Số lần đọc/download: 2654 / 64
Cập nhật: 2024-10-26 21:05:44 +0700
Chương 9: Chữa Vạn Người, Riêng Mình Khó Chữa
A
Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.
Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.
Thần Nông sơn nằm giữa Trung Nguyên, phong cảnh đẹp đẽ, khí thế hào hùng, cả thảy gồm chín núi hai sông hai mươi tám đỉnh, phía Bắc thông với đầu mối giao thông Trạch Châu, phía Nam trông ra bình nguyên Yên Xuyên phì nhiêu, Đông có tấm bình phong thiên nhiên Nguyệt Hà che chắn, Tây là Chỉ Ấp, đô thành phồn hoa nhất thiên hạ. Trông thấy Thần Nông sơn, người ta mới hiểu thế nào là khí thế vương giả, thế nào là Trung Nguyên trù phú, cũng như biết nguyên nhân vì sao Thần Nông tộc lại đông đúc nhất trong Tam đại Thần tộc.
Lúc A Hành mơ màng tỉnh lại, nàng đã thấy mình ở dưới Thần Nông sơn. A Hành nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Liệt Dương và A Tệ, ngỡ ngàng, “Ngươi, ngươi… ta, sao ta lại ở đây? Vân Tang tỷ tỷ đâu rồi?”
Xi Vưu sáp lại bên nàng cợt nhả: “Vợ yêu, thì ra cô lấy mạng đổi mạng để cứu ta à?”
“Nói bậy! Thứ chuyên rước vạ vào thân như ngươi, ta chỉ mong chết sớm đi cho đỡ chật đất!”
Nghe thấy vậy Xi Vưu liền vạch tay nàng ra chỉ vết thương còn chưa khép miệng, “Chỉ cần được Vân Tang đưa lên núi, nhất định Viêm Đế sẽ cứu cô, nhưng thuốc giải chỉ có một, nếu cô lén đổi thuốc để Liệt Dương mang tới cho ta thì bản thân cô phải tính sao?
Bị vạch trần mọi toan tính, A Hành thẹn quá hóa giận bèn vùng khỏi tay Xi Vưu, “Ngươi đừng tưởng bở, dù có mười Xi Vưu chết đi ta vẫn sống phây phây!”
Xi Vưu cười tít mắt tiếp: “Vậy mới phải! Về sau cô tuyệt đối đừng ngốc như thế nữa, chỉ cần lúc ta còn sống, cô đối tốt với ta là được. Một khi ta chết rồi, cứ việc quăng xác ta vào núi cho dã thú tới chén sạch, như thể ta chưa từng tồn tại trên đời, cô cũng nên quên luôn đi mà vui vẻ sống tiếp cuộc đời mình.”
Tuy Xi Vưu tỏ vẻ cợt nhả nhưng lời nói ra lại rất nghiêm túc, thật chẳng hiểu rốt cuộc hắn đã phải trải qua những gì, mới có thể nhìn thấy sinh tử như vậy nữa. Nghe hắn nói, A Hành tái mặt, “Đừng nói vớ vẩn, tuy chúng ta được uống máu A Tệ nhưng cũng chẳng cầm cự được lâu đâu, không hiểu trấn giữ Thần Nông sơn là kẻ nào nữa, chúng ta phải mau nghĩ cách gặp Viêm Đế đi.”
Xi Vưu đáp: “Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ.”
Chúc Dung được tôn xưng là đệ nhất cao thủ Thần Nông tộc, Cộng Công được gọi là Thủy thần, Hậu Thổ là anh tài mới nổi mấy năm gần đây, thanh danh trong thần tộc chẳng kém gì Xi Vưu. A Hành sầm mặt, “Vậy đâu phải là trấn giữ Thần Nông sơn? Rõ ràng là có mưu đồ khác mà. Rốt cuộc kẻ nào đã hạ độc hại người? Có bạn bè nào tin cậy được để tìm cách đưa tin cho Viêm Đế không?”
Ánh mắt Xi Vưu lóe lên vẻ tàn độc, lạnh lùng đáp: “Lòng người khó lường, đến lúc sống chết trước mắt, trừ bản thân ra chẳng thể tin ai cả!”
Bộ dạng đa nghi thận trọng hiện giờ của Xi Vưu khác hẳn giáng vẻ cười cợt nói năng xem nhẹ sống chết vừa nãy, đột nhiên A Hành nảy dạ tò mò về quá khứ của hắn, chẳng rõ hắn đã trải qua những chuyện gì mới tạo nên tính cách phức tạp thế này?
Thấy Xi Vưu trầm tư nhìn về phía Thần Nông sơn như thể nghĩ cách đối phó, A Hành lòng dạ ngổn ngang, bất chấp hậu quả bị phụ vương cùng Đại ca hay biết, nhanh nhảu lên tiếng, “Ta sẽ lấy danh nghĩa vương cơ Hiên Viên xin gặp Viêm Đế.”
Xi Vưu vội giữ nàng lại, “Ta không đồng ý! Tây Lăng Hành!”
Hắn giơ tay vuốt ve Trụ Nhan hoa trên tóc nàng, “Đào là tinh hoa của năm loài cây, ngọc là linh hồn của đá, Trụ Nhan hoa là kỳ bảo do mộc linh của cây đào cùng ngọc linh trên Ngọc sơn hội tụ mười mấy vạn năm mới ngưng tụ thành, ý nghĩa thật sự của hai chữ “trụ nhan” chính là giữ lại cho cô bất kỳ dung mạo nào mà cô muốn, chứ không chỉ đơn giản là trẻ mãi không già đâu. Nghĩ xem mình thích biến thành hình dạng thế nào, một lúc sau, cô sẽ biến thành thế ấy, tới chừng đó, cô chẳng thể nhận mình là Hiên Viên Bạt được nữa rồi.”
Chẳng để A Hành kịp hiểu ý mình, hắn đã cười hì hì quay sang bảo Liệt Dương: “Mày ở Ngọc Sơn bao nhiêu năm như thế hẳn linh lực đã tăng cao, này, nhìn thấy tòa thành kia không? Mau qua đó luyện tập Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đi, thấy thứ gì gai mắt cứ việc cho nó một mồi lửa.”
Liệt Dương trước giờ chỉ sợ thiên hạ không loạn, vừa nghe nói liền phấn chấn tinh thần dang cánh bay đi ngay, A Hành không sao ngăn lại được, bèn hoảng hốt quay sang túm lấy Xi Vưu: “Đó là thủ phủ của Thần Nông tộc mà! Ngươi điên rồi sao, sao lại sai Liệt Dương phóng hỏa đốt thành?”
Xi Vưu ngỡ ngàng đáp: “Ta đâu có phóng hỏa đốt thủ phủ Hiên Viên tộc, cô lo cái gì?”
“Ta lo cái gì ư? Đó là kinh đô một nước đấy! Nếu người ta biết được ta là chủ của Liệt Dương, Thần Nông tộc sẽ lập tức phát binh đánh dẹp Hiên Viên tộc ngay!”
Nói đến đây A Hành đã thấy cửa Đông thành Chỉ Ấp cháy phừng phừng, nàng chỉ biết ôm mặt lẩm bẩm: “Đáng lẽ ta không nên dây dưa với kẻ điên rồ như ngươi, sao ta lại mau quên thế nhỉ?”
Xi Vưu lạnh lùng nhìn Chỉ Ấp từ từ biến thành biển lửa rồi ngẩng lên trời, thấy Chúc Dung cưỡi tọa kỵ Tất Phương điểu đang vội vã bay về phía Chỉ Ấp. Tuy Chúc Dung được xưng tụng là Hỏa thần nắm giữ tất cả lửa trong thiên hạ nhưng Xi Vưu biết hắn còn thiếu Phượng Hoàng huyền hỏa, tiếc rằng Phượng Hoàng là giống chim lành, lại là vua của muôn chim nên Chúc Dung không dám nảy lòng tham, nào ngờ hôm nay lại có Phượng Hoàng huyền hỏa từ trên trời rơi xuống, nhất định hắn sẽ rời khỏi Thần Nông sơn đuổi theo.
Xi Vưu vỗ về A Tệ ra ý bảo nó chở hai người lên đỉnh Tử Kim cao nhất Thần Nông sơn.
Thấy vậy A Hành chẳng buồn nổi giận nữa, chỉ xoa xoa má căng thẳng hỏi: “Lỡ như gặp phải thần tiên linh lực cao cường hơn mình nhiều, liệu ta có bị phát hiện không?”
“Cô đâu có dựa vào linh lực để biến hình, dù tu vi bọn họ có cao thế nào đi nữa cũng không bì nổi với thiên địa tạo hóa đâu, chỉ cần cô cẩn thận thì chẳng ai nhận ra được cả.”
A Hành nghe vậy liên thở phào nhẹ nhõm, rồi lại hồi hộp hỏi tiếp: “Xung quanh đều có binh lính canh gác, rốt cuộc ngươi định làm gì đây?”
Xi Vưu danh tay cười đáp: “Sợ rồi à? Vợ yêu, ta lúc nào cũng dang rộng vòng tay che chở cho cô mà.”
A Hành hít một hơi thật sâu, cố nhịn không cho hắn một đá.
Thị vệ từ hai bên sườn núi ló ra, cao giọng: “Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, xin quý khách về cho!”
Xi Vưu lệnh cho A Tệ đỗ xuống sơn cốc, trong khi A Hành cẩn thận đề phòng, hắn ngồi xổm xuống bên A Tệ, khẽ hỏi: “Mày thích A Hành lắm ư?”
A Tệ nghe hỏi liền vẫy đuôi thật lực, nhếch mép cười hớn hở rồi ngả đầu vào người A Hành. Đang lúc căng thẳng, A Hành chẳng để ý gì đến nó, chỉ thì thào với Xi Vưu: “Chúng ta bị bao vây rồi.”
Xi Vưu phớt lờ nàng, cứ vuốt ve A Tệ hỏi, “Nhưng sau này A Hành sẽ lấy chồng, chồng nàng chưa chắc đã thích mày, nói không chừng còn ghét mày nữa đấy.”
A Tệ nghe xong bèn đờ cả mặt ra, cặp mắt tròn xoe trợn trừng, đuôi dựng đứng, hai bên mép đang nhếch từ từ hạ xuống.
Xi Vưu lại bồi thêm: “A Hành lấy chồng rồi sẽ sinh con, đến lúc đó nàng ta yêu thương con mình, nhất định sẽ bỏ rơi mày. Mày còn nhớ chuyện cha dượng mà ta kể dọc đường lên Hiên Viên sơn không? Mấy gã cha dượng đó đều sẽ tìm trăm phương ngàn kế tống khứ đứa nhỏ trước mặt mình đi!”
A Tệ run lên bần bật, cụp ngay đuôi lại, hai bên mép bắt đầu trễ xuống, nước mắt ngân ngấn.
A Hành đang căng thẳng nghe thấy vậy liền nối giận, “Ngươi kể cho nó chuyện cha dượng bạc đãi trẻ con làm gì?” Nói rồi nàng vội vỗ về A Tệ, “Mày đừng nghe tên vô lại ấy nói bậy, hắn cố ý dọa mày đó.”
Xi Vưu vẫn chăm chú nhìn A Tệ, nghiêm túc nói tiếp: “Mày nghĩ mà xem, đến lúc đó A Hành có con của mình, không cần mày nữa, Liệt Dương cũng không cần mày nữa, tội nghiệp quá!”
Nghe Xi Vưu nói, A Tệ òa lên khóc nức nở. Từ lúc sinh ra nó đã coi A Hành như mẹ, cho rằng mình sẽ mãi mãi ở bên nàng nên hết sức yên tâm, về sau có thêm Liệt Dương ngày ngày vui đùa cùng nhau, lại càng vô tư vô lự, mãi đến giờ nó mới nhận ra tất cả mọi thứ mình có đều có thể biến mất trong nháy mắt, lần đầu tiên, A Tệ hiểu thế nào là “mất mát”.
A Hành lấy làm lạ trừng mắt nhìn Xi Vưu, “Bây giờ là lúc nào rồi hả? Ngươi còn rảnh rỗi đi bắt nạt trẻ con nữa, đúng là điên!”
Nàng dịu giọng dỗ dành A Tệ, nhưng cứ nghĩ tới có ngày mất đi một A Hành yêu thương mình nhường này, A Tệ lại càng thêm buồn bã, càng lúc càng khóc lóc thảm thiết hơn, hệt như cái ngày đau khổ đó đã đến vậy.
Sơn cốc mà Xi Vưu quyết định đỗ lại được gọi là Hồi Âm cốc, nằm trên con đường bắt buộc phải đi qua để lên đỉnh Tử Kim, thị vệ canh giữ nơi này đều được tuyển chọn kỹ càng trong đám anh tài tinh nhuệ của Thần tộc.
Hồi Âm cốc có địa thế đặc thù, chỉ cầm một thanh âm nhỏ cũng có thể bị khuếch đại lên thành tiếng vọng lan đi, Viêm Đế đời đó đã lợi dụng địa thế thiên nhiên này, bố trí thị vệ ở các nơi đặc biệt của vách âm, hễ có người nào lẻn vào, đám thị vệ sẽ chú ý ngay, bởi vậy hơn vạn năm nay chưa một ai dám liều mạng đi qua Hồi Âm cốc.
Nhờ hiệu ứng tiếng vọng ở đây, tiếng nức nở của A Tệ được khuếch đại lên như thể có cả trăm A Tệ đang than khóc, tiếng khóc bi ai ầm ầm lan đi như sấm động ngày xuân. Tiếng kêu của hồ ly có thể mê hoặc lòng người, tệ tệ lại là loài có tiếng kêu êm tai nhất trong Hồ tộc, A Tệ ăn đào tiên, uống ngọc tủy, linh khí dồi dào, lúc này tiếng khóc than cất lên từ đáy lòng nó quả khiên nước non ảm đạm, cây cối ủ ê, cả đất trời cũng phải đổi sắc.
Đám thị vệ đang bao vây hai người không kiềm chế nổi trước tiếng khóc của A Tệ, thoạt đầu họ còn vận linh lực chống lại, nhưng ai chẳng có nỗi đau mất mát trong quá khứ, tiếng than khóc của A Tệ khơi gợi lại những nỗi niềm chôn sâu nơi đáy lòng họ, chuyện xưa dồn dập hiện ra, bao nhiêu ly biệt trong đời đan kết lại, đau khổ chất chứa thành sông thành biển, bi thương trào ra không sao nén nổi, cả đám thị vệ đều khóc òa lên.
Khắp Hồi Âm cốc bỗng chốc vang lên khúc ly ca khiến đất trời cũng phải rầu lòng, ngay Hậu Thổ cùng Cộng Công thần lực cao cường cũng không dám manh động, đành chia nhau ra mỗi người giữ lấy một đỉnh núi, trừng mắt nhìn Xi Vưu.
Xi Vưu ngồi trên tảng đá vẫy tay với Cộng Công và Hậu Thổ, hai người kia chần chừ một thoáng rồi cưỡi tọa kỵ bay xuống trước mặt hắn. Xi Vưu đưa mắt nhìn đám thị vệ đang nức nở xung quanh, cười nói: “Hồi Âm cốc hệt như một trận đồ âm thanh thiên nhiên, các thị vệ lại vô tình vận linh lực khởi động trận pháp, họ càng đau buồn thì càng khóc lóc, càng khóc lóc sẽ càng đau buồn, cứ thế đến khi cạn kiệt tinh huyết mà chết.”
Cộng Công và Hậu Thổ tái mặt, hơn trăm thị vệ này là lực lượng tinh nhuệ bảo vệ Thần Nông sơn, nếu mất bọn họ thì hậu quả thật khó lường.
Cộng Công đành thi lễ với Xi Vưu, “Chức trách của chúng ta là phụng mệnh canh giữ Thần Nông sơn, mong ngươi nể tình nhẹ tay cho.”
Xi Vưu nói, “Ta muốn gặp Viêm Đế.”
Cộng Công bối rối đáp, “Chuyện này ta phải xin ý kiến Chúc Dung đại nhân đã.”
Xi Vưu cười, “Đáng lẽ Chúc Dung phải giao cho ngươi toàn quyền phụ trách mọi chuyện trên Thần Nông sơn rồi chứ, nếu ngươi muốn xin ý kiến thì cứ đi đi, dù sao ta cũng chẳng hề hấn gì, muốn đợi bao lâu thì đợi, nhưng những thị vệ này liệu có đợi nổi không? Lẽ nào ngươi định trơ mắt nhìn bọn họ khóc đến chết ư?”
Cộng Công phân vân không sao quyết định, bèn nhìn sang Hậu Thổ, Hậu Thổ trông thanh tú như nữ tử, lời lẽ cũng vô cùng nhã nhặn, “Mọi việc xin nghe theo Cộng Công sắp xếp.” Ngừng một lát, gã lại nói thêm, “Viêm Đế đã dặn không gặp ai cả, nhưng Xi Vưu là đồ đệ duy nhất của ngài kia mà.”
Nhìn đám thị vệ đang khóc than tuyệt vọng xung quanh, Cộng Công đành thở dài bảo Xi Vưu, “Ta chỉ có thể đưa ngươi lên đỉnh Tử Kim xin gặp Viêm Đế, còn hôm nay Viêm Đế có gặp ngươi hay không, ta không đảm bảo được đâu.”
Xi Vưu vội chắp tay cảm tạ, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng!” Nói rồi hắn nắm tai A Tệ thì thào mấy câu, lập tức hai mắt A Tệ sáng lên, tiếng khóc nín bặt. Thấy A Tệ nghiêng đầu nhìn mình, Xi Vưu trang trọng bồi thêm: “Ta bảo đảm đấy!”
Nghe vậy A Tệ liền nhếch mép lên thành một nụ cười vui vẻ, cong cong tựa vành trăng non.
A Hành nắm lấy tai kia của A Tệ buồn bã nói: “Sao mày ngốc thế? Hắn bảo gì mày cũng tin à?”
A Tệ khẽ gừ gừ, dụi đầu vào người A Hành, cái đuôi xù vẫy qua vẫy lại, phẩy cả vào mặt A Hành, hai mắt như cũng cười tít lên thành hai vành trăng nhỏ cong cong.
A Hành chỉ biết lắc đầu ngao ngán.
A Tệ ngưng khóc, mắt xích của trận pháp cũng mất đi, Cộng Công vận linh lực gầm lên mấy tiếng khí thế nuốt chửng sơn hà, âm vang lan đi khắp Hồi Âm cốc, tất cả thị vệ nghe thấy đều giật nảy mình, nín bặt.
Nghe tiếng gầm của Cộng Công, A Hành ngấm ngầm kinh sợ, bắt đầu quan sát viên tướng được đặt ngang với Chúc Dung nhưng lại luôn đứng khuất sau cái bóng của Chúc Dung này, giờ đây nàng mới hiểu nguồn cơn câu nói của Xi Vưu, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng.”
Cộng Công cùng Hậu Thổ đưa Xi Vưu và A Hành lên tới đỉnh Tử Kim, đang định vào cầu kiến thì ông lão râu bạc quét tước trước điện đã ngẩng lên lạnh lùng bảo, “Viêm Đế lệnh cho Cộng Công và Hậu Thổ ở lại, còn Xi Vưu tới đỉnh Tiểu Nguyệt gặp ngài.”
Mặc cho hai người Cộng Công, Hậu Thổ tái mặt, Xi Vưu vội chắp tay từ biệt bọn họ.
.
A Hành thấy đã cách xa khỏi bọn họ mới khẽ lên tiếng hỏi: “Đỉnh Tiểu Nguyệt có gì khác lạ ư?”
Ánh mắt Xi Vưu đầy vẻ trầm tư, “Điểm đặc biệt duy nhất của đỉnh Tiểu Nguyệt…” Đang nói đột nhiên hắn ho lên mấy tiếng, đoạn phun ra một búng máu, tuy nãy giờ chẳng dùng tới chút sức lực nào nhưng để giữ được khí thế trước mặt Cộng Công và Hậu Thổ, hắn đã phải gắng gượng lắm rồi, “Chính là chúng ta chưa một ai đặt chân lên đó.”
A Hành khẽ nói: “Ngươi nghỉ một lát đi đã.”
Xi Vưu cười mệt mỏi, ngả đầu vào vai A Hành, nàng giơ tay định đẩy hắn ra nhưng rồi lại rút tay về, chỉ lặng lẽ ngồi yên cho hắn dựa.
Chẳng bao lâu, hai người đã tới Tiểu Nguyệt đỉnh.
Đó là một ngọn núi bất thường, không có cung điện, không có thị vệ, chẳng có gì hết, duy chỉ có cây cối um tùm. Một chú hươu sao đứng dưới gốc tùng đầu núi nhìn ra, vừa trông thấy hai người, nó liền tác lên mấy tiếng để đón khách.
A Tệ cũng cao hứng hú lên hòa với tiếng tác của hươu sao, trong thoáng chốc dường như cả vùng núi sông đều tươi tắn hẳn.
Chú hươu sao ngẩng cao đầu, tác lên một tiếng thật dài rồi nhảy nhót dẫn đường, như muốn nói: “Các vị, mời theo tôi!”
Hai người bám gót hươu sao men theo con đường nhỏ trong núi, xuyên hoa rẽ liễu mà đi, băng qua khe núi, họ tiến vào một sơn cốc.
Bỗng chốc, ánh lam dập dờn rọi vào mắt khiến ai nấy đều ngỡ như vừa đặt chân lên nền trời xanh biếc.
Cả sơn cốc phủ đầy các loài hoa xanh lam như đỗ quyên, bách hợp, mộc lan, phù dung, tường vi… chẳng hề lẫn chút tạp sắc. Sắc xanh biêng biếc hòa cùng màn sương mịt mù khiến cả sơn cốc toát lên vẻ mờ mờ ảo ảo như một nỗi tương tư đằng đẵng khôn nguôi, tựa hồ Giang Nam mỗi độ đầu xuân, thời tiết chợt ấm chợt lạnh, mưa bụi lất phất bay nhưng bầu trời vẫn xanh thăm thẳm, thậm chí còn điểm xuyết vài tia nằng nhạt, có điều hơi lạnh se se vẫn giăng mắc khắp cảnh vật cũng như trong lòng người.
Phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy ba ngôi mộ trên sườn núi, bình lặng an nghỉ giữa biển xanh hoa biếc.
A Hành không bám theo hươu sao nữa mà trèo lên sườn núi tới trước mấy ngôi mộ, rẽ những nhành hoa sơn trà xanh biếc cao tới thắt lưng ra, thấy trên bia mộ lần lượt đề:
Mộ ái thê Thần Nông Thính Yêu, chồng là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.
Mộ con gái Thần Nông Nữ Oa, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.
Mộ con gái Thần Nông Dao Cơ, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.[1]
Đây là lần đầu A Hành biết được Viêm Đế Thần Nông nếm cả trăm loài cây cỏ tên thật là Thạch Niên. Chạm vào những con chữ trên bia, nàng nhận ra chúng không phải được khắc lên mà được trực tiếp dùng tinh huyết trong tim viết thành, mỗi tấm bia là vô số giọt tinh huyết quý giá kết tụ, người viết đã dùng cả mạng sống của mình để tưởng nhớ kẻ nằm dưới mộ.
Viêm Đế chỉ cưới duy nhất một người vợ. Hơn ngàn năm trước, Viêm Hậu qua đời. Từ đó đến nay, vì đủ thứ mục đích, các tộc dâng lên không biết bao nữ tử xinh đẹp hiền đức nhưng đều bị Viêm Đế từ chối. Người đời đồn đoán rất nhiều lý do, trong đó đáng tin nhất là nếu Viêm Hậu khác được lập lên, ắt một tộc nào đó sẽ tha hồ bành trướng, mà Viêm Đế không muốn phá vỡ thế cân bằng hiện nay giữa các tộc nên đành bỏ trống ngôi Viêm Hậu.
Nhưng lúc này đây, nhìn dòng chữ trên bia mộ, A Hành lại nghĩ thầm: Có lẽ mọi người đều đoán sai cả, Viêm Đế bỏ trống ngôi Viêm Hậu chỉ vì một nguyên nhân rất đơn giản mà thôi.
Không thấy hai người theo sau, hươu sao nghi hoặc tác lên như giục giã. A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.
Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.
Tim A Hành bỗng nhiên đập mạnh, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu rồi tung người nhảy xuống khỏi sườn núi. Thấy vậy Xi Vưu chỉ nhoẻn cười, dịu dàng nhắc nhở: “Cô từ từ thôi kẻo ngã.”
Hươu sao dắt bọn họ băng qua sơn cốc tới một khu đất rộng được phủ kín muôn hồng nghìn tía, mỗi thửa đất ở đây đều trông đủ các loại dược thảo khác nhau.
Một ông lão mặc quần vải thô xắn gấu đang miệt mài cuốc đất, nghe tiếng chân hươu sao, lão mới đứng thẳng dậy, dừng tay, ngoảnh lại cười với họ.
Nhìn ông lão trước mắt dung mạo bình thường, ăn vận giản dị nhưng để ý kỹ lại thấy toát lên khí thế như non xanh nước biếc, thiên địa tự nhiên, A Hành ngấm ngầm kinh hãi, liền hiểu ngay đây chính là Viêm Đế, người đứng đầu Tam Đế.
Viêm Đế lên tiếng, “Thật không ngờ Xi Vưu lại đưa cả khách tới.”
Xi Vưu vào thẳng vấn đề: “Cần thuốc giải, hai liều!” Chưa nói hết câu hắn đã kiệt sức tàn hơi, ngã phịch xuống bờ ruộng, miệng ứa máu đen.
Viêm Đế đưa cho Xi Vưu một viên thuốc giải, “Thứ độc này chỉ có một liều nên cũng chỉ chuẩn bị một liều thuốc giải thôi.” Nói rồi ông quay sang bảo A Hành: “Tiểu cô nương, để ta khám cho cô nào.”
A Hành đưa tay ra, Viêm Đế vừa xem mạch đã cười hỏi: “Sao cô lại dẫn chất độc vào người mình?”
A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu, trả lời: “Không phải nguyên nhân như ngài nghĩ đâu, chỉ vì hắn còn nợ tôi thôi.”
Thấy Xi Vưu bẻ đôi viên thuốc trong tay, nuốt một nửa còn một nửa đưa cho A Hành, Viêm Đế nói: “Dù ngươi có dị bẩm trời sinh nhưng gắng gượng được đến giờ đã là cực hạn rồi, mau uống hết thuốc giải của mình đi.”
Xi Vưu không đếm xỉa gì tới Viêm Đế, chỉ chăm chú nhìn A Hành.
Thấy vậy mắt Viêm Đế thoáng vẻ ngạc nhiên, bèn quay sang nhìn kỹ A Hành, “Chất độc trong người tiểu cô nương tạm thời không sao, ta sẽ phối chế thuốc giải cho cô ngay.”
Xi Vưu nghĩ đi nghĩ lại rồi bỏ nốt nửa viên thuốc giải kia vào miệng.
Một chú chim đỏ rực đầu xuống vai Viêm Đế, Viêm Đế gỡ tấm thẻ ngọc khỏi chân nó, đọc xong ông gượng cười hỏi: “Ngươi phóng hỏa đốt Chỉ Ấp ư?”
Xi Vưu nhắm mắt không đáp, hai tay sục sâu vào lòng đất, sắc mặt hắn từ từ khá lên, trong khi đó, mặt đất cùng hết thảy kì hoa dị thảo trông trên núi đều nhợt nhạt hẳn đi, như thể Xi Vưu đã hấp thụ hết sức sống của cả vùng đất này.
Thấy A Hành tròn mắt nhìn đầy kinh hãi, Viêm Đế giải thích: “Hắn tự ngộ được đạo trời, công pháp đi theo một con đường riêng, chúng ta không hiểu được đâu.”
A Hành lúng túng hỏi thêm: “Con lang điểu đó bị bắt rồi ư?”
Viêm Đế vuốt ve con chim đỏ rực trên vai, nó liền sải cánh bay đi, “Ta đã truyền lệnh sai Du Võng trông nom nó rồi, không để Chúc Dung động tới nó đâu.”
Nghe vậy A Hành mới nhẹ lòng, “Đa tạ ngài.”
Viêm Đế thở dài: “Chúc Dung ghét cay ghét đắng Xi Vưu, nếu hắn có mặt, nhất định Xi Vưu không thể lên núi thuận lợi như vậy, có điều hắn vừa nảy lòng tham đã bị Xi Vưu lợi dụng ngay.”
A Hành càng lúc càng bối rối, lẽ nào không phải kẻ hạ độc cố ngăn trở Xi Vưu gặp Viêm Đế ư? Sao nghe như thể Viêm Đế cố ý sai người trấn giữ Thần Nông sơn thế nhỉ?
“Khi nào ông mới chịu chế thuốc giải cho A Hành đây?” Xi Vưu đứng trước mặt hai người, ánh mắt sáng rực, hiển nhiên vết thương đã bắt đầu lành.
Viêm Đế quay lưng đi về phía căn nhà trúc, “Mai mới chế được thuốc giải, hôm nay hai ngươi ở lại đây đi.”
A Hành cùng Xi Vưu nối gót Viêm Đế bước vào căn nhà trúc, Xi Vưu bó gối ngồi xuống bên cửa sổ, Viêm Đế lấy bộ đồ trà ra pha, nhưng A Hành không nỡ để ông làm, bèn giành lấy, “Để tôi, lúc ở nhà tôi thường pha trà cho mẹ.”
Viêm Đế gật đầu cười, đưa cây quạt hương bồ cho A Hành rồi ngồi xuống đối diện với Xi Vưu, trầm ngâm không nói.
Đột nhiên Xi Vưu lên tiếng: “Ta nghi ngờ Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ, thậm chí nghi ngờ cả Du Võng và Vân Tang nhưng vẫn một mực tin rằng ông không biết gì cả. Mãi đến khi tới Thần Nông sơn ta mới phát hiện ra, kẻ có khả năng hạ độc nhất chính là ông, chỉ Thần Nông thị nến trăm loại thảo dược, am hiểu dược tính mới có thể chế được độc chất lợi hại thế này. Tại sao vậy? Sư phụ!”
Tiếng “sư phụ” của Xi Vưu gọi nghe lạnh buốt, khiến cả căn phòng tựa hồ đông cứng lại. A Hành nín thở lén liếc Xi Vưu nhưng hắn đã ngoảnh ra cửa sổ, không sao thấy được sắc mặt.
Viêm Đế im lặng nhìn Xi Vưu, nhất thời không khí trong phòng yên tĩnh đến nghẹt thở.
Tiếng nước sôi sùng sục phá vỡ bầu không khí nặng nề, A Hành lóng ngóng pha trà rồi hấp tấp bưng lên bàn, đoạn kiếm cớ tránh đi, “Tôi ra ngoài xem hươu sao và A Tệ đang làm gì.”
Nào ngờ Xi Vưu bỗng ấn nàng ngồi xuống bên cạnh, “Cô có quyền được biết nguyên nhân mình trúng độc.” Cặp mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm Viêm Đế đầy khiêu khích, “Sư phụ, ông đã muốn giết ta, sao còn thu nhận ta?”
Viêm Đế mỉm cười quay sang hỏi A Hành: “Cô có biết Xi Vưu trở thành đồ đệ duy nhất của ta thế nào không?”
A Hành lắc đầu.
Viêm Đế bưng tách trà lên, ngoảnh nhỉn ra cửa sổ, “Mấy trăm năm trước, trong một buổi chầu, quan viên quản lý sự vụ Tây Nam tấu rằng đám tiện dân Cửu Di đã làm phản, còn giết hại mấy trăm quan viên Nhân tộc cùng một quan viên Thần tộc, lúc đó ta đang rối bời vì bệnh tình của Dao Cơ, bèn sai Du Võng lo liệu việc này. Hơn trăm năm sau, Chúc Dung dâng sớ vạch tội Du Võng, thì ra mối họa Cửu Di bắt nguồn từ một con yêu thú không rõ lai lịch, tự ngộ được đạo trời, có khả năng hiệu lệnh muông thú nên được tộc Cửu Di tôn xưng làm Thú vương, nhưng thực ra, nó còn hung tàn ác độc hơn hổ báo. Du Võng thương xót đám tiện dân Cửu Di, không nỡ xuống tay giết hại nó, có điều con yêu thú ấy ngu xuẩn hồ đồ, đã đả thương mười mấy đại tướng của ta. Vì chuyện này mà Du Võng cùng Chúc Dung xung đột liên miên, không sao dàn xếp nổi, ta tra rõ sát nghiệp yêu thú phạm phải rồi khiển trách Du Võng, đồng thời chấp nhận cho Chúc Dung đi tiêu diệt Thú vương của Cửu Di.”
A Hành sớm đã đoán ra con dã thú ấy chính là Xi Vưu, tuy chuyện đã qua lâu nhưng tưởng tượng vẫn thấy kinh hồn bạt vía, Xi Vưu từng bị đám cao thủ Thần tộc truy sát cả trăm năm nay, hèn chi lúc hắn lẩn trốn, đến Đại ca thần lực cao cường cũng tìm không nổi.
Viêm Đế nhấp ngụm trà, ngừng một lát mới kể tiếp: “Ta cứ ngỡ rằng thế là xong, nào ngờ một đêm Du Võng đột ngột cầu kiến, nói Cửu Di tộc đã đầu hàng, cam nguyện đời đời kiếp kiếp làm tiện dân, chỉ đưa ra một điều kiện duy nhất là xin tha cho Thú vương của họ. Du Võng vật nài ta triệu Chúc Dung về khiến ta không khỏi nảy dạ tò mò với con dã thú ấy, ngay đêm đó bèn tới Cửu Di. Lúc ta tìm thấy họ trong đầm lầy, tình cảnh bấy giờ vừa nguy hiểm vừa tức cười, dã thú tự đem thân làm mồi, nhử gã Chúc Dung kiêu căng nôn nóng vào vùng đầm lầy thi độc, độc trùng trong đó muôn hình vạn trạng, mấy thần tướng thảy đều trúng độc, còn Chúc Dung rõ ràng có thể phóng một mồi lửa thiêu chết con yêu thú đó, nhưng một khi phát hỏa sẽ làm nổ tung khí ứ tích tụ trong đầm lầy mấy vạn năm nay, dù hắn có hỏa linh hộ thể, quá lắm cũng chỉ bị thương nhẹ nhưng các thần tướng kia thì chết chắc. Bấy giờ Chúc Dung chửi bới ầm ĩ, quyết lột da xẻ thịt dã thú, dã thú cũng chưa sõi tiếng người, chỉ nghiến răng nghiến lợi gầm gừ đồng thời vỗ ngực liên tục, như thế nói, tới đây, tới đây đốt chết ông mày đi!”
Viêm Đế thuật lại rồi bật cười nhìn Xi Vưu, đoạn quay sang bảo A Hành, “Lúc đó ta vô cùng kinh ngạc, dã thú sinh trưởng nơi rừng núi biết cách lợi dụng trùng độc chướng khí cũng chẳng lấy gì làm lạ, chính cái địa điểm nó chọn để cùng chết với kẻ thù hết sức thông minh, đầm lầy vốn là một chỗ kỳ lạ, lẫn lộn cả đất và nước, cả hai đều có thể khắc chế hỏa linh, thêm vào đó nơi này nồng đặc khí ứ, chỉ cần một đốm lửa là nổ tung, Chúc Dung rơi vào đây chắc chắn sẽ mất hết khả năng khống chế mọi thứ. Xem ra con dã thú nói không sõi tiếng người này còn nắm vững cách vận dụng thiên thời địa lời hơn nhiều cao thủ Thần tộc.”
Nghĩ tới trận pháp tiếng vọng khi nãy, A Hành cũng gật đầu tán đồng, Viêm Đế lại kể tiếp: “Ta nhận ra con dã thú đó vốn không phải thú mà là một kẻ không cha không mẹ được muông thú nuôi lớn, bèn lệnh cho Chúc Dung im miệng rồi từ từ bắt quen với nó, mặc cho nó đối với ta đầy thù địch, vừa ra vẻ lắng nghe ta nói lại vừa xảo trá điều khiển độc trùng độc thú đánh lén ta, thăm dò nhược điểm của ta, tiếc rằng nó không biết ta thông thạo dược tính, mấy thứ độc đó vốn không thể làm hại ta được. Càng quan sát ta càng kinh ngạc trước thiên tư của nó, đồng thời cũng càng thêm sợ hãi, thiên tư cao như thế, lại hung tàn hiếu sát như thế, phút chốc ta vừa mừng rỡ vì tìm ra một kẻ có tư chất trời sinh, vừa cảm thấy nên giết hắn ngay lập tức.”
Rõ ràng đây cũng là lần đầu Xi Vưu biết được sự sống chết của mình chỉ phụ thuộc vào một ý nghĩ của Viêm Đế, hắn ngoảnh lại nhìn Viêm Đế vẻ thờ ơ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì.
“Giữa lúc đương phân vân chưa quyết, bỗng một đóa hoa rụng từ đâu bay lại, con khỉ hung tàn xảo trá đó liền bắt ngay lấy ngắm nghía thật kỹ, bốn bề xung quanh đều bẩn thỉu hôi hám, dường như nó sợ làm bẩn đóa hoa nên đã cẩn thận cài luôn lên đầu. Trông đầu nó lông tóc bù xù lại cài một đóa hoa dại, bộ dạng rất tức cười, còn trợn trừng hai mắt nhìn ta, ta nhịn không được cười phá lên, cũng chẳng định giết nó nữa, bèn lệnh cho bọn Chúc Dung lui cả ra, để lại mình ta với nó trong đầm lầy suốt mười ngày mười đêm, cuối cùng cũng giành được lòng tin của nó, đưa nó rời khỏi đó. Ban đầu ta ra điều kiện rằng sẽ chữa khỏi vết thương và cái chân cho nó, đổi lại nó phải theo ta về Thần Nông sơn, nhưng bị nó từ chối. Dần dà ta nhận ra tuy nó bạo ngược nhưng cũng rất ngây thơ, cách duy nhất để kết bạn với nó là phải thật lòng đối đãi, bèn nói thẳng ra rằng ta thấy nó thông minh đĩnh ngộ, đánh bầy cũng muông thú thì thật đáng tiếc nên muốn nó trở thành một người như ta đây, nghe vậy, nó liền đồng ý tới Thần Nông sơn.”
Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, ánh mắt trong trẻo sáng rõ tựa vầng trăng trong vắt đêm xuân, lại như đóa hoa dại đơn sơ bên khe núi, khiến A Hành vừa hoang mang vừa bối rối, vội ngoảnh đi tránh ánh nhìn của hắn, “Con dã thú đó sau này đã trở thành đồ đệ của ngài, mang tên ‘Xi Vưu’?”
Viêm Đế gượng cười: “Sau khi về Thần Nông sơn, ta cũng mất bao công sức mới thuyết phục được hắn chịu làm đồ đệ đấy. Thoạt đầu phải giải thích mãi cho hắn hiểu sư phụ và đồ đệ nghĩa là gì, hiểu được rồi hắn liền lắc đầu quầy quậy, cho rằng mình bị thiệt, ta đành hứa sẽ xóa bỏ tiện danh Cửu Di, ban tên mới là Cửu Lê, lại đem trứng cá côn ở Bắc Minh ra trao đổi, nói với hắn chỉ cần ấp cho trứng nở thì tương lai có thể bay lên trời, hắn mới chịu miễn cưỡng nhận lời.”
A Hành rất hiểu nụ cười gượng gạo của Viêm Đế, e rằng tất cả thiếu niên trong thiên hạ đều mơ được làm đồ đệ Viêm Đế, vậy mà để thu nhận gã Xi Vưu này, Viêm Đế lại phải vừa lừa vừa nhử.
Viêm Đế nhìn tên đồ đệ của mình, ánh mắt vô cùng phức tạp, “Thiên tư của ngươi vượt xa người thường, ngày tiến ngàn dặm khiến ta vừa mừng vừa sợ. Từ khi quyết định nhận ngươi làm đồ đệ, trong lòng ta đã coi ngươi là người thân nhất, cũng giống như Vân Tang, Du Võng, Mộc Cận vậy, ta vui mừng theo từng bước tiến bộ của ngươi, nhưng ta vẫn là vua một nước, thân làm Viêm Đế, ta không thể không e sợ ngươi. Ta sợ rằng một ngày nào đó, Chúc Dung hay ai đó kích động khiến cuồng tính của ngươi phát tác, ngươi sẽ đem hết sở học của mình ra đối phó với trăm họ Thần Nông nên đành phải hạ độc ngươi.” Dẫu Chúc Dung nóng nảy tham lam thế nào, Hậu Thổ ẩn nhẫn âm trầm ra sao cũng vẫn còn nhược điểm và ràng buộc, chỉ có Xi Vưu không cha không mẹ, không gì níu kéo, tính tình lại cuồng vọng bất kham, trời không ràng đất không buộc nổi mà thôi.
Xi Vưu sốt ruột cất tiếng, “Thôi được rồi, ta không muốn nghe ông dông dài, cũng chẳng buồn tính sổ chuyện ông hạ độc đâu, ông mau giải độc cho A Hành đi, ta mãi mãi không quay lại nữa là xong chứ gì.”
Viêm Đế cười nhìn Xi Vưu, nét mặt thoáng vẻ hiền hòa, “Một trăm tám mươi năm trước ngươi nổi giận rời khỏi Thần Nông sơn, ta đã ngỡ rằng ngươi chẳng bao giờ hồi tâm chuyển ý nữa, vậy mà nửa đêm Du Võng lại đuổi theo kéo ngươi về. Khi đó ta biết mình đã nhìn lầm ngươi, nhưng chần chừ trong phút chốc, cuối cùng vẫn không giải độc cho ngươi. Ta vốn định đợi ngươi dự tiệc Bàn Đào trở về. Lệnh cho bọn Chúc Dung trấn giữ Thần Nông sơn, cấm tất cả mọi người lên núi, không phải là để ngăn trở ngươi mà bởi ta đã bị trúng độc, sắp chết tới nơi rồi.” Câu nói sau cùng của Viêm Đế quá kỳ quái, khiến người ta còn tưởng mình nghe lầm, nhưng Viêm Đế lại lặp lại rành rọt, “Xi Vưu, ta đã trúng độc, chẳng sống được bao lâu nữa đâu.”
Xi Vưu vội nắm lấy cổ tay Viêm Đế, Viêm Đế không hề phòng bị, mặc cho hắn khống chế mệnh môn, “Hiên Viên có Thanh Dương, Cao Tân có Thiếu Hạo, còn Thần Nông lại chẳng có kẻ kế nhiệm nào đủ sức đảm đương cả, Du Võng tâm địa thiện lương nhưng năng lực tầm thường, Chúc Dung quá tham lam tàn nhẫn, dã tâm còn cao hơn năng lực, Cộng Công lại cứng nhắc câu nệ hết sức, không biết biến báo, Hậu Thổ tuy có tài, có thể bồi dưỡng được nhưng bề ngoài hiền hòa khiêm tốn mà tâm địa gian trá, nhẫn nhục dè dặt quá mức, đám vô lại không có tiền đồ đó chẳng ai chịu ai, e rằng ta vừa nằm xuống chúng đã đấu đá tranh đoạt lẫn nhau đến long trời lở đất, Du Võng chẳng trấn áp nổi đâu.”
Viêm Đế không nguôi trăn trở, “Hiên Viên Hoàng Đế đã sẵn sàng gươm giáo, nhẫn nhịn cả ngàn năm rồi, giờ đây tin ta chết sẽ thay ông ta rúc hồi kèn giục đại quân Đông tiến. Cao Tân và Thần Nông lại đấu đá suốt mấy vạn năm nay, giữa lúc then chốt để Tuấn Đế hiện thời kế vị, phụ vương ta đã phái mười vạn đại quân áp sát, nếu không có Thiếu Hạo ra sức ngăn cản e rằng Tuấn Đế đã thành đống xương khô từ lâu, thù này há có thể bỏ qua sao?”
Giữa đôi mày Viêm Đế trùng trùng những lo âu, hệt như từng trái từng trái núi sắp đổ sụp xuống khiến A Hành trông mà lạnh toát cả người, tim đập thình thịnh, tựa hồ đã thấy thiên quân vạn mã đang sầm sập kéo đến, vậy mà Xi Vưu dường như chẳng để những lời đó vào tai, chỉ chăm chú dùng linh lực tra xét thân thể Viêm Đế.
Giọng Viêm Đế đượm vẻ bất lực mà thê lương, “Sự yên ổn hòa bình mấy vạn năm nay trên đại hoang kết thúc tới nơi rồi, chúng sinh thiên hạ lại sắp rơi vào vòng chiến loạn liên miên không dứt.”
Thấy Xi Vưu lặng lẽ buông tay ra, Viêm Đế liền chăm chú nhìn hắn, “Nể tình ta chẳng còn sống được bao lâu, ngươi tha thứ cho lão già này được không?”
Xi Vưu lạnh lùng đáp: “Ông đâu đã chết.” Tuy giọng điệu vẫn đầy vẻ vô tình nhưng hắn không nhắc tới chuyện ra đi nữa.
Viêm Đế cười nói: “Ta định trước khi chết sẽ phong ngươi làm Đốc Quân Đại tướng quân, không chỉ thống lĩnh toàn bộ quân đội Thần Nông quốc mà còn có quyền bác bỏ những quyết định của Viêm Đế. Có điều quân đội Thần Nông chia làm sáu, một phần là tùy tùng của Viêm Đế, chỉ Viêm Đế mới có quyền điều động, còn năm phần kia…” Viêm Đế thở dài, “Trên thực tế, ngươi có điều động nổi toàn bộ quân đội hay không, thì phải trông vào bản lĩnh của ngươi thôi.” Nói rồi Viêm Đế đứng dậy, “Ta đi chế thuốc giải cho A Hành.”
Viêm Đế vừa ra ngoài, A Hành đã tóm chặt lấy tay Xi Vưu lắp bắp hỏi: “Viêm Đế… Viêm Đế nói có… có thật không? Viêm Đế là Thần Nông thị y thuật đứng đầu thiên hạ, sao có thể không chữa được cho mình chứ?”
Xi Vưu thản nhiên nói: “Để trị bệnh cứu người, ông ta phải nghiên cứu dược tính, nếm qua quá nhiều chất độc, nhiều loại thuốc hỗn tạp tích tụ trong cơ thể ông ta, cứ thế bào mòn sức khỏe, hai năm nay, hẳn ông ta lại nếm những loài cây cỏ độc không tên, tuy đã giải trừ chất độc vốn có của chúng, nhưng cỏ độc lại khơi dậy độc tố tích tụ trong người suốt mấy ngàn năm, giờ đây vạn độc cùng phát, chẳng thuốc nào trị nổi.”
“Vậy cũng phải có cách gì chứ?”
Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, khẽ vuốt tóc nàng rồi lặng lẽ lắc đầu.
A Hành đột ngột buông tay Xi Vưu, chạy ra khỏi phòng, nàng ngẩng đầu nhìn trời, ra sức hít vào thật sâu nhưng vẫn thấy tức thở.
Bao năm nay ba nước kết thành thế chân vạc, trăm họ được thái bình yên ổn là nhờ Viêm Đế đức cao vọng trọng, quy tụ được lòng người thiên hạ, dù hùng tài đại lược như phụ vương cũng không dám làm trái ý trời, nhưng nếu Viêm Đế chết đi rồi… A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa.
Trên sườn núi xa xa, ánh tịch dương đã nhuộm vàng những cánh rừng trùng điệp, A Tệ đang nô đùa với hươu sao, một bên rượt một bên chạy, một bên trốn một bên nấp, tiếng kêu vui vẻ vang khắp núi rừng.
A Hành ngơ ngẩn lần theo dấu chân chúng tới sơn cốc xanh biếc thì mất dấu, chẳng rõ A Tệ và hươu sao đã đi đâu.
Nàng ngồi trên triền núi, dõi mắt nhìn về phía trời Tây đỏ rực ráng chiều.
Ánh tịch dương đang từ từ lịm tắt, bây giờ là thời khắc bình yên đẹp đẽ sau cùng.
Nàng tiện tay ngắt hai chiếc lá đặt lên môi làm kèn thổi, tiếng kèn réo rắt truyền đi trong sơn cốc.
Có người lần theo tiếng kèn tới ngồi cách đó không xa, nhưng A Hành chẳng hề để ý, chỉ mê mải thổi kèn.
Thổi hết một khúc, nàng mới ngoảnh lại, nhận ra Viêm Đế đang lặng lẽ ngồi bên mấy nấm mộ.
Gió chiều lồng lộng, cả biển hoa xanh biêng biếc dập dờn lay động như những ngọn sóng nhấp nhô, bóng dáng Viêm Đế cũng lúc mờ lúc tỏ.
A Hành bước tới ngồi xuống bên cạnh Viêm Đế.
Viêm Đế dõi mắt ngắm tà dương, mỉm cười: “Cô hơi giống một người bạn của ta, không phải giống ở dung mạo, mà giống ở một vài cử chỉ.”
A Hành im lặng, mê mải ngắm hoàng hôn.
“Bà ta tên Tây Lăng Luy, tuy bây giờ rất ít người biết cái tên đó, nhưng hơn ba ngàn năm trước, bà ta là nữ tử nổi tiếng nhất đại hoang, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, phụ vương ta từng sai huynh trưởng ta tới cầu hôn.”
A Hành hỏi: “Bà ấy có nhận lời không?”
Viêm Đế lắc đầu: “Không, nếu bà ta nhận lời thì có lẽ huynh trưởng ta đã trở thành Viêm Đế.”
A Hành lại hỏi: “Vậy vợ ngài là người như thế nào?”
Nghe nàng hỏi, Viêm Đế chỉ cười buồn: “Cô thật rất giống bà ta. Rất nhiều năm về trước, A Luy cũng từng hỏi ta câu này, trước bà ấy chưa ai quan tâm tới chuyện đó, sau bà ấy lại chẳng ai dám hỏi chuyện đó nữa, cô là người thứ hai hỏi ta câu này đấy.”
Viêm Đế dịu dàng đặt tay lên mộ vợ, vẻ mặt chan chứa tương tư đằng đẵng, “Ta từ nhỏ linh lực thấp kém, pháp thuật không cao, tướng mạo lại chẳng lấy gì làm xuất chúng nên không được phụ vương xem trọng, các anh em không mấy khi chơi cùng, ta cũng chỉ thích loay hoay trồng hoa trồng cỏ một mình. Ngoài thành Chỉ Ấp có một dòng sông tên Tể Hà, hai bên bờ sông là nơi ở của những người linh lực thấp kém trong Thần tộc, bọn họ không có khả năng làm quan, cũng chẳng hề tòng quân, đành trông vào chút linh lực đó mà buôn bán nhì nhằng để kiếm sống thôi, trong số những người ấy có một cô gái bán hoa rất thích dùng linh lực trồng ra các loài hoa xanh biếc, có mẫu đơn xanh, phù dung xanh, phong tín tử xanh…”
Viêm Đế khẽ vuốt ve đóa sơn trà xanh bên cạnh, “Lần đầu tiên ta gặp nàng là vào một buổi mai ẩm thấp, ta ra bờ sông hái thảo dược còn nàng đi múc nước, trên mình còn vận một chiếc váy dài nền trắng hoa xanh, bên tóc mai còn cài một đóa hoa sơn trà biêng biếc. Lúc đó ngoài bờ sông rất vắng người, hai ta mỗi người đứng ở một bên bờ trông sang nhau, đột nhiên nàng hé miệng cười khiến ta hoảng hốt chẳng dám nhìn lâu, hấp tấp cầm cuốc lên cuốc đất, kết quả cuốc phải chân mình, làm nàng bật cười khúc khích. Ta phải nằm trên giường tĩnh dưỡng suốt một tháng, cũng chẳng hiểu sao vết thương vừa khỏi, ta liền tính toán lựa đúng lúc nàng đi múc nước để ta bờ sông, thoạt đầu mấy tháng một lần, sau dần dà mấy ngày lại ra một lần, sau nữa thì ngày ngày ta đều ra hái thảo dược, nhưng chẳng dám bắt chuyện với nàng. Hồi còn niên thiếu ta vốn rất nhút nhát hướng nội, hễ trông thấy nàng là tim đập chân run, đến nhìn cũng chẳng dám nhìn nhiều, chúng ta cứ thể ở hai bên bờ trông sang nhau mà chẳng trao đổi câu nào cả. Ba năm sau phụ vương lệnh cho ta theo anh trai tới Tây Lăng gia cầu hôn, vì A Luy rất giỏi nuôi tằm, mà ta lại trồng được một gốc dâu bích ngọc, phụ vương cho rằng ta có thể giúp anh lấy lòng A Luy, bèn sai ta đi cùng. Lần cầu hôn đó thất bại thảm hại, anh trai ta bị A Luy xoay cho khóc dở mếu dở, nhưng ta với bà ấy lại thành bạn thân, A Luy còn rủ ta cùng tới đại hoang chơi, đương nhiên ta liền nhận lời ngay, sau này chúng ta quen thêm cả A Mi hát hay múa dẻo, ba người kết thành huynh muội. Trong ba người ta lớn tuổi nhất, nhưng A Luy lại táo tợn nhất, luôn đầu têu nhưng việc ta chẳng bao giờ dám nghĩ đến.”
Viêm Đế lắc đầu cười, vẻ phóng khoáng lồng lộng trên vầng trán rộng, phấn chấn kể tiếp, “Đó là những tháng năm sôi nổi nhất đời ta, đến ta cũng chẳng dám tin mình có thể rượu say gây sự, ẩu đả đánh nhau như thế nữa. Ba người chúng ta còn hẹn ‘sẽ mãi mãi ở bên nhau, mãi mãi vui vẻ như hiện thời’. A Luy cao giọng nói nếu ai vi phạm bà ấy sẽ phạt người đó. Nhưng khi bà ấy gặp gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó, chính bà ấy lại vi phạm đầu tiên. Hôm bà ấy đi, chúng ta cùng ngồi trên triền núi ngắm tà dương như thế này, ta thổi một khúc, A Luy hát còn A Mi múa. Ta chưa thổi hết bài, A Mi cũng chưa múa hết điệu thì A Luy đột ngột nói và ấy phải đi, phải đi tìm gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó. A Mi vô cùng giận dữ, đùng đùng bỏ đi. Ta tiễn A Luy, bà ta hỏi ta đã phải lòng cô nương nào chưa, đã có người mà mình muốn ở bên suốt đời hay chưa, khiến ta sực nhớ tới nữ tử áo xanh bên bờ Tề Hà kia. A Luy nói với ta, ‘Nếu huynh thích nàng thì nên bày tỏ lòng mình ngay đi, lẽ nào huynh không sợ nàng sẽ lấy người khác ư?’ Nghe bà ta nói, ta đột nhiên phát hoảng lên, lập tức quay về, chẳng kịp từ biệt A Mi nữa.”
Tuy biết sau cùng hai người kết thành chồng vợ nhưng A Hành vẫn hồi hộp hỏi, “Ngài có tìm được bà ấy không? Bà ấy vẫn ở bên bờ Tể Hà chứ?”
“Nửa đêm ta về tới bờ sông, chờ mãi đến bình minh mà chẳng gặp được nàng. Đóa hoa xanh biếc bên bờ vẫn bừng nở trong gió nhưng nữ tử cài hoa chẳng biết đã đi đâu. Ta vừa thất vọng vừa buồn bã, ngơ ngẩn ngồi bên sông suốt từ sáng đến tối như kẻ mất hồn, mãi tới khi đêm buông tối mịt, ta ngoảnh lại mới nhận ra nàng đang đứng phía sau, đóa hoa tang xanh biếc cài bên mái tóc, rưng rưng nước mắt nhìn ta. Thấy vậy, ta ngỡ người nhà nàng qua đời, lòng như lửa đốt, quên khuấy mất chúng ta chẳng quen biết gì nhau, thế nên câu đầu tiên ta nói với nàng là ‘cô đừng quá đau buồn, sau này ta sẽ chăm sóc cho cô.’ Nàng nhoẻn cười gỡ đóa hoa tang ném xuống sông, ‘hai mươi năm nay chẳng thấy ngươi xuất hiện, ta cứ tưởng ngươi đã xảy ra chuyện rồi.’ Bấy giờ ta mới hiểu thì ra nàng cài hoa để tang ta.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó dĩ nhiên chúng ta còn phải trải qua rất nhiều sóng gió, phụ vương ta nhất quyết không đồng ý, viện cớ thân phận nàng quá thấp hèn, may có Xích Thủy thị giúp đỡ, ghi tên Thính Yêu vào tộc phả, nhờ đó nàng mới được gả cho ta dưới thân phận Xích Thủy thị.” Viếm Đế mìm cười vuốt ve tấm bia mộ.
“Thính Yêu giống như những đóa hoa dại trên triền núi này vậy, thoạt nhìn yếu ớt mong manh nhưng mưa to gió lớn đến mấy cũng chẳng vùi dập nổi, tiếc rằng chính ta lại hại chết nàng. Thể trạng Thính Yêu không tiện mang thai sinh nở nhưng ta thân làm Viêm Đế, nhất định phải có con nối dõi, thế nên nàng vì ta mà mang thai hết lần này sang lần khác, lúc sinh được Du Võng thì thân thể không chống chọi nổi nữa.” Viêm Đế ngả đầu vào bia mộ vợ, khẽ thì thầm: “Người người đều ca tụng ta y thuật quán tuyệt thiên hạ nhưng ta không cứu nổi nàng, chẳng cứu sống được Nữ Oa, cũng chẳng chữa khỏi cho Dao Cơ, một thầy thuốc vô dụng như ta chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn họ từng người từng người chế đi trước mắt mình, A Luy, muội nói xem liệu Thính Yêu có oán trách ta không?”
A Hành biết tinh thần Viêm Đế đang rối loạn nên mới lầm lẫn giữa mình và mẹ, nàng đành nín thinh không dám lên tiếng, sợ Viêm Đế bị kích động.
Chỉ nghe Viêm Đế lẩm bẩm nói: “A Luy, ta là kẻ ích kỷ vô cùng! Đã biết sau khi ta chết sẽ có rất nhiều người đau khổ nhưng lại thầm mong mình chết cho mau, lúc Dao Cơ chết đi, ta chỉ muốn theo con bé quách cho rồi, có vậy ta mới được đoàn tụ cùng Thính Yêu. Người trong thiên hạ cứ ngỡ Viêm Đế đau buồn thành bệnh chỉ là nói phóng đại, có ai biết từ sau khi Thính Yêu ra đi, ta đã đổ bệnh, bệnh hơn ngàn năm nay rồi.”
Viêm Đế nắm lấy tay A Hành, “Từ khi ta lên làm Viêm Đế, chúng ta chẳng còn thư từ qua lại gì, nhưng lúc Dao Cơ ra đi muội lại gửi thư khuyên ta đừng đau buồn quá độ, phải biết rằng ta không chỉ là chồng của một người phụ nữ, cha của ba đứa con gái mà còn là Viêm Đế của toàn thiên hạ! Điều này sao ta không hiểu chứ? Nếu không hiểu, năm xưa ta sẽ không phản lại lời thề với Thính Yêu trong đêm tân hôn mà lên ngôi kế vị trở thành Viêm Đế, cũng sẽ không thể gắng gượng hết năm này sang năm khác tới tận hôm nay. Nhưng ta mệt lắm rồi, A Luy ạ! Lần này độc phát, ta đã nghĩ: vậy là muội không thể lấy đạo lý ra khuyên nhủ ta được nữa, ta nhất định phải chết rồi! A Luy, ta với muội tình như anh em, nhưng vì ta là Viêm Đế nên muốn gửi một bức thư cũng phải tránh tránh né né, Thính Yêu cũng vì ta là Viêm Đế mà mất sớm. Đời ta từ khi đăng cơ tới nay, tính kỹ lại những ngày vui vẻ chẳng được bao năm, sinh mệnh dài đằng đẵng mà niềm vui lại hiếm hoi, ta mệt lắm rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi mà thôi, ta ích kỷ nên chỉ muốn nghỉ ngơi thôi…”
A Hành ròng ròng nước mắt, khẽ an ủi: “Ngài đừng ngại, cứ nghỉ ngơi đi, ngài đã gắng gượng vì muôn dân Thần Nông bao nhiêu năm nay rồi, chẳng ai nỡ trách ngài ích kỷ đâu.”
Đột nhiên nàng trông thấy Xi Vưu đang chạy như bay tới, người chưa đến mà linh lực đã đến trước, vây quanh bảo vệ cho Viêm Đế, vô số đóa hoa trắng li ti bỗng xuất hiện bao phủ lấy người đứng đầu Thần Nông quốc, linh thức của Viêm Đế cũng theo đó mà từ từ bình ổn, ông ngủ thiếp đi.
Xi Vưu vặn hỏi nàng: “Cô nói gì với ông ta thế? Bây giờ ông ta không chịu được kích động mạnh đâu.”
A Hành buồn rầu đáp: “Ta không nên tò mò hỏi những chuyện liên quan tới Viêm Hậu mới phải.”
Xi Vưu chăm chú nhìn nàng: “Sao cô lại để lộ dung mạo thật ra rồi?”
A Hành nghe nói mới sờ lên mặt, “Vừa nãy Viêm Đế nhắc tới mẹ ta khiến ta bất giác nghĩ tới hình ảnh mẹ mình lúc trẻ, chắc bởi thế nên Trụ Nhan hoa mới biến gương mặt ta trở lại như cũ.” Hèn chi tâm trạng Viêm Đế kích động như vậy, hóa ra đã lầm A Hành là mẹ của nàng.
Chú thích
[1] Theo Sơn Hải kinh và Thái Bình Ngự Lãm chép lại, Viêm Đế có ba con gái, một người là Dao Cơ, từ nhỏ đã yếu đuối bệnh tật, qua đời giữa lúc đang trẻ tuổi, sau khi chết hóa thành giọt sương trên cỏ. Một người nữa là Nữ Oa, không may chết đuối hóa thành chim Tinh Vệ, ngày ngày lấp biển. Thần Nông thị nếm trăm loài cây cỏ để cứu thiên hạ nhưng lại không cứu nổi con gái mình.