Nguyên tác: The Borrowers (The Borrowers #1)
Số lần đọc/download: 2675 / 62
Cập nhật: 2018-03-18 01:33:44 +0700
Chương 13
B
à Homily đang là ủi, khom người mà đập, và hất tóc về phía sau cho khỏi vướng mắt. Khắp cả căn phòng đều là quần áo lót được hong khô trên những chiếc kim băng mà bà Homily dùng làm mắc áo.
“Chuyện gì xảy ra vậy?” bà Homily nói. “Con bị ngã à?”
“Vâng,” Arrietty nói, lặng lẽ bước đến chỗ của mình bên cạnh đống lửa.
“Thế việc tập có linh cảm đến đâu rồi?”
“Ồ, con không biết,” Arrietty nói. Cô bé chụm đầu gối lại và tựa cằm lên.
“Miếng đan của con đâu?” bà Homily hỏi. “Mẹ không biết gần đây con bị làm sao nữa. Lúc nào cũng vẩn vơ. Con bị mệt phải không?”
“Ôi,” Arrietty kêu lên, “hãy để con yên!” Và riêng lần này bà Homily đã lặng thinh. “Đó là vì tiết trời mùa xuân,” bà tự nhủ. “Cũng thường ảnh hưởng đến mình như thế hồi ở tuổi nó.”
“Mình phải gặp cậu bé đó,” Arrietty nghĩ - đờ đẫn nhìn vào đống lửa. “Mình phải nghe điều gì đã xảy ra. Mình phải nghe liệu họ nói có đúng không. Mình không muốn chúng mình bị tuyệt chủng. Mình không muốn trở thành Người Vay Mượn cuối cùng. Mình không muốn” - và đến đây Arrietty gục mặt xuống đầu gối - “sống mãi mãi và mãi mãi như thế này... ở trong bóng tối... dưới sàn nhà...”
“Không cần dọn bữa ăn tối,” bà Homily nói, phá vỡ sự im lặng, “bố con đang đi mượn. Ở phòng Bà. Và con biết điều đó có nghĩa là gì!”
Arrietty ngẩng đầu lên. “Không,” cô bé nói, gần như không nghe, “điều đó có nghĩa là gì?”
“Là ít nhất trong hơn một tiếng rưỡi nữa bố con sẽ không về,” bà Homily gắt gỏng nói. “Bố con thích ở trên đó, nói chuyện phiếm với Bà và nhìn ngó xung quanh trên bàn phấn. Và cũng đủ an toàn một khi cậu bé đã lên giường. Cũng không có gì ta đặc biệt cần lắm,” bà nói tiếp. “Các kệ giá bố vừa mới làm. Bố bảo nom chúng trống không nên bố bảo bố có thể đi kiếm một vật nhỏ nào đó...”
Arrietty đột nhiên ngồi thẳng dậy: một ý nghĩ vụt hiện ra, làm cô bé nín thở và hơi run run đầu gối. “Hơn một tiếng rưỡi,” mẹ cô đã nói thế, và những cái cổng đang mở!
“Con đi đâu đấy?” bà Homily hỏi trong khi Arrietty đi đến cửa.
“Chỉ sang các phòng kho thôi,” Arrietty vừa nói vừa với một tay che nến tránh khỏi gió lùa. “Con sẽ không đi lâu đâu.”
“Này con đừng làm bừa nhé!” bà Homily kêu vọng về phía cô bé. “Và cẩn thận ngọn lửa đó!”
Trong lúc đi dọc hành lang, Arrietty nghĩ, “Thật mà. Mình đang đi đến phòng kho - để tìm một cây kim kẹp mũ nữa. Và nếu mình tìm được một cây kim mũ (và một sợi dây - sẽ không có ruy băng đâu) mình vẫn sẽ ‘không đi lâu’ vì mình phải quay về trước bố. Và mình đang làm việc này vì họ,” cô bé gan lì tự nhủ, “và một ngày kia họ sẽ cảm ơn mình.” Thế nhưng cô bé vẫn cảm thấy mình có lỗi. “Tinh ranh” - đó là điều mà bà Driver có thể nói về cô bé.
Có một cây kim mũ - một cái có thanh ngang trên đầu - và cô bé buộc một sợi dây, rất chặt, cuộn nó lên xuống thành hình số tám và, trong cảm hứng dâng trào, cô bé gắn nó vào bằng sáp nến.
Những cánh cổng đang mở và cô bé để nến ở giữa hành lang nơi nó sẽ không gây nguy hiểm, ngay dưới cái lỗ cạnh đồng hồ.
Khi cô bé trèo vào cái hành lang vĩ đại thì nơi đó tờ mờ với những khoảng tối. Ngọn đèn ga vặn nhỏ phát ra một vòng ánh sáng bên cạnh cửa chính được khóa trái và một ngọn đèn khác lung linh trên chiếu nghỉ giữa cầu thang. Trần nhà cao hút và tối, xung quanh là khoảng trống. Phòng trẻ, cô bé biết, ở cuối hành lang tầng trên và cậu bé đang ngủ - mẹ cô đã nói thế.
Arrietty đã quan sát bố dùng cây kim cắm lên ghế, và lên từng bậc cầu thang, nếu so ra thì dễ hơn. Sau giây lát sẽ thành một kiểu nhịp: quăng, kéo, trèo, và một cú đu người lên trên. Các thành cầu thang lóe sáng lạnh lùng, nhưng đống thảm có vẻ mềm và ấm, đặt chân xuống thật dễ chịu. Trên chiếu nghỉ cầu thang cô bé dừng lại thở. Cô bé không sợ sự mờ tối; cô bé sống ở trong bóng tối; đối với cô bé thì như vậy chẳng khác gì ở nhà và những lúc thế này, cô bé cảm thấy an toàn.
Trên đầu cầu thang cô bé nhìn thấy một cánh cửa đang mở và một ô vuông lớn tỏa ánh sáng vàng như một chướng ngại vật nằm ngang hành lang. “Mình phải đi qua chỗ đó,” Arrietty tự nhủ, cố gắng can đảm. Bên trong căn phòng được chiếu sáng, một giọng đang nói, đều đều. “... Và con ngựa cái này,” giọng đó nói, “là một con năm tuổi mà thực ra là của người anh em tôi ở Ailen, không phải anh mà là em trai tôi, vốn là chủ của Bí Tắc và Ôi Cưng. Ông ấy đã cho nó tham gia nhiều cuộc đua ngựa vượt rào... nhưng tôi nói ‘nhiều’ tức ý tôi là ba hoặc ít nhất là hai... Ông đã bao giờ xem một cuộc đua ngựa vượt rào của Ailen chưa?”
“Chưa,” một giọng khác nói, khá lơ đãng. “Đó là bố,” Arrietty giật mình nhận ra, “bố đang nói chuyện với bà dì Sophy hay thực ra là bà dì Sophy đang nói với bố mình.” Cô bé nắm chắc những vòng dây giữ cây kim của mình, rồi chạy vào vùng ánh sáng và băng qua nó đến đầu kia hành lang. Khi chạy qua cánh cửa đang mở cô thoáng thấy một ngọn lửa lò sưởi, ánh đèn và bàn ghế bóng nhoáng cùng vải thêu kim tuyến đỏ sẫm.
Phía sau ô vuông ánh sáng, hành lang lại tối và cô bé có thể nhìn thấy ở xa xa phía cuối có một cánh cửa hé mở. “Đó là phòng trẻ ban ngày,” cô bé nghĩ, “sau đó là đến phòng trẻ ban đêm.”
“Có một số khác biệt nhất định,” giọng bà dì Sophy nói tiếp, “mà ông sẽ để ý đến ngay. Ví dụ như...” Arrietty thích giọng nói đó. Nó mang cảm giác an ủi và đều đặn, như tiếng của cái đồng hồ ở hành lang, và khi bước ra khỏi tấm thảm tới một mảnh sàn nhà được đánh bóng bên cạnh tấm ván ốp chân tường, cô bé thích thú khi nghe thấy rằng ở Ailen có tường thay vì hàng rào cây. Ở đây cạnh ván ốp chân tường cô bé có thể chạy, mà cô bé thì thích chạy. Khó mà đi lại được trên thảm - dày và bám chặt, nó cản ta lại. Những tấm ván phẳng và có mùi sáp ong. Cô bé thích mùi đó.
Phòng học nơi cô bé đến được bao phủ bằng những tấm chống bụi và đầy đồ lặt vặt bỏ đi. Ở đây cũng có một ngọn đèn ga vặn nhỏ thành ngọn lửa xanh xanh. Sàn nhà bằng vải sơn lót nhà, khá mòn, những tấm thảm cũng thế. Ở dưới chiếc bàn là một cái hang to lớn tối tăm. Cô bé đi vào đó, quờ quạng, va mạnh vào một chiếc gối quỳ bụi bặm cao hơn đầu cô. Lại bước ra, đi vào trong khoảng ánh sáng mờ mờ, cô bé nhìn lên và thấy cái tủ ở góc tường với bộ ấm tách trà của búp bê, bức tranh trên lò sưởi, và cái rèm bằng vải nhung lông nơi bố cô bé đã bị “nhìn thấy”. Chân ghế ở khắp nơi và đệm ngồi che khuất tầm nhìn của cô bé. Cô bé lần mò tìm đường giữa chúng để đến cửa phòng trẻ ban đêm và ở đó đột nhiên cô nhìn thấy, trên một cao nguyên phủ bóng tối ở góc xa, cậu bé nằm trên giường. Cô bé nhìn thấy khuôn mặt khổng lồ của cậu, ngả trên mép gối quay về phía cô bé; cô bé nhìn thấy ánh đèn khí ga phản chiếu trong đôi mắt đang mở của cậu; cô bé nhìn thấy tay cậu bé đang nắm chặt chăn, giữ nó ấn vào trước miệng.
Cô ngừng lại và đứng im. Một lát sau, khi nhìn thấy ngón tay cậu bé buông ra, cô bé khẽ nói, “Đừng sợ... Tôi đây mà, Arrietty.”
Cậu bé để chăn tụt xuống khỏi miệng và nói, “Arri-cái gì-y?” Cậu có vẻ bực mình.
“Etty,” cô bé từ tốn nhắc lại. “Cậu đã lấy lá thư chưa?”
Cậu nhìn chăm chú cô bé một lát không nói gì, rồi bảo, “Tại sao cậu lại lẻn vào phòng tôi?”
“Tôi không lẻn vào,” Arrietty nói. “Thậm chí tôi còn chạy đấy. Cậu không thấy à?”
Cậu bé im lặng, nhìn cô bé chằm chằm với đôi mắt trợn tròn khổng lồ.
“Khi tôi đem cuốn sách ra thì cậu đã đi rồi,” cuối cùng cậu bé nói.
“Tôi phải đi. Bữa trà đã xong. Bố tôi gọi tôi.”
Cậu bé hiểu. “Ồ,” cậu bé chỉ nói vậy, và không trách cô bé.
“Cậu đã lấy lá thư chưa?” cô bé lại hỏi.
“Rồi,” cậu bé nói, “tôi đã phải quay lại hai lần. Tôi nhét nó vào hang của con lửng...” Cậu bé đột nhiên hất chăn ra và đứng lên trên giường, to khổng lồ trong áo ngủ vải flanen nhạt màu. Đến lượt Arrietty sợ hãi. Cô bé hơi quay đi, mắt nhìn lên khuôn mặt cậu bé, và bắt đầu từ từ lùi lại về phía cửa. Nhưng cậu bé không nhìn cô; cậu đang sờ soạng đằng sau một bức tranh trên tường. “Nó đây này,” cậu bé nói, lại ngồi xuống, và cái giường kêu cọt kẹt rất to.
“Nhưng tôi không muốn lấy lại nó!” Arrietty kêu lên, lại tiến lên. “Lẽ ra cậu phải để ở đó! Tại sao cậu lại mang nó về?”
Cậu bé lật lá thư trên những ngón tay mình. “Ông ấy đã viết lên nó,” cậu bé nói.
“Ôi, làm ơn,” Arrietty kêu lên xúc động, “cho tôi xem nào!” Cô bé chạy thẳng đến bên giường và giật giật tấm ga rủ xuống. “Thế là họ còn sống! Cậu có nhìn thấy bác ấy không?”
“Không,” cậu bé nói, “bức thư ở đó, ngay trong cái hang nơi tôi đã để nó lại.” Cậu bé cúi về phía cô. “Nhưng ông ấy đã viết lên nó. Nhìn này!”
Cô bé lao nhanh tới và suýt giật lá thư từ những ngón tay khổng lồ của cậu bé, nhưng cẩn thận giữ mình ngoài tầm tay cậu. Cô bé ôm lá thư chạy đến cửa phòng học nơi có ánh đèn, tuy mờ nhưng cũng hơi sáng hơn. “Mờ lắm,” cô bé nói, cầm nó lên gần mắt mình. “Bác ấy đã viết bằng gì? Tôi tự hỏi. Tất cả đều là chữ in hoa...” Cô bé quay phắt người lại. “Có chắc là cậu không viết cái này không đấy?” cô bé hỏi.
“Tất nhiên là không,” cậu bé lên tiếng. “Tôi viết nhỏ...” Nhưng cô bé đã nhìn thấy trên khuôn mặt cậu bé rằng cậu nói sự thật, thế nên cô bắt đầu đánh vần từng chữ. “N-ó-i,” cô bé nói. “Nói v-ó-i.” Cô bé ngẩng lên nhìn. “Vói?” cô nói.
“Phải,” cậu bé nói, “với.”
“Nói với b-ắ-c, bắc?” Arrietty nói. “Bắc? Với bắc?” Cậu bé im lặng, chờ đợi. “Bắc L-u - Ồ, bác Lupy!” cô bé kêu lên. “Bác ấy bảo - nghe này, bác ấy bảo thế này, ‘Nói với bác Lupy của cháu về nhà đi!’ “
Có một khoảng lặng. “Thế thì nói với bác ấy đi,” cậu bé nói sau giây lát.
“Nhưng bác ấy không ở đây!” Arrietty kêu lên. “Bác ấy chưa bao giờ ở đây! Tôi thậm chí không nhớ bác ấy trông như thế nào!”
“Nhìn kìa,” cậu bé nói, nhìn chằm chằm vào cửa, “có ai đang đến!”
Arrietty quay ngoắt lại. Không còn thời gian để trốn: đó là ông Pod, một tay cầm túi đi mượn, trong tay kia là cây kim. Ông đứng dưới ngưỡng cửa phòng học. Ông đứng bất động, hình dáng in lên ánh sáng từ ngoài hành lang, cái bóng nhỏ bé hắt mờ xuống phía trước ông. Ông đã nhìn thấy cô bé.
“Bố nghe thấy tiếng con,” ông nói, và có một sự khe khẽ đáng sợ trong cách ông nói, “khi bố vừa rời khỏi phòng Bà.” Arrietty nhìn chằm chằm lại ông, nhét lá thư vào dưới lớp áo len chui đầu. Liệu ông có nhìn được qua cô bé vào phía trong căn phòng tối? Liệu ông có nhìn thấy được cái hình thù rối bù trên giường?
“Về nhà thôi,” ông Pod nói, và quay đi.