Số lần đọc/download: 1633 / 67
Cập nhật: 2016-03-08 20:49:24 +0700
Đêm Canh Cùng Chiến Trận
K
ết quả đầu tiên của vụ đột kích Doolittle là đặt lại trên bàn hội nghị của Tổng hành dinh Thiên hoàng vấn đề vòng đai chu vi Đại Đông Á còn bỏ dở dang. Sau cuộc nghiên cứu các B-25 mà những mảnh vụn được tìm thấy tại trung Hoa, phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên: các phi cơ này cất cánh từ trên một hàng không mẫu hạm. Chứng cớ cho thấy rằng quần đảo Nhật bị bỏ trống trải trên các mạn sườn phía bắc và phía đông. Một lần nữa Yamamoto đã thấy đúng. Cần phải áp dụng kế hoạch tấn công Midway của ông để ngăn không cho Thiên hoàng bị xúc phạm theo kiểu này một lần nữa. Trái bom duy nhất rơi vào trong ngự viên tại hoàng cung đã dấy lên một sự xúc động mà toàn diện mọi người đều cùng lúc cảm thấy.
Song lẽ, vì các mệnh lệnh liên quan đến cuộc xâm chiếm quần đảo Salomon phía bắc và hải cảng Port-Moresby đang được xúc tiến thi hành, Tổng tư lệnh Nagano khẩn nài để cho các cuộc hành quân này được tiếp tục. Nhật Bản đang ở vào cực điểm của sức mạnh; do đó rất có thể mở cuộc tấn công cùng lúc trên cả hai mặt trận. Yamamoto chịu điều khiển cuộc hành quân mà không kêu gọi hai hàng không mẫu hạm đang canh chừng ngoài khơi Salomon. Lực lượng của hạm đội liên hợp có sẵn trong vùng hải phận chính quốc - bốn hàng không mẫu hạm lớn, hai mẫu hạm nhẹ, và toàn diện hạm đội thiết giáp hạm đối với ông có vẻ đủ để chiếm Midway và quần đảo Aléutiennes.
Yamamoto rời Đông Kinh với thẩm quyền toàn diện do Bộ Tổng tham mưu giao phó cho, và trở về soái hạm - chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Yamamoto - để chỉnh bị lại các kế hoạch hành quân. Tay cao cờ điên cuồng này sắp làm tiêu tan hẳn hay gia tăng gấp đôi danh tiếng vang lừng là một lãnh tụ chiến tranh của mình.
Tại Mỹ, cuộc đột kích Doolittle đã làm bùng lên một niềm phấn khởi lạ kỳ. Báo chí bất chấp liêm sỉ phóng đại tầm quan trọng của các thiệt hại vật chất đã được giáng lên đầu người Nhật, và tung ra một tấm màn trinh liệt che đậy các điều kiện tiếp đón các phi hành đoàn tại Trung Hoa. Công luận lắng dịu một thời gian. Như vậy là mục tiêu đã đạt được.
Không bị xúc động vì niềm say sưa chiến thắng hời hợt này, King không có ảo tưởng nào đối với những ngày sắp đến mà nay đang được chuẩn bị. Chiếc máy trứ danh Système Magic, vốn đang có vẻ gục từ vụ Trân Châu Cảng, vừa mới bừng tỉnh dậy ít lây nay. Cho đến lúc đó nó chỉ được khai thác để mở các khóa mật mã ngoại giao; mệnh lệnh im lặng vô tuyến dược các chiến hạm Nhật tôn trọng triệt để không cho phép thu thập đủ yếu tố thiết lập lưới mật mã của địch. Nhưng giờ đây, nhiều hạm đội Nhật được rải ra trong vô số căn cứ Hải quân phía Nam Thái Bình Dương, chúng trao đổi tín hiệu cho nhau theo một loại mật mã PK-2 mà các chuyên viên điều khiển Magic đã giao phó cho sự khôn ngoan của bộ máy kỳ diệu này. Kể từ giữa tháng 4 năm 1942, khối lượng các tín hiệu này cho phép nghĩ rằng có cái gì rất đáng nghi đang bắt đầu tại phía Nam và King đã yêu cầu các chuyên viên giải mật mã gia tăng nỗ lực gấp đôi để chọc thủng màn bí mật của khóa PK-2. Vào cuối tháng, họ gần như đã đạt kết quả và King đã có thể báo trước cho Nimitz cuộc đổ bộ rộng lớn của Nhật phía Bắc Salomon và tại Port-Morseby.
Thật đúng lúc! Hai mẫu hạm Enterprise và Hornet đã không trở về hải cảng sau chuyến khứ hồi nhằm hướng Đông Kinh chiếc Lexington thì có mặt tại Trân Châu Cảng để được tiếp tế và cho thủy thủ đoàn nghỉ ngơi đôi chút, sau khi liên tục chiến đấu từ đầu; chiếc Yorktown đang được chăm sóc lại tại Tongatabu (quần đảo Fiji). Nimitz liền ra lệnh cho hai chiếc sau nhổ neo đến điểm hẹn ngày 30 tháng 4 cùng với các tuần dương hạm có mặt tại phía Nam. Hơn nữa ông hứa với Ghormley là sẽ phái cho ông chiếc Enterprise càng sớm càng tốt. Giao cho Đô đốc Fletcher lực lượng đặc nhiệm được cấu tạo như thế, ông chỉ ra một huấn thị ngắn gọn "chống lại cuộc đổ bộ của địch và tiêu diệt hải lực địch".
Ngày 2 tháng 5 năm 1942 các hàng không mẫu hạm Mỹ tiến vào biển Corail theo ngõ phía Nam đang ngay lúc vài tuần dương hạm Nhật hộ tống vài dương vận hạm đến Tulagi men dọc theo đảo lớn Bougainville mà một phần đã bị Nhật chiếm đóng. Một "trinh sát viên cận duyên" người Tân Tây Lan ở lại đảo cho đến phút chót và rút lui về Santa-Isabel cùng với chiếc máy phát tin bằng một xuồng của người bản xứ, đã cung cấp tin này cho Tổng hành dinh của Mac Arthur, Fletcher đã được báo trước, liền cho một phi cơ trinh sát cất cánh lúc rạng đông ngày 3 tháng 5. Ông nhận được điện vắn tắt sau; "Chiến hạm tập trung trong hải cảng Tulagi".
Bắt đầu quen thuộc với biển Corail, Fletcher biết ngay Tulagi nằm ở đâu. Một hòn đảo nhỏ không có gì quan yếu, bị vô số đảo nhỏ bao bọc chung quanh, nhưng có thể neo chiến hạm rất tốt và được chọn lựa vì vị thế trung tâm như là thủ đô hành chính của quần đảo Salomon. Ông nghĩ rằng phải toan tính để trục quân Nhật ra khỏi đấy. Các hàng không mẫu hạm Yorktown và Lexington được lệnh men theo bờ phía Nam đảo Guadalcanal và phóng các oanh tạc cơ vượt ngang qua các rặng núi trên đảo xa để xuất hiện đột ngột từ trên các chiến hạm địch đang bỏ neo tại Tulagi.
Đến trưa ngày 3 tháng 5 năm 1942, các phi công trở về gần như toàn vẹn. Cứ theo lời họ thì quân Nhật hoàn toàn bị đánh bất ngờ và cửa biển Tulagi ngập đầy xác tàu. Đối với ngày chiến thắng đầu tiên các phi công Mỹ còn quá lạc quan hơn cả những đồng nghiệp Nhật Bản của họ...
Sau khi đi lại tuần phòng đến tối một cách vô ích vì không thu được tin nào mới về lực lượng hải quân địch, lực lượng đặc nhiệm của Fletcher chạy xuống phía nam để kịp đến điểm hẹn vào bình minh hôm sau với chiếc tàu dầu vĩ đại Neosho sẽ đến tiếp tế cho các chiến hạm.
Công cuộc tiếp tế kéo dài suốt ngày 4 tháng 5. Công việc kéo ngang các vòi dầu cặn giữa các chiến hạm đang chạy, việc chuyển giao thư từ do chiếc Neosho mang đến việc trao vài tân binh đổi lấy các quân nhân trừ bị được giải ngũ, đã tạo nên không khí náo nhiệt và đầy lạc quan gữa các thủy thủ đoàn. Rồi cuộc tuần hành lại tiếp tục hướng về bắc, và đêm tối trải qua mà không có biến cố nào làm rộn chuyến hải hành bình yên này. Đô đốc bắt đầu nghi ngờ giá trị của tin tức do Trân Châu Cảng chuyển đến trong khi nhìn thì giờ trôi qua. Các cuộc tuần tiễu bằng phi cơ thám thính liên tục từ sáng sớm đã không hề báo hiệu một tí gì về việc trông thấy "Kanawishi - thủy phi cơ thám thính vĩ đại của Nhật" vẫn không ngừng bay lượn trên các bờ biển Corail.
Vào khoảng 4 giờ chiều, khi các lời bình luận tuôn tràn trên các cầu tầu cũng như trong các phòng thường trực báo động, trong lúc gió kéo mây che kín một bầu trời vốn đã mờ mờ vì sương mù, thì các loa phóng thanh của tất cả các trung tâm thu tin trên các chiến hạm đã làm chấn động các hiệu thính viên đang ngủ gật:
"Ariel gọi Yorktown; Kanawishi ở phía bắc, cao độ 18.000 bộ!"
Tất cả các phi cơ đang bay đều nghiêng cánh hướng về phía kẻ nhìn trộm và các loa phóng thanh vẫn vang dội không ngừng tiếng nói chát tai; Joan gọi Ariel; hiểu rồi tôi theo anh", "Lily gọi Kate: tôi thấy có cái gì trong 320, tôi đến đó"...
Nhưng cơn mưa nhiệt đới đã chấm dứt những sự thổ lộ không mấy kín đáo này. Mẫu hạm Yorktown báo hiệu cho tất cả: "Trở về tàu". Chiếc Kanawishi biến mất sau khi phát một tín hiệu, Đô đốc Nhật Bản biết chắc được thành phần và vị trí của lực lượng đặc nhiệm Mỹ.
Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5 năm 1942 ấy, mây tan mau lẹ trên bầu trời, làm như Thượng đế muốn cho những kẻ có thể chết vào ngày mai trông thấy một lần cuối cảnh đẹp nhất của vũ trụ. Dường như các hàng không mẫu hạm kéo theo sau dòng sông Ngân hà uốn lượn chập chờn theo làn sóng biển vỡ tan tành tô điểm một chỏm bạc trên các bóng đen di động ban đêm. Tất cả đều vĩ đại và đẹp mê hồn trong cái im lặng dửng dưng của vũ trụ ban đêm. Các thủy thủ trinh sát đêm đứng trên các cầu tàu, các sĩ quan trực nhật, các hạm trưởng, các hoa tiêu trong thế báo động đều ngắm nhìn quang cảnh đ nhất phô diễn trước mắt họ trong tứ ánh sáng thanh cao trác tuyệt này.
Chắc những người sống sót sau trận hải chiến sẽ không bao giờ quên được.