Tôi thật không đáng sống trên đời”. Cha mẹ ngài đã chết, rồi ngài cũng thế không để lại chút ký ức gì. Rồi,ngài có đáng xuống hoả ngục không? Nước mắt chảy trên mặt ngài; lúc đó ngài không sợ bị kết án,ngay cả cái sợ đau thể xác cũng lùi lại phía sau. Ngài chỉ thấy vô cùng thất vọng khi phải ra trình diện trước mặt Chúa hai bàn tay trắng,vì ngài đã không làm được gì cả. Lúc đó ngài cảm thấy trở thành thánh thật đơn giản. Chỉ cần một chút tự chủ, một chút can đảm. Ngài còn có cảm giác của một người đã để cho hạnh phúc vuột mất ở nơi nào đó vì đến trễ vài phút. Ngài biết lúc nầy chỉ có một điều duy nhất quan trọng: thành thánh.