Số lần đọc/download: 0 / 66
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (3)
Đ
êm 16 rạng ngày 17-12-1972, sau hơn hai tuần chốt ở Làng 8, Thanh Hội, C11 của tôi được lệnh rút quân. Khoảng 9h tối tất cả chạy tới tập hợp ở gần hầm chỉ huy đại đội. Các chiến sĩ ngồi rải rác dưới đường hào nông choèn. Đột nhiên pháo sáng địch bắn rộ lên, có thể chúng đánh hơi được cái gì chăng? Dưới ánh pháo sáng, cả đại đội chạy nhanh về phía Làng 9. Phía ven biển, nhiều quả đạn pháo đang nổ, hoa cà hoa cải bắn vung ra đỏ rực trong đêm. Bỗng “xoẹt, xoẹt... oành, oành...”, hai quả pháo nổ giữa đội hình, khói bay khét lẹt. Cả bọn chết khiếp nằm bẹp xuống, rồi lại nhổm dậy chạy tiếp. Chúng tôi không vào Làng 9, mà đi ra ngoài bãi cát ven làng.
Đêm tối như mực, nhưng bãi cát lại nhờ nhờ trắng như tuyết. Thỉnh thoảng lại bị thụt chân xuống những chỗ cát ướt hoặc lạch nước lạnh buốt. Cứ thế đi mãi. Hình như ra đến Đường 4 rồi thì phải, đã thấy những phiến bê tông to tướng bị pháo bật lên, chân vấp vào đau điếng. Đường này thời bình chắc tốt lắm. Mấy cán bộ đại đội tạt vào hầm của bộ đội địa phương gần đó để hỏi đường. Bị lạc rồi, tất cả quay lại. Thấy lô nhô mấy gò cát có hầm bên dưới, chắc của C12, vì thấy mấy khẩu 12ly7 ngoài cửa hầm. Cả Đại đội tiếp tục đi theo hàng một. Bỗng lại ánh chớp vàng rực và hai tiếng “oành...oành...” ngay bên cạnh. Cả lũ chạy táo tác. Hốt thật, mà cũng may, không ai bị sao cả. Pháo địch vẫn tiếp tục bắn vu vơ. Quanh quẩn một hồi lại lộn ra Đường 4. Hình như bên phải chúng tôi là Làng 9? Chính con bị vấp vào đá ngã đau điếng, tôi chạy tới đỡ dậy. Nghe xa xa từ phía Làng 5 có tiếng đề-pa đầu nòng “Tùng... tùng tùng...tùng”, rồi tiếng đạn bay trên cao “viu... viu viu...viu”. Lập tức ở phía Làng 9, hầu như từ đầu làng đến cuối làng mọc lên những bựng lửa màu da cam đỏ rực trong đêm tối. “Oành... oành oành... oành”, pháo dàn của chúng khiếp thật. Vô phúc mà trúng vào đội hình bọn mình thì cái xương chẳng còn... Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy hàng rào thép gai, doi cát và rặng phi lao quen thuộc. Mùi hôi thối của xác chết thoang thoảng trong không khí.
Đã đến làng Tường Vân (?), chúng tôi lại tìm đến cái hầm quen thuộc. Cả lũ lăn ra ngủ một giấc mê mệt. Sáng hôm sau tỉnh dậy, chúng tôi được chén một bữa thịt bò kho, có cả hành, rau, ngon quá. Đã tưởng sẽ được nghỉ ở đây vài hôm, ai ngờ đến trưa có lệnh hành quân gấp. Tôi sang nhà cũ của Ngô Duy Minh, định lấy cái ba-lô của cậu ta. Không ngờ, bọn nào đó đã lục lọi lấy hết đồ đạc rồi, quân tồi tệ thật. Thực ra tôi cũng chẳng cần ba-lô lắm, đã có cái bòng với 5kg gạo sau lưng, thế là đủ. Cả đại đội lại đi trên con đường dọc bờ sông to, sóng vỗ ì ầm.
Chúng tôi đang đi lên hướng bắc, không lẽ được ra Bắc thật? Xa xa, khói đạn pháo đang bốc lên vàng vàng từ các làng mạc. Xác những con trâu mộng đen sì, bị trúng bom đạn nằm chết dọc bờ sông, nhưng vẫn vươn cặp sừng trông như đang sống. Mấy cậu lính của đơn vị nào đang tắm ở một bến đá và dùng lựu đạn ném cá. Một cái đập ngang dòng sông đã bị phá hủy, nhưng người ta vẫn bắc những tấm ván nối các nhịp làm cầu qua sông. Tôi thận trọng bò trên những tấm ván bập bềnh trên cầu. Sang đến bờ bên kia, vừa thở phào nhẹ nhõm thì bỗng “Xoẹt xoẹt...
Oành oành...”, hai tiếng nổ to khủng khiếp, điếc hết cả tai. Đạn cỡ này chắc phải Pháo hạm hoặc “Vua chiến trường” 175ly chứ chẳng chơi. Bờ sông đã bị bom B52 đánh be bét, vậy mà địch vẫn pháo kích thường xuyên. Cả lũ vẫn cắm cổ đi, càng xa chỗ này càng tốt. Bị thương ở đây chỉ có chết, vì chẳng biết Phẫu ở đâu cả. Đã đến làng Gia Độ rồi, Tiểu đội tôi lại vào cái nhà cũ để ở. Anh Thanh cử tôi và Quang xỉn lên C bộ để đem súng đi trả. Kiểu này chắc được nghỉ dài ngày ở chỗ này đây. Thấy Long cồ, giờ là Trinh sát Tiểu đoàn, đang nói chuyện với mấy cán bộ đại đội. Tôi và Quang được giao mang 6 khẩu B40, B41 đi bàn giao cho Tiểu đoàn 1. Ra đến bờ sông phải gọi một lúc mới có thuyền cao su chở sang. Hai đứa băng qua một cánh đồng trắng xóa những lá truyền đơn kêu gọi chiêu hồi, rồi gặp anh Lộng, Chính trị viên phó D1. Anh chỉ cho nơi bàn giao súng. Trên đường về tôi và Quang thấy một đống súng đạn chất ngổn ngang bên lề một con lạch nhỏ. Mỗi thằng bèn lấy ba quả lựu đạn ném xuống sông để kiếm cá, mà chả được con nào. Quang rút dao găm lột mấy ống nhựa đựng đạn DKZ82 cùng liều phóng để về thắp đèn.
Không ngờ tối hôm ấy có lệnh cho đại đội tôi vào chốt Long Quang ngay. Lúc bò qua ván cầu ở đập đá sập, tôi suýt nữa bị rơi xuống sông. Ra đến giữa cầu thì đột nhiên tấm ván gãy, làm tôi phải vội vàng bò bám lết lên bờ. Vùng bãi sông này bị B52 đánh nát bét. Những hố bom chi chít, lổn nhổn dưới ánh trăng. Chúng tôi dừng lại nghỉ ở một ngôi làng hoang vu (Lệ Xuyên?). Tiểu đội tôi được phân vào cái hầm rất hoành tráng, trần và vách đều phủ dạ. Nhưng hầm đào sâu quá, nên khi chui vào có cảm giác ngột ngạt như chui xuống hầm mộ. Kiểu này mà bị sập thì chỉ có chết. Sáng hôm sau tôi thơ thẩn lượn sang xem xét mấy ngôi nhà bên cạnh. Xe đạp hiệu Lin-côn vứt khắp nơi, nhiều cái đã gỉ ngoèn. Sách vở vất lung tung, có cả mấy quyển Toán của lớp 11 và 12.
Lúc về thì A tôi được lệnh di chuyển sang chỗ khác. Tôi và Chính con được phân một cái hầm nhỏ hơn, lát bằng tre, của lính Tiểu đoàn 2 bỏ lại. Tôi sang nhà Quang xỉn ở, kiếm được một ít khoai khô đem về, rồi đi tắm. Sau đó cả Trung đội tới nhà A6 ăn cơm. Cái nhà của A6 rất rộng rãi, có bình hoa nhựa, có cả mâm đồng, bát yêu đàng hoàng. Tôi cùng Chính con khoác súng đi chơi thơ thẩn trong làng, nhìn thấy mấy con gà đã định bắn, thì nghe có tiếng người nói. Hóa ra ở đây có một Tổ Thông tin hữu tuyến của Tỉnh đội Quảng Trị. Hai đứa ngồi nói chuyện một lúc với cậu lính thông tin trẻ, tên Tâm, nhà ở phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Sau đó chúng tôi sục sạo vào các hầm trong những ngôi nhà mà Tiểu đoàn 2, E48 vừa bỏ lại tối qua. Vớ được một cái mũ cối, bình tông và nhiều thứ lặt vặt khác... Buổi tối, Chính con quấn nùi rơm lục tục hun muỗi mãi mới ngủ được. Tầm 4h sáng chợt nghe súng nổ rầm rĩ, đêm thanh vắng nên nghe khá gần. Hôm nay Tiểu đoàn 2, E48 tung toàn lực tấn công nhằm chiếm đồi Cây Ba Chạc ở bãi cát Long Quang. Rồi tiếng súng thưa dần. Chúng tôi
Chính con chui ra. Hai cậu lính C7 Tiểu đoàn 2 đang ngồi ở thềm nhà. Thì ra đây là cái hầm cũ của các cậu ấy. Cả 2 nói: “Cơ sự hỏng bét cả rồi. D2 chết và bị thương nhiều lắm. Có lẽ C11 của các cậu sẽ được tung vào đấy”. “Nhưng chúng tớ không có B40, B41 thì làm ăn gì được?”. “Ôi dào, trên đường rút ra bọn tớ quẳng lại nhiều lắm. Các cậu tha hồ lượm. Còn khối thương binh, tử sĩ chưa lấy ra được...”.
Cả ngày hôm ấy chúng tôi chuẩn bị đi chiến đấu. Đến tối thì có lệnh tập hợp. Mưa. Cả bọn chui vào cái hầm cạnh nhà C bộ, chật như lèn. Mấy cậu DKZ82 xuống phối thuộc đang tán chuyện gẫu. Có lệnh lên đường. Cậu Trường “Khâm Thiên” A6 vác khẩu RPD đi bên cạnh thở dài sườn sượt. Không thể nào quên được hình ảnh đoàn quân ra trận đêm ấy. Những cái bóng đen thẫm đi vội vàng trên con đường đắp cao, nổi bật trên nền sương mù đùng đục của đêm trăng sáng nhờ nhờ. Cả đại đội hành quân gần như suốt đêm. Rồi đi dọc một con lạch, qua một cây đa to, hai bên đường cây gì như cây vừng.
Đến gần sáng thì tới chỗ nghỉ. Đó là một dãy hầm ở bãi cát lúp xúp những cây nhỏ. Nhiều cây giống như rễ chay, vừa mềm vừa dai. B1 được lệnh đi ngay lên phối thuộc với C9 tập kích Cây Ba Chạc. Phía đó bỗng nhiên pháo sáng rực trời, đạn nổ như bắp rang, những đường đạn đỏ lừ bay ngang bay dọc. Sáng rõ mặt người thấy ông Khuông C phó quấn băng ở tay lò dò mò về. Ông này vẫn hay bị lính cho là nhát. Thực sự chúng tôi rất khinh thường những vị chỉ huy hèn nhát. Giữa trận tiền, sự mất bình tĩnh của họ sẽ đưa binh lính vào chỗ chết. Tiếng súng tiếp tục nổ liên hồi. Tôi nhìn ra bãi cát xa xa, thấy một xác xe tăng cháy đen thui. Khói xám cuồn cuộn bốc lên ở phía đồi Cây Ba Chạc. Anh Thanh B trưởng vào ở cùng hầm với tiểu đội tôi. Tôi nhặt được cái bật lửa lẫn trong cát ở đáy hầm, anh mượn luôn. Anh là vua thuốc lào mà. Thỉnh thoảng lại có người đi qua, rẽ vào hầm xin một điếu thuốc lào.
Tôi mò sang hầm Lâm Thành ngồi chơi. Lâm Thành mới được điều lên làm liên lạc cho anh Hưởng, Chính trị viên phó C11. Thực ra đó là một dạng cần vụ điếu đóm cho các sếp, nhưng cậu ta chẳng biết làm gì cả. Thậm chí nhiều lúc anh Hưởng còn phải nấu cơm cho cậu ta ăn. Tuy nhiên đối với bạn bè chí cốt từ hồi huấn luyện thì cậu ta cực tốt. Lâm Thành kiếm được cho tôi cái bi-đông kèm ca-bô làm bát ăn cơm. Phía trước hầm, Đại đội trưởng Hộ đang hỏi chuyện một cậu liên lạc tiểu đoàn về tình hình tuyến trên. Cậu này nói ta đã chiếm được Cây Ba Chạc rồi, và đưa ra khoe chiến lợi phẩm là mấy hộp thịt nhỏ. Lính ta trên ấy còn kiếm được nhiều thuốc lá, cà phê bột và võng dù lắm. Mặc dù như vậy là vi phạm chính sách, nhưng anh Hộ vẫn cười độ lượng. Anh sẵn sàng tha thứ cho binh lính mấy vụ này, miễn là họ đánh thắng.
Tôi được giao nhiệm vụ cùng một người nữa lên chốt tuyến trên gặp anh Căn, Quyền Tiểu đoàn trưởng để báo cáo tình hình C11. Hai đứa cứ lần theo đường dây thông tin hữu tuyến, đi dọc theo mọt doi cát dài, bên trên có những gò đống lổn nhổn và những cây chổi xể nhỏ. Đã nhìn thấy rõ cái xác xe tăng M41 của địch sơn rằn ri xanh nâu, hình như nó bị hỏng máy chứ không phải bị bắn cháy. Phải hỏi đường mấy cái hầm du kích đóng gần đó mới tìm được hầm anh Căn. Xong việc quay về, cả lũ chui vào hầm ngủ trưa. Say sưa thế nào mà lúc dậy mới thấy mất cái võng dù của anh Thanh. Cái võng dù màu xanh lá mạ rất đẹp, tiêu chuẩn của cán bộ Trung đội, tiếc quá. Chắc lại ông tướng nào vào xin thuốc lào, thấy cả lũ ngủ say nên thó mất rồi.
Chiều muộn, C11 được lệnh đi lên chốt tuyến trên. Chúng tôi đã di chuyển theo đội hình rất thưa, vậy mà hình như vẫn bị địch phát hiện. Chúng pháo kích liên tục, cứ hai quả một bay đến, rít lên man rợ. Cả bọn đành phải chúi vào những hố đạn ở ven đường, đợi pháo chuyển làn thì lại tiến. Phía trước mặt đạn pháo vẫn nổ không ngừng, khói xám mù mịt, mảnh bay vù vù. Rồi chúng tôi cũng mò được lên đến chốt tuyến 2 và tản vào các hầm quanh đấy. A tôi ở cùng hầm với Lâm Thành. Mỗi lần địch pháo kích, tôi để ý thấy Lâm Thành thường ngồi ra phía ngoài, xoay lưng chắn cửa hầm. Tôi hỏi thì Lâm Thành nói: “Nếu mảnh bay vào, tao sẽ bị, chúng mày không bị...”. Chính con cứ băn khoăn vì phải nhận khẩu súng gỉ ngoèn. Lâm Thành nói: “Gần đây có hầm của bọn công binh.
Tao thấy ngoài cửa hầm có khẩu AK “mẻ nòng” mới lắm...”. Thế là Chính con bò ra, và chỉ 1 lúc sau đã đem về khẩu “mẻ nòng” mới cứng. Cậu ta chỉ vào cái ốp che tay nói với tôi: “Bọn này khôn thật, nó đẽo vào chỗ gỗ này để đánh dấu đấy”, và cười rất khoái chí về vụ tráo súng trót lọt. Quả thật, sắp vào trận mà có khẩu súng tốt cũng yên tâm hẳn.
Mỗi lần địch pháo kích, Lâm Thành thường ngồi ra phía ngoài, xoay lưng chắn cửa hầm: “Nếu mảnh bay vào, tao sẽ bị, chúng mày không bị...”...
Có lệnh vận động tiếp. Dưới ánh trăng vàng vọt, chúng tôi chạy dọc một bên doi cát, rồi vòng qua một hố bom to. Chợt gặp Nhuận “Nhà báo” đi ngược lại. Hắn nói hổn hển: “Gay lắm Vinh ạ. Cẩn thận nhé...”, rồi hối hả chạy biến. Sau này mới biết, từ tối hôm đó hắn chuồn thẳng ra Bắc. Năm 1980, có lần gặp nhau ở Hà Nội, hắn giơ tay định bắt, nhưng tôi ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ đi không nói một lời. Đến tận bây giờ tôi vẫn không thể tha thứ được cho những kẻ đào ngũ... Chúng tôi đã lên đến chốt tuyến 1 của ta. Mấy cậu lính C9 đang ngồi dọc chiến hào. Trong cái hầm gần đấy có một tổ DKZ82 của E64. Chợt cậu Đoàn C9 cất tiếng gọi tôi. Đoàn nói tình hình căng lắm, sáng nay C9 lại bị địch đánh bật xuống một đoạn. Xác anh Cơ, A trưởng của Đoàn, còn nằm trên đó chưa lấy được....
Trung đội tôi nhận nhiệm vụ: bò lên đoạn hào ta mới chiếm lại và đóng chốt ở đó. Chỉ có điều từ đây lên đó không có hào nối, mà phải bò trên mặt đất. Tôi ló đầu nhìn sang phía địch. Trong màn đêm chỉ nhìn thấy những bụi cây đen sì, huyền bí và nguy hiểm. Chúng tôi bắt đầu trườn lên mặt hào và bò đi. Cát trắng quá, có cảm giác những bóng đen đang bò hiện rõ mồn một, chỉ sợ bị một phát đạn vào lưng. Bây giờ mà địch pháo kích đến thì chỉ có chết. Chúng tôi vẫn tiếp tục bò. Rồi cũng đến được đoạn hào nông choèn của địch, tất cả trườn xuống nằm thở. Dọc con hào này, bên phải là một doi cát, bên trái là một lạch nước. Sườn doi cát có nhiều hố chiến đấu do lính địch khoét vào, nhiều hố đã sụt lở.
Lúc nãy mấy cậu C9 dặn chỉ bò đến cái xác cụt nửa người thôi, và nhờ chôn anh Cơ hộ. Trong 1 cái hố đổ nát tôi thấy có mấy tờ bản đồ chiến thuật của địch, giấy in rất đẹp. Ngoài ra còn có hai khung balô ngụy và vài cái xẻng gập. Tôi lấy một cái để dùng. Tất cả hùng hục đào một con hào nối chúng tôi với tuyến sau, sâu đến đầu gối. Thế là có đường liên lạc yên tâm rồi, khỏi phải phơi lưng trên mặt đất. Lúc đang đào thấy nói anh Tin, A trưởng A6, sục phải xác một tên địch. Trường “Khâm Thiên” A6 và Minh A trưởng A5 đã chuồn từ hôm qua.
Anh Thanh chỉ định tôi bò lên đoạn hào trên cùng, gần địch nhất. Tôi thấy hơi bất bình, nhưng nghĩ đi nghĩ lại trong B chỉ có tôi là được anh tin tưởng nhất, nên vẫn chấp hành. Mùi hôi thối nồng nặc khắp nơi. Tôi cứ lặng lẽ trườn theo con hào. Tới một chỗ bỗng nhiên thấy nó phình to ra. Xung quanh vứt lổn nhổn những xanh-tuya ngụy ngoắc đầy bao đạn, bi-đông Mỹ, mũ sắt bọc vải rằn ri, nồi quân dụng, hộp ghi-gô.... cùng mấy thùng lựu đạn mỏ vịt. Cạnh đó là một cái hố chiến đấu sụt lở, có đá hộc xếp bên ngoài. Tôi nghĩ bụng: “Hay quá. Sẵn hố này ta chỉ cần cải tạo thêm một tí là xong”, rồi hăm hở nhảy vào ấn xẻng đào. Nhưng sao thế này? Xẻng không thể nào ấn sâu được, cứ như đâm vào cao su. Tôi thọc tay xuống theo vết xẻng, thì trời ơi, sờ trúng vào cái khuy ngực của 1 chiếc áo ướt nhớp nháp. Một mùi thối hoắc xông lên, xác của 1 tên địch đang trương...
Tôi hoảng hốt nhảy ra, xúc mấy xẻng cát hất vào lấp hố. Đành phải tìm chỗ khác đào vậy. Tôi quyết định đào hố giữa lòng hào cho dễ. Nhưng chợt nghĩ, nếu đang mải đào mà địch bí mật bò sang tập kích thì sao? Bèn nghĩ ra 1 kế: bò lên xa nữa, chọn 1 khúc hào ngoặt, bẻ 1 cành cây cắm cái mũ cối lên, tháo chiếc khăn dù choàng quanh cho giống người. Nếu có tên địch nào bò từ phía đối diện sang, đến khúc ngoặt này nhìn thấy bóng người hẳn nó chết khiếp. Nếu mà nó bắn, thì chỉ có cái mũ hứng đạn, còn tôi sẽ kịp thời đối phó. Đắc chí với cái kế đó, tôi trườn về hăm hở đào tiếp. Khi hố đã sâu đến đầu gối, thì hỡi ôi đáy hào rỉ nước, và nước càng ngày càng nhiều. Thật ngu ngốc mà quên mất rằng: cạnh hào là 1 lạch nước. Vừa mệt, vừa chán nản, nhìn lên bầu trời thấy sao tua rua đã gần lặn, tôi biết là sắp sáng. Làm thế nào bây giờ? Không có hố trú thân mà địch pháo đến thì chỉ có chết. Vừa lúc đó Chính con đã đào xong hố của mình, bò lên giúp tôi. Hai đứa hùng hục khoét vào sườn doi cát, chỉ 1 lúc đã xong. Rồi cả hai bò lên phía trước, vơ những khẩu M72 đem về làm nóc hầm.
Ở mỗi hố chiến đấu của địch đều có vài khẩu súng chống tăng M72, trông như những khúc tre dài khoảng 0,6m, khẩu đã bắn rồi thì rỗng tuếch, khẩu chưa bắn thì còn cả quả đạn trong nòng. Chúng tôi ôm tất về, đặt lên nóc hố. Tôi lấy cái chăn sợi vẫn quấn quanh người phủ lên rồi lấp cát lại. Xong việc, 2 đứa chui vào hầm ngủ mê mệt. Sáng bảnh chúng tôi mới thức dậy. Ban ngày bọn địch ít ngo ngoe, vì chúng sợ các các cây súng bắn tỉa của quân ta từ phía sau bắn tới. Trong các trận chiến đóng chốt giằng co như thế này, thì các xạ thủ bắn tỉa Bắc Việt cực kỳ lợi hại. Họ đã gây ra rất nhiều thiệt hại cho địch, từ thời Điện Biên Phủ xa xưa, qua Thành cổ vừa rồi, và cả bây giờ nữa. Hễ tên địch nào bất cẩn khi di chuyển hoặc nhô đầu lên hơi cao là đi tong ngay. Bên địch hầu như không có súng bắn tỉa. Chính con cằn nhằn vì tôi đã đem cái chăn sợi phủ lên rồi lấp cát làm nắp hầm mất rồi. Đêm qua hơi lạnh mà cả hai đứa không có gì đắp.
Đến trưa thì anh Thanh gọi sang ăn cơm. Tối qua anh ngủ cùng hầm với Bích. Tuyến dưới vừa tiếp tế lên cơm nắm cùng một ít thịt bò kho với ớt khô, sang quá. Thì ra hôm nay là 22-12, Ngày Thành lập Quân đội NDVN. Mấy hôm trước chúng tôi còn mơ tưởng sẽ được ra hậu cứ nghỉ ngơi, rồi cùng đơn vị đón Danh hiệu Anh hùng vào dịp này. Đúng là mơ hão. Chúng tôi đang đói nên ăn rất ngon, mặc dù cơm trộn cát nhai lạo xạo. Cậu Trường “Khâm Thiên” A6 và Minh A trưởng A5 cũng vừa bị tuyến dưới lôi lên đây. Định trốn mà đâu có thoát. Sao tôi ghét mấy thằng hèn nhát thế.
Ăn cơm xong tôi và Chính con đi lượm lựu đạn mỏ vịt nằm rải rác rất nhiều quanh đó, đem về chất đống cạnh hố chiến đấu. Rồi cả hai tiếp tục sục sạo tìm cơm sấy, đồ hộp cùng các thứ linh tinh khác của địch. Mùi hôi thối khăn khẳn khắp nơi. Không chỉ do xác chết, mà còn do các hộp thịt bị mảnh đạn găm thủng làm thối. Nhưng chúng tôi mặc kệ, cứ tìm đến những hố chiến đấu cũ của địch, thọc tay xuống cát đào bới. Vớ được mấy hộp thịt và vài gói cơm sấy, hai đứa đem về hầm ngồi chén. Hầm rất chật, chúng tôi như hai con ếch ngồi đáy giếng, đầu gối chạm nhau đau cứng, nhưng quai hàm thì vẫn nhai đều. Thịt bò hộp của bọn nó nhạt phèo, ăn ngầy ngậy, hình như được kho bằng dầu ô-liu. Gà hộp thì thịt ăn rất bã. Còn cơm sấy cứ bốc hạt khô như thế bỏ vào mồm, nhai thấy bùi bùi. Ăn xong nghỉ ngơi một hồi rồi lại đi sục. Tới chỗ đoạn hào phình to hôm qua, tôi định lựa xem cái xanh-tuy nào còn mới thì lấy dùng. Nhưng tất cả đều đã cũ và nặng chịch vì được gắn đầy đủ lệ bộ gồm hai bao đạn, bi-đông, quai đeo....
Đúng là thằng lính địch nó quẳng được cái này đi cũng nhẹ cả người. Và tất cả đều rất hôi, mùi hôi đặc biệt của lính địch. Chán nản quá tôi đã định bỏ đi, thì chợt thấy chỗ đáy hào sát doi cát có một đoạn dây da đen đen. Khi tôi rút lên thì hóa ra là 1 cái đồng hồ mặt vuông. Mừng rỡ, tôi gọi “Chính! Chính! Tao bắt được một cái đồng hồ này!”. Chiếc đồng hồ này có cả lịch, nhưng chết đã lâu. Hai đứa đem về hầm ngắm nghía, và đều vui mừng vì từ nay có đồng hồ để xem giờ đổi gác. Nhưng Chính con là người hay tí toáy. Cậu ta đem con dao nhíp có từ hồi huấn luyện ra hí hoáy tháo nghịch, làm rơi mất một con ốc. Tôi đành phải bỏ chiếc đồng hồ vào túi áo ngực và cài cúc lại. Buổi trưa bọn địch bắt đầu pháo kích. Những quả đạn rít lên man rợ trước khi lao xuống nổ. Tôi và Chính ngồi rúm người trong cái hố bé nhỏ, chỉ lo nhỡ có quả nào rơi trúng hố thì toi đặc. Cát rơi rào rào xuống đầu xuống cổ, mảnh đạn văng khắp nơi, cắm lịch xịch trên nóc hố. Dứt đợt pháo kích, hai đứa chui ra củng cố lại hầm hố, đắp thêm cát lên cho dày.
Buổi chiều chúng tôi lại bò đi sục sạo kiếm ăn. Nắng vàng đẹp. Chiếc máy bay do thám OV-10 vẫn hát điệu o...o...o muôn thuở. Hai đứa chợt nhìn thấy sát mép lạch nước có một cái túi dết rằn ri căng phồng. Chính muốn xuống lấy ngay, nhưng tôi muốn ngăn lại vì rất nguy hiểm: phải bò lên khỏi hào rồi trườn xuống mép nước giữa ban ngày. Tuy nhiên chưa kịp nói gì thì Chính đã nhanh nhẹn trườn lên, lăn mình chộp lấy cái túi và thoắt cái đã lăn lại xuống hào. Hai đứa hăm hở mở túi ra. Trong đó có 1 cái chăn dù thám báo ruột bằng sợi tổng hợp rất nhẹ và ấm, một cái võng dù thủng lỗ chỗ, mấy cái ảnh đầm khỏa thân, một số ảnh kỷ niệm gia đình cùng thư từ....
Ngoài ra còn có bông băng, kim chỉ và một phù hiệu Thủy quân lục chiến rất đẹp. Khi trở về hai đứa quyết định sửa lại cái hầm của Chính để dùng chung. Chúng tôi đào mở rộng ra, xếp đá xung quanh, lát nóc bằng súng M72, lấy võng dù ngụy phủ lên rồi lấp cát lại. Bây giờ thì thoải mái rồi. Tôi đi lột cái chăn sợi ở hầm cũ của tôi về để đến đêm hai đứa đắp chung.
Ăn cơm tối xong, anh Thanh phân công tôi gác từ 20h đến 21h30. Đêm trăng mờ mờ. Tôi bò vào một ngách hào, ló đầu nhìn sang phía địch. Khoảng cách hai bên khá gần, chừng 50m chứ mấy, chúng nói to là có thể nghe thấy. Nhưng chỉ thấy những ụ cát im lìm. Phải nói hai ngày nay chúng tôi gặp may, vì không phải chiến đấu. Chắc sau những trận giao tranh dữ dội giữa Tiểu đoàn 2 E48 và C9 D3 E48 của ta với Tiểu đoàn 4 “Kình ngư” của Thủy quân lục chiến, cả hai bên đều đã thấm mệt.
Lúc chiều thấy địch bắn pháo khói nhiều, che phủ khắp trận địa. Hình như chúng đã đưa Tiểu đoàn 2 “Trâu điên” vào thay Tiểu đoàn 4. Bọn này C tôi đã đụng hồi ở Làng 8, Tám Cát rồi. Phù hiệu trên vai của chúng có cái đầu trâu há mồm đỏ lòm trông rất ngộ. Thỉnh thoảng chúng lại câu sang mấy quả M79. Ta đáp trả bằng mấy phát DKZ82.
Màn đêm tịch mịch, nhưng tôi vẫn sợ bị địch tập kích bất ngờ. Bèn dùng lại sáng kiến hôm qua: bò lên phía trước, nhìn ngược lại vị trí của mình, xem chỗ nào đập vào mắt nhất thì đặt “bù nhìn” vào đó. Để làm “bù nhìn”, tôi lật sấp cái nồi quân dụng, bên trên đặt hộp ghi-gô, rồi chụp cái mũ sắt lên. Trông xa cứ như một người đang nhô vai lên quan sát. Ít nhất thì cũng làm chậm được bước tiến của địch. Khoảng 5h sáng, trời còn sương mù, chợt nghe tiếng lao xao ngoài hào. Tôi ngó ra thì thấy B trưởng Thanh, C trưởng Hộ và D trưởng Tùng đang đứng ngoài đó. Tiểu đoàn trưởng Tùng nhặt mấy quả lựu đạn mỏ vịt còn lăn lóc xung quanh, nhắc chúng tôi gom lại để dùng. Có những Tiểu đoàn trưởng sâu sát như thế thật yên tâm, vì đây là vị trí gần địch nhất của cả Tiểu đoàn.
Trời sáng rõ, có tiếng máy bay ầm ĩ lượn vòng. Một chiếc A37 đang ném bom ngoài bãi cát. Không hiểu nó nhìn thấy cái gì ở ngoài ấy. Cánh nó bằng, đuôi nó cúp, cứ mỗi lần bổ nhào chỉ ném đúng một quả. Nhiều lúc không nhìn rõ mục tiêu, nó bay thấp hẳn xuống dưới trần mây để quan sát, rồi vòng sau mới cắt bom.
Đến trưa, Chính con bỗng nảy ra ý định bò sang trận địa của địch chơi. Tôi đã cản, nhưng cậu ta không nghe, cứ bò đi một mình. Đang lo thắc thỏm thì chợt phía bên địch tiếng súng rộ lên. Mấy quả M79 bay đến nổ gần hầm làm tôi phải thụt vào, nhưng vẫn nhìn ra đoạn hào dẫn sang phía địch. Một lúc sau mới thấy Chính con mặt mày tái mét mò về. Hú vía, suýt nữa thì cậu ta toi mạng oan...
Buổi chiều hai đứa ngồi xem mấy chiếc F4 thay nhau oanh tạc mạn Tường Vân, Làng 9. Khói đen xám mù mịt bốc lên sau những tiếng nổ rền. Bỗng một loạt pháo lao đến nổ rung chuyển căn hầm, làm chúng tôi rúm cả vó lại. Phải nói bọn pháo binh địch bắn cũng khá thật. Từ hầm ta sang hầm chúng nó chỉ mấy chục mét thôi, mà không quả nào rơi sang bên đó cả. Tiếng rít của những quả pháo đang lao xuống đầu bạn là đòn tâm lý ghê rợn nhất. Nó rít lên, rít lên như một mũi khoan sắc lạnh, xoáy sâu vào thần kinh và cân não. Nó làm tóc gáy phải dựng ngược lên, quả tim ngừng đập và lồng ngực ngừng thở. Cho đến khi nghe tiếng nổ rung hầm, cát bụi rơi lả tả, khói xám xộc vào, mới cảm thấy hơi nhẹ nhõm, thì quả pháo sau đã lại rít lên rồi... Cho nên tôi rất hiểu chuyện lính ta tóm được thằng pháo binh địch nào cũng bắn ngay tại chỗ!....
Chiều tà. Đang ngồi nói chuyện với anh Tài, B phó người Thanh Hóa, chợt nghe tiếng nổ “ Ụp...oành”. Nhìn ra bãi cát, một quả DKZ đỏ lừ như con chuột lửa chạy vút ra xa mãi. Chắc tổ DKZ82 của E64 phát hiện được mục tiêu nào đó. Anh Tài có hai má bầu như con gái, là con một trong một gia đình nông dân. Tính anh khô khan, nói năng lúng búng, nên không được anh em trong trung đội quý mến lắm. Nhưng sau này khi tôi bị thương, chính anh là người đã cõng tôi đang mê man về tuyến sau. Anh hy sinh trong trận ngày 1701-1973, bị trúng một viên đạn lòi ruột. Người ta đưa anh vào một chiếc hầm, vì đang đánh nhau dữ dội, không thể chuyển về phía sau được. Anh ngồi trong hầm rên rỉ, nói lảm nhảm một lúc rồi chết... Anh chết khi 10 ngày sau, Hiệp định Pa-ri lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết!
Sẩm tối, sau khi ăn mấy nắm cơm lấm cát, tôi, anh Thanh và Bích ra ngồi sau một ụ cát nhỏ, cùng quan sát được. Bỗng một quả pháo lao vèo đến nổ oành bên kia ụ cát. Cả bọn bị điếc đặc, hoảng quá chui tọt vào hầm. Rất may là không ai bị sao cả. Khi trời đã nhập nhoạng, tôi quyết định bò theo đường hào dẫn sang phía địch để do thám. Tay nắm chắc quả lựu đạn mỏ vịt, tôi lặng lẽ trườn đi. Nhiều đoạn hào đã bị cát lấp hoàn toàn, khi bò hầu như phải phơi lưng trên mặt đất, kiểu này dễ bị lộ lắm. Trăng đã lên, khá sáng. Đồng cát sương phủ mờ mờ. Lợi dụng những vệt tối giữa các đoạn hào, tôi vẫn tiếp tục trườn đi. Dấu vết của những trận tập kích trước đây do D2 và C9 thực hiện càng lúc càng thấy rõ. Ba-lô, súng RPD, AK, M16, M72... cùng đạn dược vứt lỏng chỏng dọc các đoạn hào. Thỉnh thoảng tôi lại ngóc đầu nhìn sang phía địch. Không thấy động tĩnh gì, lại bò tiếp. Chợt thấy một đống đen đen lù lù chắn đáy hào trước mặt. Người à? Không phải.
Tôi trườn đến gần hơn và căng mắt nhìn. Thì ra là đống lòng ruột, dạ dày, thậm chí còn thấy cả những đường gân máu trên cái dạ dày. Khi tôi ngóc cổ cao hơn còn thấy hai cái chân hất về phía trước. Tôi hiểu ngay đây là một cái xác bị bay mất nửa trên, chỉ còn từ phần bụng trở xuống. Đang vội vã bò lùi, thì khuỷu tay phải chợt chạm vào một vật gì cưng cứng. Nhìn sang, chỉ thấy hai bàn chân đi tất thò ra từ dưới một cái võng đắp. Tất này thì chỉ có quân ta thôi: dài đến đầu gối, mầu rêu, chỗ lòng bàn chân màu vàng. Chắc hẳn đây là xác anh Cơ như bọn C9 đã nói, cũng phải 3-4 ngày rồi, mà sao không thấy thối. Tôi càng bò lùi nhanh hơn nữa. Nhưng chỉ cách chỗ đó chừng 7-8 mét, tôi đã đàng hoàng ngồi dậy, lục lọi mấy cái ba-lô vứt trỏng trơ quanh đó, xem có thứ gì ăn được không. Thực sự lúc ấy tôi không thấy sợ, vì biết đâu chỉ vài phút nữa chính tôi cũng sẽ nằm chết như vậy. Kiếm được một gói gạo rang, một gói muối và một cái màn vải. Được đấy, cái màn vải có thể dùng đắp thêm vào chăn cho ấm.
Tôi lầm rầm khấn: “Thôi, các đồng chí ơi, các đồng chí đã hy sinh, thì để những thứ này cho chúng tôi dùng, để chúng tôi có sức chiến đấu trả thù cho các đồng chí...”. Rồi đem theo những thứ đó lặng lẽ bò về.
Trời tối đã lâu. Tôi ngồi trong hầm nhìn hỏa châu rơi. Đây là loại pháo sáng được bắn bằng súng cối của địch. Quả đạn lên đến một tầm cao nhất định sẽ phát nổ. Đầu đạn tỏa ra thứ ánh sáng rực rỡ, được treo dưới một cái dù nhỏ làm chậm tốc độ rơi, vừa rơi nó vừa cháy xèo xèo và kéo theo một đuôi khói trắng. Đuôi đạn văng ra quay lộn trong không khí gây nên tiếng kêu “Kút...kút...kút...” rất kỳ lạ. Cứ quả này tắt thì địch lại bắn quả khác. Đêm khuy thanh vắng, nhìn ánh sáng vàng vọt cùng tiếng kêu ma quái, sao thấy rùng rợn quá. Trong màn sương mờ tôi chợt có cảm tưởng ai đó đang di chuyển ở bên kia lạch nước. Vội bò ra khỏi hầm căng mắt nhìn, thì thấy Bích cũng đang nằm nép vào mép hào quan sát. Đúng là có tiếng người thì thầm trao đổi cùng tiếng chân lội nước bì bõm. Hai đứa định vào báo cáo anh Thanh, vừa lúc anh cũng bò đến. “Có lệnh rút ngay”, anh nói khẽ, “C10 sẽ lên thay chúng ta...”. (Hôm sau nghe nói C10 đã nổ súng vào đám người bên kia lạch nước. Hóa ra là một tổ trinh sát của Tiểu đoàn 1, E48. Có thương vong thì phải...).
Chúng tôi nhanh chóng khoác súng và bò lui về chốt tuyến 1, rồi chạy dọc doi cát về chốt tuyến 2. Tiểu đội tôi cùng anh Thanh ở cùng một hầm, chính là cái hầm của anh Căn, D phó hôm nọ. Cả bọn nằm chen chúc rồi cùng chìm vào giấc ngủ mê mệt. Khu vực chốt tuyến 2 này có mấy hầm ở gần nhau. Cách chúng tôi 15m là hầm A6. Cạnh đấy là hầm của tổ du kích trước đây, bây giờ bốn cậu lính thông tin E64 đóng trong đó. Đối diện chúng tôi khoảng 10m là hầm của tổ DKZ82 thuộc E64. Tôi nhìn ra cái xác xe tăng M41 ngoài bãi cát, thấp thoáng mấy bóng lính ta đang bò quanh nó. Mấy cậu này mạo hiểm thật, pháo kích mà đến thì chỉ có chết.
Một lúc sau thấy Long cồ và hai cậu trinh sát tiểu đoàn bò vào. Hóa ra hầm của Trung đội trinh sát D3 cũng ở gần đây. Tôi hỏi Long cồ “Có tìm được gì ở trong xe không?”. Long cồ cười “Chẳng có gì cả. Nhặt được mấy cái bật lửa Zippo thôi...”. Đến trưa cả bọn phải đi kiếm củi về nấu ăn. Tôi chạy ra khá xa, qua mấy cái hố bom, qua cả hầm Trinh sát pháo binh, thấy một lô đạn súng cối nằm chất đống. Nhưng cái tôi cần là liều phóng để đốt bếp hoặc củi khô cơ. Không tìm được những thứ đó, đành vơ ít củi ướt đem về phơi trên nóc hầm vậy.
Anh Tài đã gùi về một ba-lô gạo, cộng thêm gói muối tôi kiếm được tối qua, vậy là vấn đề lương thực đã được giải quyết. Pháo địch vẫn bắn rải rác dọc tuyến đường từ hậu cứ lên chốt.
Khoảng 4h chiều một chiếc L19 è è bay qua. Loại này chuyên môn vạch đường cho B52 rải thảm, thường chỉ bay theo một đường thẳng. Một lúc sau nghe tiếng nó quay về. Không hiểu mấy cậu Thông tin E64 nấu nướng ra sao để khói bay lên, nó nhìn thấy được bèn bổ nhào xuống luôn. Lúc ấy chúng tôi đang ngồi trong hầm, chợt nghe tiếng máy bay rú và tiếng bom rít trên đầu. Cả lũ sợ rúm vó: “Chết này... Nó trúng mình này... Chết này...”. Bom nổ làm chúng tôi điếc đặc, hơi bom phần phật thổi vào hầm cùng khói đen xịt. Nào đã hết đâu, nó quay vòng lại bổ nhào thả tiếp quả thứ 2. Cả đời không thể nào quên được tiếng gào rú của máy bay và tiếng rít ghê rợn của quả bom đang lao thẳng xuống đầu mình. Lại hơi bom phần phật, lại khói xộc vào đen xịt. May mà thằng L19 này chỉ mang được 2 quả bom loại 50kg.
Một lúc thấy yên yên, anh Thanh bò ra xem xét tình hình rồi quay lại gọi: “Tất cả ra nhanh lên... Cầm xẻng theo!”. Chúng tôi vớ xẻng lao ra ngoài. Cảnh tượng thật tang thương. Cái hầm của Tổ Thông tin E64 bị sập thành một đống, còn nghe tiếng rên rỉ trong đó. Chúng tôi hối hả đào bới, cả A6 cũng lao đến giúp. Thế mà mấy cậu DKZ E64 không thằng nào thò mặt ra, thật quá tồi tệ. Chúng tôi khẩn trương bóc lớp tôn lát ngoài rồi phá sườn hầm thành một lỗ hổng. Bích là người đầu tiên nhảy vào. Một mùi khét kinh khủng bốc ra, giống mùi chó thui. Mùi khét của tóc cháy và da người cháy. Mặt mũi Bích đỏ gay, ra sức bới cát dưới đầu một anh bị kèo hầm đè lên cổ.
Chúng tôi chật vật lắm mới lôi hết được bốn người ra. Cả bốn người đều bị cháy hết lông mày, khuôn mặt bị lột đi lớp da ngoài trở thành đỏ hỏn. Máu mồm, máu mũi trào ra, cát dính vào thành từng đám lem nhem. Mắt ai cũng lờ đờ, quần áo rách bươm. Lúc này mấy cậu E64 mới mò tới, cùng chúng tôi xốc nách các nạn nhân ra chỗ thoáng hơn nằm. Cậu Y tá tiêm thuốc hồi sinh cấp cứu cho họ. Nhìn một chiến sĩ nằm ngay ở cửa hầm, đang thở kho khe một cách nặng nhọc, quần áo như mớ giẻ rách, tôi biết cậu này khó mà qua khỏi. Một lúc sau thì cậu ta chết. Thế là tổng cộng hai người chết. Còn hai người bị thương được khiêng đi viện.
24-12-1972. Noel. “Hôm nay sẽ ngừng bắn đấy”, anh Thanh nói. Tôi nửa tin nửa ngờ, chắc gì bọn địch đã tuân thủ. Thế mà đúng 6h chiều, bỗng nhiên tất cả các loại súng im hẳn. Không tiếng bom, không tiếng pháo, kể cả pháo biển. Chúng tôi chui ra khỏi các hầm hố, vươn vai đi lại khoan khoái. Lần đầu tiên trên chốt được đi ỉa một cách thoải mái. Mọi hôm phải đào hố mèo ngay cạnh hầm, đi xong lấp lại, mà vẫn nơm nớp lo sợ bị pháo kích bất ngờ, không kịp chui vào hầm. Trời tối hẳn, thấy có bóng người đang đào gì lịch kịch. Thì ra Long cồ đang đào một con hào cắt ngang qua doi cát, tôi và anh Thanh bèn xách xẻng ra đào giúp. Con hào này sẽ giúp chúng tôi khỏi phải phơi lưng trên mặt đất mỗi khi vượt qua doi cát. Tự nhiên thấy nhớ Hà Nội quá. Không biết Noel này Hà Nội ra sao, trước cửa Nhà thờ Lớn phố Nhà Chung còn đèn hoa rực rỡ nữa không? Nghe nói bọn Mỹ đem B52 đánh bom Hà Nội. Thật đau xót quá. Nếu còn sống mà về được, chắc Hà Nội chỉ còn đống gạch vụn. Hãy xem B52 rải thảm ở Quảng Trị khủng khiếp như thế nào. Liệu gia đình mình có bị sao không?....
Phía bên địch, bọn chúng đón Noel bằng những loạt hỏa châu. Những quả cối sáng đủ màu: hồng, vàng, xanh lá mạ... lấp lánh chi chít trên nền trời đen. Còn phía bên ta thì chỉ có đạn lửa. Lính ta ngồi dưới chiến hào, chĩa súng AK lên trời nghiến răng siết cò bắn từng tràng đạn lửa. Những nụ cười ngây thơ, những cặp mắt vui sướng của các chàng lính trẻ đang dõi theo hàng ngàn viên đạn đỏ lừ như đàn châu châu chấu lửa bay ngang dọc khắp trời.... Mấy đứa rủ nhau tụ họp ở hầm tôi ngồi nói chuyện. Cả anh Tin A trưởng A6 cũng bò sang. Dạo này anh có vẻ quan tâm đến tôi tợn, hầu như tối nào cũng sang hỏi đủ thứ chuyện. Ở mặt trận mà được ngày ngừng bắn thích thật. Có lẽ đến hơn tháng nay tôi mới lại đi tắm. Thoải mái ra gần cái xe tăng cháy, chọn một hố bom nước trong vắt, hụp người xuống kỳ cọ. Sau đó tha thẩn đi chơi, nhặt được một cái dù pháo sáng mang về cho Chính con làm khăn quàng cổ. Chính con đem phơi ở bụi cây cạnh hầm, lúc sau ngó ra thì cái dù đã biến mất. Thật chán mớ đời!
Chợt thấy lính ta reo hò, tôi quay lại nhìn. Thì ra ông Vượng, Chính trị viên Tiểu đoàn, đang lò dò lên chốt. Tôi cười mỉm, nghĩ bụng: “Ngày ngừng bắn có khác...”. Nhiều người lính D3 cũng đang cười mỉm đứng nhìn. Trong thâm tâm, họ rất ghét những sĩ quan hèn nhát, lúc đạn bom thì chẳng bao giờ lên chốt. Thế mà ông ta đi đến đâu cũng vẫy vẫy, làm bộ mỉm cười, ra vẻ quan tâm đến lính tráng lắm. Nhìn sang phía địch, thấy bọn nó đi lại cũng có vẻ thoải mái. Ở một vài chỗ thậm chí lính ta và lính nó còn hỏi chuyện nhau. Bọn nó ném cơm sấy thịt hộp cho ta, ta ném lương khô 701 cho nó. Nhiều đứa chẳng qua là nông dân chất phác, bị bắt đi quân dịch, và chẳng hiểu gì về chính sách của ta cả. Thậm chí còn bị nhồi sọ rằng họ “chiến đấu để chống lại “Việt cộng” là tay sai của “Tàu cộng” vô xâm lược Miền Nam”!?....
Có chút thời giờ rảnh rỗi tôi thường qua hầm Long cồ chơi. Biết tôi bị mất hết quần áo, Long cồ cho tôi một cái áo ga-ba-đin mới. Tôi bèn cởi béng cái áo phin cộc tay đang mặc bên trong vứt đi, vì nó hôi quá rồi và cũng không có điều kiện để giặt nữa. Gia tài bây giờ có hai cái áo dài tay tôi mặc tất lên người, vì trời cũng bắt đầu lạnh rồi. Buổi tối hôm ấy có lệnh chuẩn bị đi tập kích, nhưng cuối cùng lại hoãn. Khoảng hơn 18h, hết hạn ngừng bắn, pháo địch từ Làng 5 lại bắt đầu phát hỏa. Tiếng đề-pa “Tùng... tùng tùng...tùng”, pháo dàn rồi. “Viu... viu viu... viu” “Oành... oành oành... oành”... Hàng loạt cột lửa màu da cam dựng lên ở phía Làng 9. Gần hầm DKZ của E64 có một tốp chiến sĩ đang đào hầm mới, dựng kèo và sườn bằng tre. Tôi lại gần xem, thì ra là lính Tiểu đoàn 1, E48, trong đó có cả Khuê (anh của Đệ, cùng A huấn luyện với tôi. Đệ đã đào ngũ). Khuê đang cùng một cậu tên Tập, cũng lính Hà Nội, dùng xẻng lấp cát lên hầm. Khuê cho biết một số bạn cùng C49 huấn luyện đã chết, và Khuê đang định đào ngũ. Tôi phải về ăn cơm, lúc sau quay lại thì ở đó vừa bị trúng hai quả pháo. Cậu Tập bị mảnh pháo vào chân, người ta khiêng đi rồi, Khuê nói thế. Sau này có lần tôi thoáng thấy cậu ta ở Hà Nội, nhưng không đến chào.
26-12-1972. Một ngày nắng đẹp. Từ sáng sớm chiếc OV-10 đã quần đảo liên tục. Ở Quảng Trị thằng này nó bay nhiều đến nỗi hôm qua ngừng bắn nó không bay, lại đâm nhớ. Không thể nào quên được cái tiếng “Ò... ò... ò... ” rất khó chịu, lúc to lúc nhỏ, lúc xa lúc gần của nó. Thỉnh thoảng nó lại bổ nhào, bắn “Cạch bùm” 1 phát pháo khói. Thế là lập tức bọn F4, A7 châu đến ngay, thi nhau bổ nhào ném bom vào chỗ nó chỉ điểm. Sau bữa trưa chỉ có cơm với muối, chúng tôi rửa bát bằng cách sục ca nhôm vào cát rồi chùi. Ở đây thì lấy đâu ra nước mà rửa bát. Có nước ở hố bom cách đó vài chục mét, nhưng ra lấy lại sợ bị pháo kích. Ca nhôm sạch rồi, chúng tôi tiếp tục xục thìa vào cát chùi. Những cái thìa ở Quảng Trị đẹp thật, thìa Mỹ có khác, vừa to vừa dày, bằng I-nox sáng loáng. Chùi xong chúng tôi cất thìa vào túi áo, cài khuy cẩn thận, “Quân tử phòng thìa” mà....
Tôi và Bích ngồi nhìn 2 chiếc A7 trắng toát đang quần đảo, ném bom ở một chỗ nào đấy. Đặc biệt khi bổ nhào chúng phun ra sau đuôi những dải sao băng sáng chói. Về sau mới biết đó là cách chúng chống lại tên lửa tầm nhiệt của ta. Nghe có tiếng súng 12ly7 bắn lên ở phía xa. Khoảng 30 phút sau, chừng hết dầu, chúng bay ra biển, nhưng chỉ có một cái bay đi. Tôi chờ mãi cái thứ hai mà không thấy. Buổi chiều nghe nói nó đã bị C16 hạ rồi. Sắp ăn cơm tối thì được lệnh chuẩn bị đêm nay đi tập kích. D trưởng Tùng, C-trưởng Hộ và B trưởng Thanh đang đứng trước cửa hầm nói chuyện. Lần này chúng tôi nhất định chiếm đồi Cây Ba Chạc. Hai lần trước D2 và C9 đã chiếm được, nhưng rồi để địch phản công giành lại mất. Lực lượng tấn công chính tối nay là C10, được bổ sung thêm B2 C11 của chúng tôi.
Trung đội 2 của chúng tôi được cấp trên rất tín nhiệm, vì là Trung đội Thép, đã lập nhiều chiến công trong đợt chiến đấu ở Làng 8, Thanh Hội vừa rồi. Lâm Thành và tôi được giao nhiệm vụ đi về Tiểu đoàn bộ lấy thêm đạn B41. Dọc đường chúng tôi gặp Danh Hòa, cũng là lính C49 cũ, bây giờ ở đội vận tải. Cậu ta đã mấy lần đào ngũ mà không thoát, bị bắt về C23 Lưu dung (Quân pháp quản lý), rồi đưa ra mặt trận làm lính vận tải. Tôi chỉ có thể nhắc nhủ Danh Hòa hãy cố gắng, biết đâu còn có ngày gặp nhau ở Quán Gió, Hà Nội, như những ngày từ Bãi Nai về phép. Nghe nhắc đến Hà Nội, cậu ta nở một nụ cười héo hắt. Mấy cậu vận tải rất nhát. Được lệnh tải đạn lên cho trận đánh tối nay, mang đến trước hầm tôi là họ vứt bừa ra hào. Nào đạn cối 82, cối 60, liều phóng, nào đạn AK, đại liên, DKZ... nằm lổng chổng.
Ăn cơm xong chúng tôi ra hào vác về một thùng đạn AK rồi khui ra. Tất cả các băng đạn được thay đạn mới hoàn toàn. Tôi lèn chặt 4 băng đầy (120 viên), buộc vải che cát cẩn thận. Đầu nòng và khóa nòng được bọc bằng bao cơm sấy, vì tôi rất sợ bị cát rơi vào. Bình “cống” (Trần Bình) là lính thông tin mang máy 2W được phái xuống đi với C11 đợt này. Cậu ta vào tiếp thu hầm của tôi. Hai đứa ngồi hàn huyên một lúc lâu. Chợt thấy anh Hưởng, Chính trị viên C11, ngó đầu vào gọi “Đi nào!”. Tôi vội đi giày TQLC, khoác súng, dặn Bình “cống” giữ hộ cái xẻng gấp cùng đôi dép đúc, rồi vội vã chạy ra.
"Bình cống mang máy 2W được phái xuống đi với Đại đội tôi...".
Vừa chạy tôi vừa buộc lại dây bao đạn. Ngay sau tôi là Chính con, trước đó một quãng là anh Thanh.
Trăng đêm nay sáng quá. Chợt nghe loáng thoáng phía trên có ai hỏi tên Vinh, nhìn lên thì thấy Chí Thành đang đứng cạnh hào. Đêm nay cậu ta giữ máy 2W ở hầm Tiểu đoàn bộ, phụ trách liên lạc với các đơn vị trực tiếp tham chiến. Gặp tôi, Chí Thành nói: “Sẽ gay lắm đấy, nhưng cố lên Vinh nhé. Chúc Vinh may mắn...”. Tôi đưa gửi cậu ta chiếc đồng hồ nhặt được của địch hôm nọ. Siết chặt tay từ biệt, tôi vội chạy nhanh cho kịp đội hình.
Lại vòng qua cái hố bom to, rồi đến hầm DKZ của E64. Nghe nói ở đây vừa trúng pháo kích, hầm sập, cậu Hải “râu” bị sức ép gần chết. Trung đội 1 của C11 đang chốt chỗ chúng tôi nằm hôm nọ được lệnh rút về. Pháo tầm xa của ta bắt đầu bắn mở đường về phía Đồi Cây Ba Chạc. Gặp cậu Đạt, cùng C49 cũ, nay là lính C14, đang đứng cạnh khẩu cối 82. Mấy khẩu cối 82 của C14 và của Tiểu đoàn 1 đang bắn bậm bạch về phía địch. Bọn địch bắn hỏa châu lên ghê quá, sáng rực cả góc trời. Chúng tôi phải ngồi đợi một lúc. Khi tôi nhìn lên thì không thấy ai nữa, anh Thanh đã đi từ lúc nào. Tôi vội khoát tiểu đội chạy tiếp. Vừa đến một đoạn hào nông choèn thì bất chợt một quả hỏa châu rơi ngay bên cạnh, cháy rực lên trước khi tắt. Cả bọn hốt hoảng vì giữa nền sáng chói hình bóng chúng tôi nổi lên rất rõ. May thay không thấy phía địch phản ứng gì. Rồi cũng gặp được anh Thanh cùng hai tiểu đội khác đang ngồi dọc một đoạn hào, cạnh mấy cái hầm. Tôi trách anh đã bỏ rơi A tôi, anh nói chắc lại thằng nào đó không truyền lệnh tiếp về phía sau. Cậu Tường Hải Phòng, liên lạc đại đội, chạy tới đề nghị anh Thanh phân tán bộ đội vào các hầm ngồi chờ. Kế hoạch là C10 sẽ tấn công trước. Khi đã chiếm được Cây Ba Chạc rồi thì B2 của tôi sẽ lên chốt giữ.
Tôi và Chính con vào ngồi trong một cái hầm chật như ngôi mộ. Đạn pháo lớn của ta từ xa bay tới, kêu “O... o...” trên đầu, rồi nổ như sấm sét bên phía địch. Cỡ này phải 122ly, hay 130ly, chứ chả chơi. Pháo địch cũng thi nhau bắn ầm ĩ. Chợt chúng tôi nghe rộ lên tiếng súng 12ly7 “Pình... pình... pình...” hòa lẫn vào tiếng cối 82 “Pùng... pục...”. C10 bắt đầu tấn công rồi. Giữa những tiếng nổ hỗn loạn, tôi cố tìm nghe tiếng súng AK mà không thấy. Được khoảng 30 phút thì cậu Tường liên lạc chạy tới kêu lớn: “Chiếm được Cây Ba Chạc rồi! B2 vận động lên!”.
Tôi vội cùng Chính con lao ra khỏi hầm. Dưới ánh trăng và ánh hỏa châu sắp tắt, trong khói đạn mờ mờ, chúng tôi chạy theo một hàng dọc. Bốn bề các loại đạn vẫn nổ tứ tung. Chợt một loạt hỏa châu mới vọt lên, trời đất sáng rực, cả bọn vội rạp người nằm xuống. Sáng đến nỗi có rơi cái kim cũng tìm thấy. May thay đến được một đoạn hào đây rồi. Tất cả nhảy xuống bò đi tiếp. Quái, sao lính C10 còn nằm đầy ở đây?.
Ba chiến sỹ đang xúm quanh khẩu B41 giục nhau bắn. Chỗ này chỉ cách hào địch chừng 50m. Tôi bò qua cái hầm nhỏ, trong đó một cán bộ chỉ huy của C10 đang giục cậu Sơn, lính thông tin 2W, báo cáo về Tiểu đoàn. Sơn gào vào ống Tổ hợp: “Mỗi chúng tôi chỉ còn 5 viên kẹo... còn có 5 viên kẹo thôi!...”. Thì ra họ vẫn chưa chiếm được Cây Ba Chạc, nhưng đã yêu cầu chúng tôi vận động lên phía trước! Đạn cối cá nhân của địch nổ liên tục. Rồi đạn pháo các cỡ, đạn M72 rít xoèn xoẹt ghê người. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn tiếp tục bò lên phía trước. Anh Thanh bò đầu tiên, thỉnh thoảng dừng lại, thò đầu lên khỏi hào quan sát. Rồi đến tôi, đến Bích mang B40, đến Chính...
Hai Tiểu đội khác bò rải rác phía sau. Lợi dụng một loạt hỏa châu vừa vụt lên trời, tôi thò đầu lên nhìn sang phía địch. Không thể nào quên được hình ảnh đồi Cây Ba Chạc đêm ấy. Đó là một gò cát nhỏ, bên trên mọc mấy thân cây trơ trụi, cong queo. Cây cao nhất có 3 cái chạc khẳng khiu chìa ra 3 phía. Nhìn chúng thật ma quái trong màn khói đạn và ánh hỏa châu vàng vọt. Đúng là một mảnh đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, thế mà ta và địch đã giành giật nhau không biết bao nhiêu hiệp. Mỗi tấc đất ở đây phải thấm đẫm hàng lít máu người, có lẽ chỉ ít hơn trong Thành cổ một chút. Ngay dưới chân gò là chiến hào của địch, tôi đã thấy những chiếc mũ sắt nhấp nhô.
“Cạch oành... Cạch oành...”, chúng bắn M79 liên tục. Đạn nổ tóe hoa cà hoa cải khắp nơi. Phát hiện thấy cái gì động đậy là chúng bắn điên cuồng. Chính con giương AK bắn 1 loạt. Lập tức đạn cối cá nhân bay đến tới tấp, làm chúng tôi không thể nào ngóc cổ lên được. Lại đến lượt anh Thanh nhổm dậy bắn. Địch cũng đáp trả bằng hàng chục quả M79. Sở dĩ chúng phản ứng được, vì mỗi khi ta bắn, lửa đầu nòng nhìn khá rõ. Tôi bèn nói: “Lựu đạn thôi.... Đừng bắn... Lựu đạn thôi!”. Một khẩu đại liên M60 của địch đang bắn điên cuồng. Nghe tiếng nổ rất gần, chắc chỉ cách chừng 30m. Tôi và anh Thanh căng mắt nhìn, mà vẫn chưa xác định được vị trí của nó, vì cứ phải thụt đầu xuống liên tục. Chà, bọn chúng bắn cả đạn chống tăng M72 vào chúng tôi. Giữa những tiếng nổ ghê người, nhưng sao tôi vẫn thấy rất bình tĩnh. Tôi nằm dưới hào, nhìn những dây đạn đại liên đỏ lừ đang đan ngang đan dọc trên đầu, trong lòng thầm nghĩ: “Sao mà đẹp thế”. Mà đẹp thật, cứ 5 viên xanh 1 viên đỏ, nối tiếp nhau như một chuỗi ngọc dài dặc.
Cuối cùng chúng tôi cũng xác định được vị trí của khẩu đại liên sau một mô đất. Anh Thanh nhổm lên ném một quả lựu đạn. Tôi nhìn theo, nó nổ cách mục tiêu khá xa, chắc vì khi ném không đủ đà. Tôi nói với anh Thanh: “Anh bắn yểm trợ cho em ném nhé!”. Anh nói “Được”. Rồi vẫn nấp ở bên dưới, nhưng 2 tay anh nâng súng lên khỏi miệng hào, chĩa về phía khẩu đại liên xả đạn liên tục. Bị bắn rát quá, súng địch tạm ngưng 1 lúc. Nhân thời cơ đó, tôi bật chốt quả mỏ vịt, đếm đến 4, rồi đứng thẳng người lên, dùng hết sức vung tay lấy đà ném nó đi. Quả lựu đạn rơi trúng sau mô cát, chạm đất nổ ngay. Trong quầng sáng mầu da cam còn kịp thấy khẩu đại liên cùng hai bóng người bị nhấc lên rồi rơi phịch xuống. Hỏa điểm địch câm bặt, nhưng vị trí của tôi cũng bị lộ rồi. Tôi vừa nằm xuống thì hàng chục quả M79 đã bay đến tới tấp.
Sau mỗi tiếng “cạch oành” là hàng trăm viên bi bay đi rào rào. Rồi M72, cối 81, pháo 105... nổ liên tục. Đạn rít chíu chíu, mảnh bay vèo vèo, rơi lịch xịch khắp nơi. Tất cả chúng tôi nằm ép người xuống con hào nông choèn, chịu trận. Địa ngục chắc cũng chỉ đến thế này mà thôi. Chợt như có ai cầm cái búa đinh giáng thẳng vào phía sau đỉnh đầu tôi. Mắt tôi nổ hoa cà hoa cải, một dòng máu nóng chảy từ đầu xuống cổ. Một mảnh pháo nhỏ đã xuyên qua chiếc mũ cối, cắm phập vào vùng chẩm sau đầu, làm lún một mẩu xương sọ. Tôi chỉ kịp “hức” lên 1 tiếng, rồi chìm ngay vào đêm tối mênh mông...
Các bạn thân mến, cuộc chiến đấu của tôi trên Chiến trường Quảng Trị đến đây là hết. Dứt cơn bão lửa, thấy tôi còn thở, anh Tài B phó đã cõng tôi chạy về tuyến sau. Rồi được hai cậu lính vận tải khiêng võng đưa về Phẫu tiền phương 62 bên bờ một con lạch. Ngay đêm hôm sau tôi được chở bằng xuồng máy, chắc là xuôi sông Thạch Hãn, qua kênh đào nối với sông Bến Hải, ra Phẫu 48 Vĩnh linh.
Khi tôi tỉnh dậy thì đã thấy mình nằm ở Vĩnh Long, Vĩnh Linh, ngoài miền Bắc rồi. Tiếp theo đó là những ngày dài dằng dặc điều trị vết thương ở Phẫu 48 Vĩnh Linh, Quân y viện 112 Quảng Bình, Quân y viện 108 Hà Nội. Cũng nhiều chuyện vui buồn, nhưng chắc ít người quan tâm, nên chẳng muốn làm mất thì giờ của các bạn làm gì. Còn người bạn thân của tôi, Vũ Chí Thành, anh lính thông tin đeo máy 2W, thì ba tuần sau đó mới bị hy sinh, trong trận ngày 17-01-1973, khi địch dốc toàn lực quyết đánh chiếm chốt Long Quang. Bình “cống” bị thương vào đầu dịp đấy, được đưa ra Phẫu 48 Vĩnh Linh nằm cạnh tôi, đã kể lại mọi chuyện. Diễn biến của trận này tôi đã ghi lại dưới đây.
Cái chết của chiến sĩ Vũ Chí Thành
Vũ Chí Thành là chiến sĩ thông tin vô tuyến ở Trung đội thông tin thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B, mặt trận B5 Quảng Trị. Khoảng trung tuần tháng 1-1973 Tiểu đoàn 3 đang trấn giữ chốt Long Quang, trên địa phận xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong. Trong biên chế Tiểu đoàn có ba đại đội bộ binh (C9, C10, C11) và một đại đội hỏa lực C12 (DKZ82, Cối 82 và 12ly7). Ba đại đội bộ binh thay phiên nhau lên tuyến trước, nơi gần địch nhất, để giữ chốt. Đại đội hỏa lực và Sở chỉ huy Tiểu đoàn cùng các Trung đội Thông tin, Quân y, Vận tải... nằm ở tuyến giữa và tuyến sau, làm nhiệm vụ yểm trợ. Vũ Chí Thành được cử đeo máy 2W xuống phối thuộc với Đại đội 11. Đồng đội Trần Bình thì trực máy 2W ở Tiểu đoàn. Thời kỳ này đang phong thanh tin đồn là Hiệp định Paris sắp được ký kết, nên ta và địch đều tìm cách chiếm chốt của nhau, để lấn đất.
Ngày 17-01-1973 địch tập trung một lực lượng rất mạnh, tấn công quyết liệt nhằm tiêu diệt chốt Long Quang của ta. Sau một hồi bắn phá dữ dội bằng pháo binh, pháo biển và đạn cối đủ loại, địch cho hàng chục xe tăng, xe bọc thép cùng hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến xung phong ồ ạt vào trận địa ta. Trận này địch áp dụng một chiến thuật rất liều lĩnh làm quân ta bị bất ngờ. Cụ thể là chúng không đánh vỗ mặt vào chốt của ta như mọi ngày, mà tập trung xe tăng thiết giáp khoan thủng phía bên trái tuyến phòng thủ của ta (phía gần biển). Từ lỗ thủng này, chúng tiến sâu lên phía bắc, rồi ngoặt trái đánh thẳng vào sườn của Tiểu đoàn 3. Thành ra cùng một lúc cả ba tuyến của D3 đều chạm địch. Bị bất ngờ nhất là các chiến sĩ thông tin, vận tải, hậu cần... ở tuyến sau và C12 (12ly7, Cối 82, DKZ82) ở tuyến giữa. Họ đang chúi đầu trong các hầm hào để tránh cơn mưa pháo, thì chợt nghe tiếng động cơ gầm rú. Khi ngẩng đầu lên nhìn thì đã thấy cả bầy chiến xa bò lổm ngổm ngoài bãi cát, vừa tiến vừa bắn điên cuồng. Đi đầu là những chiếc xe tăng M48, M41 với vỏ thép dày và hỏa lực mạnh. Tiếp đến là những xe M113 phun lửa và pháo tự hành M50.
Lần đầu tiên lính ta mới nhìn thấy những chiếc M50 kỳ quái, trông giống như một xe tăng nhỏ, nhưng không có tháp pháo, mà mang trên lưng 6 nòng DKZ 106ly. Cuối cùng là một đoàn M113 chở lính. Lúc này bọn Thủy quân lục chiến đã rời khỏi xe bọc thép, dàn thành đội hình hàng ngang, vừa chạy vừa bắn vừa hô “Xung phong”. C11 đang nằm nghỉ dưỡng sức ở tuyến 2, sau một tuần chốt trên tuyến 1, tự nhiên phải hứng chịu mũi dùi tiến công của địch. Đại đội trưởng Hộ bị trúng thương ngay từ loạt đạn đầu. Chính trị viên Phùng thì đã hy sinh từ 3 tuần trước. Cán bộ chỉ huy duy nhất còn lại là Chính trị viên phó Hưởng, lại đang đi họp vắng. Tình hình của Đại đội 11 rất nguy ngập, đạn dược gần cạn. Vũ Chí Thành ngồi trong hầm của C-bộ, mở máy 2W gọi về Tiểu đoàn xin tăng viện và cung cấp đạn. Nhưng trên Tiểu đoàn bộ cũng đang gay go không kém, địch đã vào gần đến nơi. Đích thân Tiểu đoàn trưởng Tùng và Tiểu đoàn phó Căn phải cùng các chiến sĩ vận tải, quân y... dùng AK bắn chặn địch. Trần Bình đành trả lời Chí Thành, là Tiểu đoàn trong lúc này đã hết khả năng chi viện, C11 phải tự lo liệu lấy, cố gắng tử thủ chờ Trung đoàn vào tiếp sức.
Tình hình của C9 đang chốt trên tuyến 1 còn gay go hơn nữa. Địch tấn công từ hai phía, các chiến sĩ C9 đã bắn đến viên đạn cuối cùng, diệt được hai xe tăng, rồi bị địch tràn ngập. C9 vỡ trận, hàng chục chiến sĩ hy sinh. Nhiều người chạy được về phía sau, nhưng một số bị địch bắt sống... Chỗ C12 cũng bi đát không kém. Đợt tấn công đầu của địch bị hỏa lực ta đẩy lui, một xe tăng M41 trúng đạn tuột xích. Chúng lùi ra, bắn phá dữ dội, rồi xông lên tiếp. Đạn dược quân ta cạn dần. Xe tăng địch tràn vào được trận địa của Trung đội 12ly7, đè bẹp cả 2 khẩu đội này. Chúng dùng xích xe chà đi chà lại trên nóc hầm nhằm chôn sống những chiến sỹ còn nằm dưới đó. Trung đội trưởng Triều, y tá Tiến cùng 5 chiến sĩ C12 bị địch bắt sống. Trong số đó có cả Nguyễn Xuân Bình, bạn học lớp 10C cùng Trường Hai Bà Trưng với tôi. May cho Xuân Bình là chỉ bị địch giam giữ chừng 3 tháng, rồi được trao trả ở Lộc Ninh sau khi Hiệp định Paris được ký kết....
Cách đó khoảng 100m, Tiểu đội trưởng Quế “Khương Trung” mang khẩu DKZ82 ra định lắp vào giá súng, nhưng không kịp. Thấy xe tăng địch đang rầm rầm xông đến, Quế hô chiến sĩ Quỳnh “Thái Bình” đem đạn ra ngay, nạp vào súng. Rồi không cần giá súng, Quế vác nòng khẩu DKZ82 lên vai, nhằm thẳng chiếc M48 đang chạy xế trước mặt bóp cò. Một quầng lửa da cam cùng tiếng nổ chói óc vang lên, chiếc xe tăng bốc cháy ngùn ngụt, không một tên địch nào sống sót...
Cuộc chiến đấu ở khu vực Tiểu đoàn bộ càng lúc càng quyết liệt. Địch đã vào đến tầm ném lựu đạn. Chúng đồng loạt ném hàng chục quả mỏ vịt vào chiến hào ta. Một quả nổ ngay trước cửa hầm Thông tin, làm Trần Bình đang trực máy 2W ở bên trong bị thương. Mảnh lựu đạn đã phạt bay một mẩu xương sọ bên phải đầu, làm Trần Bình ngất đi... Ở tuyến C11, địch đã xông đến khu vực C bộ. Chỗ đó có hai hầm cách nhau khoảng 20m, được nối liền bởi một đoạn hào nông choèn. Trong một hầm có hai cậu liên lạc của C11, là Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”. Trong hầm kia thì Chí Thành đang gọi vào máy 2W tìm cách liên lạc với Tiểu đoàn.
Chợt nghe hàng tràng “cực nhanh” M16 nổ ngoài hào. Chí Thành vừa ngó ra thì đã thấy mấy bóng áo rằn ri ngoài cửa hầm. Một loạt đạn M16 vang lên, Chí Thành gục xuống bên máy 2W... Từ cửa hầm đối diện, Lâm Thành xả một tràng AK hạ gục tên địch vừa bắn Chí Thành. Nhưng lúc này bốn bề đều có địch. Hai chiến sĩ trẻ của C11, là Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”, đã dựa lưng vào nhau, chĩa súng AK ra hai phía bắn như điên. Mặc cho máu đang ròng chảy trên mặt một người và máu thấm đẫm vạt sườn người kia, hai anh vẫn bắn không ngừng, bắn mãi... Đây là lần thứ hai ở Quảng Trị, sau lần trước ở Ngã ba Long Hưng, La Vang, Thành cổ, Tiểu đoàn 3 gần như bị xóa sổ. Nhưng tinh thần chiến đấu kiên cường và lòng dũng cảm vô biên của các chiến sĩ D3 đã làm thất bại âm mưu chiếm chốt Long Quang của địch.
Ngay buổi chiều hôm đó, Trung đoàn 48 đã kịp điều động Tiểu đoàn 2 lên đánh phản kích. Hầu hết những điểm chốt bị mất buổi sáng đã được quân ta chiếm lại. Khi kiểm tra trận địa, thấy Chí Thành và Trần Bình bị thương nặng, mọi người đã khiêng hai anh cùng các thương binh khác về Phẫu tiền phương 62. Nằm cạnh Chí Thành ở Phẫu tiền phương, nhưng vì bị thương vào đầu nên Trần Bình ngất lên ngất xuống. Còn Chí Thành bị thương vào bụng, khá tỉnh táo, có thể trả lời rành rọt các câu hỏi của y, bác sĩ. Người ta nghĩ chắc không nghiêm trọng lắm, bèn khiêng anh đặt xuống hầm thùng cùng nhiều thương binh khác, chờ đến lượt tải thương.
Hầm thùng là những căn hầm nửa chìm nửa nổi, bên trên lợp mái tranh. Tuy nhiên những trận mưa dầm dề đã biến đáy hầm thành 1 lớp bùn nhão nhoét. Ba viên đạn xuyên vào sườn làm phân và nước tiểu tràn ra ổ bụng, lại thêm điều kiện vệ sinh như vậy, nên Chí Thành đã bị nhiễm trùng uốn ván. Chắc trong đêm anh bị sốt cao và phải chịu những cơn co giật đau đớn lắm. Đến sáng 19-01-1972 thì Vũ Chí Thành đã chết cứng. Người ta khiêng anh đi chôn như khiêng một khúc gỗ vậy... Thường những người bị đạn vào đầu hay được ưu tiên chuyển thương trước, vì vậy ngay đêm hôm đó Trần Bình được chở bằng xuồng máy ra Phẫu 48 Vĩnh Linh, nằm cạnh tôi. Cậu ta đã kể lại toàn bộ câu chuyện về những ngày cuối cùng của Vũ Chí Thành.