Nguyên tác: 1973年のピンボール – 1973–Nen No Pinbouru
Số lần đọc/download: 0 / 99
Cập nhật: 2025-02-16 13:53:15 +0700
Chương 11
S
áng thứ năm, cặp song sinh gọi tôi dậy. Mười lăm phút sớm hơn thường lệ, song tôi chẳng hề nhận ra trong lúc cạo râu, uống cà phê, đọc qua tờ báo buổi sáng vẫn còn dính mực in mới.
“Bọn em muốn nhờ anh một việc,” một người nói.
“Anh xem có thể mượn một chiếc xe vào chủ nhật này không?” người còn lại hỏi.
“Chắc được,” tôi đáp, “nhưng mà hai em muốn đi đâu?”
“Đến hồ thủy điện.”
“Hồ thủy điện?”
Cả hai gật đầu.
“Hai em muốn làm gì ở hồ thủy điện?”
“Làm lễ tiễn biệt.”
“Cho ai?”
“Cái bảng chuyển mạch.”
“Ra là thế,” tôi nói, đoạn quay trở lại với tờ báo.
Rủi thay, đến chủ nhật lại có mưa tí tách từ suốt buổi sáng. Phải nói rằng, tôi cũng chẳng biết thời tiết kiểu gì thì mới phù hợp để tổ chức đám tang cho một cái bảng chuyển mạch. Cặp song sinh không đả động gì đến chuyện mưa, nên tôi cũng làm thinh.
Tối thứ bảy tôi mượn chiếc Volkswagen màu xanh lơ của người bạn. Cậu ta nói bóng nói gió rằng tôi đã cua được em nào, tôi cũng đành ừm một tiếng để đáp lại.
Băng ghế sau của con bọ bị ố một vệt, chắc là do đứa con làm đổ sữa sô cô la lên, có điều trông nó như vết máu từ một cuộc đọ súng máy. Ông bạn tôi không có lấy nổi một cái cát-sét tử tế nào để cho vào đài trong xe, nên chúng tôi đi hết chặng đường một tiếng rưỡi đến hồ thủy điện mà không có nhạc, cứ lái đi mà không nói một lời. Trên đường, cơn mưa cứ lớn lên rồi lại ngớt, rồi lại lớn, rồi lại ngớt, luân hồi theo những khoảng đều đặn. Mưa như thế, đủ khiến cho người ta phải ngáp.
Âm thanh độc nhất là tiếng vun vút của những chiếc xe phóng ngang qua trên đường cao tốc.
Cặp song sinh, một cô ngồi hàng ghế đầu, người còn lại ngồi phía sau ôm túi đựng đồ đựng một bình giữ nhiệt và cái bảng chuyển mạch đã hỏng. Tâm trạng của cả hai đều buồn rầu đúng với tinh thần của ngày đưa tang. Thế là tôi cũng noi theo. Chúng tôi thậm chí vẫn buồn rầu trong lúc ghé lại một trạm nghỉ bên đường để ăn bắp ngô nướng.
Chỉ có tiếng hạt ngô nảy tách tách là phá bĩnh bầu không khí ủ ê. Chúng tôi bỏ lại ba bắp ngô gặm sạch bách đến hạt cuối cùng, rồi quay trở vào trong xe và lại tiếp tục đi.
Xung quanh nhiều chó kinh khủng, chạy lang thang vô định trong cơn mưa như những đàn cá cam trong thủy cung. Thế nên chúng tôi phải bấm còi liên hồi. Nhìn cái vẻ mặt của chúng thì, cả cơn mưa lẫn cái xe đều chẳng làm chúng bận tâm là mấy. Thông thường, chúng sẽ lộ rõ vẻ cáu kỉnh khi nghe tiếng còi xe, nhưng rồi vẫn né qua một bên. Còn dĩ nhiên, mưa thì chẳng có cách nào né được. Lũ chó ướt như chuột, từ đầu đến đít; một số trông như đám trẻ cù bơ cù bất trong tiểu thuyết của Balzac, số khác trông như các sư phật đang tịnh tâm.
Cô song sinh ngồi bên cạnh đưa một điếu thuốc lên miệng tôi, châm cả lửa cho luôn. Thế rồi cô đặt bàn tay nhỏ lên chỗ đũng quần cốt tông của tôi, và bắt đầu mơn trớn. Cái hành động đó giống như trấn an hơn là kích thích.
Cơn mưa dường như sẽ cứ rơi mãi mãi. Mưa tháng mười vốn vậy. Mưa đều đều, không ngớt, cho đến khi mọi thứ ướt sạch sành sanh. Mặt đất sũng nước. Cây cối, đường quốc lộ, cánh đồng, những chiếc xe, ngôi nhà, lũ chó – không từ một thứ gì, mọi vật ngập trong mưa, đong đầy thế giới trong hơi lạnh vô vọng.
Con đường dẫn lên những quả đồi, và sau rốt chúng tôi cũng đi ra được khỏi rừng đến bờ hồ thủy điện. Nhờ cơn mưa mà không thấy một bóng người nào khác. Xa đến hết tầm mắt, cơn mưa trút xuống khắp mặt hồ thủy điện.
Khung cảnh hồ mưa gió não nùng hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Chúng tôi đậu xe cạnh bờ hồ, ngồi uống cà phê đựng trong bình giữ nhiệt và ăn bánh quy mà cặp song sinh mang theo. Có ba loại bánh quy: kem cà phê, kem bơ, và sirô lá phong, được chúng tôi chia ra để mỗi người đều có đủ phần.
Suốt lúc ấy, mưa vẫn trút lặng lẽ và không ngừng nghỉ trên mặt hồ. Tiếng mưa nghe như tiếng mẩu giấy báo rơi lên một tấm thảm lông dày. Hệt như cơn mưa rơi trong mấy bộ phim của Claude Lelouche.
Khi đã chén xong bánh quy và mỗi người đã uống đủ hai cốc cà phê, chúng tôi đều đồng loạt phủi đùi như tuân theo một quy ước định trước. Không ai nói gì.
“Thôi nào, làm đi cho xong,” một cô song sinh nói.
Người còn lại gật đầu.
Tôi tắt điếu thuốc.
Chúng tôi đi tới cuối của một lối đi hẹp xây ngang mặt hồ mà không buồn mở ô lên. Cái hồ thủy điện này được tạo ra bằng cách ngăn đập con sông lại. Mặt nước cong lên phi tự nhiên ở nơi sóng vỗ vào lòng của khu sườn đồi. Màu của mặt nước tạo cho người ta một cảm giác sâu hoắm đến rùng mình. Hạt mưa làm cho những gợn lăn tăn xuất hiện ở khắp nơi.
Một trong hai cô song sinh lấy cái bảng chuyển mạch yêu dấu của chúng tôi ra khỏi túi giấy và đưa nó cho tôi. Dưới mưa, cái bảng chuyển mạch trông lại càng sầu thảm.
“Anh hãy nói lời cầu nguyện đi.”
“Cầu nguyện ấy hả?” tôi ớ ra.
“Đám tang mà, phải có lời tiễn biệt.”
“Anh không nghĩ đến,” tôi nói. “Chưa chuẩn bị gì cả.”
“Không quan trọng đâu, nói gì cũng được.”
“Hình thức ấy mà.”
Tôi tìm kiếm một vài từ ngữ thích hợp, trong lúc ướt nhẹp từ đầu đến chân.
Cặp song sinh liếc từ tôi sang cái bảng chuyển mạch với vẻ lo lắng trên mặt.
“Nghĩa vụ của triết học,” tôi dựa theo lời Kant, “là xóa bỏ đi ảo tưởng sinh ra từ những hiểu lầm. Hỡi bảng chuyển mạch! Ngươi hãy yên nghỉ ở nơi lòng hồ.”
“Ném đi anh.”
“Hả?”
“Cái bảng chuyển mạch.”
Tôi lấy đà, và quăng nó lên một góc bốn mươi lăm độ bằng hết sức lực. Cái bảng chuyển mạch bay một đường vòng cung hoàn mĩ qua cơn mưa, rồi rơi xuống nước. Những gợn sóng chậm rãi tỏa ra, cuối cùng lan đến chân chúng tôi.
“Lời cầu nguyện hay lắm.”
“Anh tự nghĩ ra à?”
“Chứ còn sao nữa,” tôi nói.
Kế đến ba chúng tôi, ướt sũng như lũ chó, đứng chụm vào nhau và nhìn băng qua hồ.
“Sâu cỡ nào nhỉ?” một người hỏi.
“Rất sâu,” tôi đáp.
“Có cá không?” người còn lại cũng hỏi.
“Hồ rộng cỡ này bao giờ cũng có cá.”
Từ đằng xa, ba chúng tôi đứng đó chắc hẳn phải trông như một tấm bia tưởng niệm đặc sắc nào đấy.