Những trận chiến lớn nhất chính là những trận chiến trong tâm trí chúng ta.

Jameson Frank

 
 
 
 
 
Thể loại: Tùy Bút
Nguyên tác: Hard Choices
Dịch giả: Lâm Hoàng Mạnh
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3044 / 90
Cập nhật: 2016-06-04 21:09:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12: Châu Mỹ Latin: Nền Dân Chủ Và Sự Mỵ Dân
ột câu hỏi đặt ra mà người trả lời có thể làm quý vị ngạc nhiên: đất nước nào trên thế giới mà Hoa Kỳ xuất khẩu hơn 40% các thể loại hàng hóa? Không phải Trung Quốc, vì nó chỉ chiếm có 7%. Cũng không phải khối EU, vì cũng chỉ chiếm 21%. Vùng đất đó chính là các nước thuộc châu Mỹ. Hai vùng lớn nhất mà hàng xuất khẩu của Mỹ xuất sang chính là hai nước láng giềng gần gũi nhất, Canada và Mexico.
Đây là thông tin không chỉ quý vị mà ngay cả người Mỹ cũng chưa hiểu hết về các nước ở Tây bán cầu. Nhiều người vẫn còn ám ảnh Mỹ Latin là mảnh đất của đảo chính, của tội phạm chứ chưa phải là khu vực thị trường tự do và nền dân chủ đang phát triển mạnh mẽ, họ vẫn coi nơi đây là xứ sở của người nhập cư lậu, của ma tuý chứ không phải là điểm đến về thương mại và các nhà đầu tư.
Những nước láng giềng phía nam của chúng ta đã đạt được tiến bộ về kinh tế và chính trị đáng kể trong vòng hai mươi năm qua. Mỹ Latin là khu vực bao gồm ba mươi sáu quốc gia và lãnh thổ (hầu hết đã có nền chính trị dân chủ), với khoảng 600 triệu dân, tầng lớp trung lưu phát triển nhanh chóng, có nguồn cung cấp năng lượng dồi dào, tổng thu nhập GDP (Gross Dometic Product, Tổng sản phẩm nội địa - ND) hơn năm ngàn tỷ Mỹ kim.
Vì sự gần gũi về địa lý, nền kinh tế của Hoa Kỳ và các nước láng giềng có truyền thống gắn bó lâu đời. Các hệ thống cung ứng theo chuỗi lan tỏa khắp khu vực, tới các hộ gia đình, xã hội và cả mạng lưới văn hóa. Một số coi mối quan hệ này là mối đe dọa đến chủ quyền và sắc thái riêng của từng nước, nhưng theo tôi, sự phụ thuộc lẫn nhau là một lợi thế có thể chấp nhận, đặc biệt trong thời điểm cần phải thúc đẩy tăng trưởng hơn nữa ở trong nước. Biết bao điều chúng ta có thể rút ra từ những câu chuyện về sự đổi thay của các nước châu Mỹ Latin, mang đầy ý nghĩa với Hoa Kỳ và thế giới, nhất là biết sử dụng lợi thế “sức mạnh láng giềng” trong những năm sắp tới.
Nhiều quan niệm sai lầm của chúng ta về Mỹ Latin do nguồn gốc sâu xa của một thế kỷ trong thời kỳ lịch sử đầy rẫy khó khăn. Mỹ Latin là một chiến trường của các đối thủ cạnh tranh về ý thức hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Cuba là ví dụ nổi bật nhất, điểm nóng của Chiến tranh Lạnh, những trận chiến uỷ nhiệm đã từng xảy ra ở dạng này hay dạng khác, lúc lên lúc xuống của Tây bán cầu.
Sự sụp đổ của Liên Xô và sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã mở ra một kỷ nguyên mới cho khu vực. Các cuộc nội chiến kéo dài, tàn khốc đã giảm thiểu. Những cuộc bầu cử đã đưa các chính phủ dân chủ mới lên nắm chính quyền. Tăng trưởng kinh tế bắt đầu giúp người dân thoát khỏi cảnh nghèo đói. Năm 1994, Bill Clinton, phu quân tôi, mời tất cả các quốc gia dân chủ trong khu vực tới họp Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên tại Mỹ ở Miani, cam kết, cứ bốn năm tái họp một lần để các nước tiếp tục hội nhập về kinh tế và hợp tác chính trị.
Hội nghị Thượng đỉnh chỉ là một trong những nỗ lực của chính quyền Clinton, tiến đến sự hợp tác rộng rãi với các nước láng giềng của chúng ta. Hoa Kỳ đã hỗ trợ lớn lao cho Mexico và Brazil trong suốt quá trình khủng hoảng tài chính của họ. Với sự ủng hộ của lưỡng đảng trong Quốc hội, chúng ta đã phát triển và tài trợ cho kế hoạch Yểm trợ Colombia, một kế hoạch đầy tham vọng, nhằm giúp đỡ bảo vệ nền dân chủ lâu đời nhất của Nam Mỹ từ nạn buôn bán ma tuý, các nhóm phiến quân và riêng ở Haiti đã lật ngược được cuộc đảo chính, đồng thời khôi phục nền dân chủ lập hiến. Những tín hiệu tốt lành của các nước khu vực nảy sinh, nhiều nước có nền dân chủ ở Mỹ Latin đã đóng góp quân đội cho sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc tại Haiti. Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, người Mỹ Latin đã ủng hộ Hoa Kỳ chiếm tỷ lệ 63% vào năm 2001.
Khi làm Thống đốc bang Texas, George W. Bush đã ủng hộ việc gia tăng thương mại và cải cách hệ thống xuất nhập cảnh, cho nên khi trúng cử Tổng thống, ông có vị trí và vai trò vững vàng trong khu vực. Ông phát triển mối quan hệ cá nhân mạnh mẽ với Tổng thống Mexico, Vincente Fox và người kế nhiệm, Felipe Calderon. Chính quyền Bush hỗ trợ và tăng cường kế hoạch Yểm trợ Colmbia và bắt đầu với Sáng kiến Merida giúp Mexico chống lại các băng đảng ma túy. Tuy vậy, sự tiếp cận rộng rãi của chính quyền trong chính sách đối ngoại cũng không đạt được kết quả khả quan trong khu vực. Bản thân nó cũng không có xu hướng quan tâm đến Tây bán cầu xoay chuyển theo hướng tả hay hữu khuynh mà nhìn nhận theo lăng kính của hệ tư tưởng cũ còn rơi rớt từ thời Chiến tranh Lạnh. Đến năm 2008 chỉ có 24% người Mexico và 23% dân Brazil ủng hộ Hoa Kỳ. Theo điều tra của Viện Gallup, tỷ lệ trung bình của toàn khu vực ủng hộ Hoa Kỳ chỉ còn 35%. Khi Obama lên nắm chính quyền, chúng tôi biết đây là thời điểm cần có sự khởi đầu mới.
Tổng thống Obama giải thích cách tiếp cận “quan hệ đối tác bình đẳng” trong bài phát biểu 4-2009 tại Hội nghị Thượng đỉnh châu Mỹ ở Trinidad & Tobago. Ông cam kết, sẽ không còn kiểu “đối tác cấp trên và đối tác cấp dưới trong mối quan hệ của chúng ta”. Thay vào đó, người dân châu Mỹ có thể mong đợi “tham gia trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau cùng chia sẻ giá trị vốn có.” Theo thông lệ, Tổng thống nêu nên sự cần thiết cần vượt qua “quan điểm cũ” và những “sự lựa chọn sai lầm” trong các trường hợp “nguyên tắc cứng nhắc, nhà nước bao cấp, nền kinh tế vượt tầm kiểm soát, mất cân bằng thanh khoản”. Không những thế còn đổ lỗi cho lực lượng bán quân sự cánh hữu hay phiến quân cánh tả; Phải biết gắn bó giữa chính sách linh hoạt đối với chính phủ Cuba với quyền con người của nhân dân Cuba chưa được chấp nhận mà chúng ta còn nợ họ.” Riêng về Cuba, ông hứa, sẽ có một sự khởi đầu mới. Bước đi đầu tiên điều chỉnh chính sách đã từng “thất bại trong việc thúc đẩy tự do dân chủ, tạo cơ hội cho người dân Cuba”, Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ gốc Cuba được về thăm quê hương cũng như gửi kiều hối cho thân nhân còn kẹt lại trong nước. Tổng thống cho hay, ông có kế hoạch gặp trực tiếp lãnh đạo Cuba thảo luận về cải cách dân chủ, hợp tác chống bọn buôn lậu ma tuý và người di cư. Tổng thống tuyên bố: “Tôi đến không phải tranh luận về quá khứ, tôi đến để bàn thảo các vấn đề trong tương lai”.
Đó cũng chính là công việc của tôi cùng với các nhóm chuyên viên hàng đầu về châu Mỹ Latin của Bộ Ngoại giao, biến lời hứa của Tổng thống thành thực tế. Tôi sẽ quyết định với những động thái táo bạo, báo hiệu chúng ta rất nghiêm túc về nhịp sống mới của Tây bán cầu. Nơi đầu tiên chính là Mexico, nước láng giềng phía nam gần gũi nhất, cũng là đại diện cho niềm hy vọng cũng như rủi ro của khu vực.
Hoa Kỳ và Mexico có chung đường biên giới gần hai ngàn dặm, các nền kinh tế, văn hoá đặc biệt trong khu vực quanh vùng biên giới mang tính hòa nhập cao. Tây nam Hoa Kỳ xưa kia từng là phần đất của Mexico, qua nhiều thập niên người nhập cư đã xây dựng được mối quan hệ gia đình, văn hoá giữa hai nước. Kinh nghiệm thực tế của tôi trong lĩnh vực này bắt đầu từ năm 1972, khi Uỷ ban Quốc gia Dân chủ gửi cho tôi bản đăng ký cử tri ở Rio Grande Valley thuộc tiển bang Texas ủng hộ chiến dịch George McGovern tranh cử Tổng thống. Một số người đã cảnh giác với tôi, cô gái tóc vàng, xuất thân từ Chicago không hề biết một chữ Tây Ban Nha, nhưng ngay sau đó họ hiểu, coi tôi như một người thân trong khối cộng đồng mà tổ tiên họ từ Mexico di cư sang mà giờ đây họ vui vẻ, háo hức hoà nhập với nền dân chủ của chúng ta.
Vài lần tôi cùng bạn bè đi qua biên giới sang Mexico dự dạ tiệc và khiêu vũ, vì hồi ấy qua lại biên giới dễ dàng. Tình cờ tôi lại làm việc cùng với chàng trai tốt nghiệp Đại học Yale mà sau này tôi có cảm tình, đó là Bill Clinton. Sau khi McGovern thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử, Bill và tôi quyết định xả hơi, thư giãn tại một khu nghỉ mát bé nhỏ bên bờ Thái Bình Dương, không ngờ cả hai chúng tôi đều yêu đất nước Mexico đến nỗi đã trở lại nhiều lần du lịch kể cả tuần trăng mật năm 1975 nghỉ tại Acapulco.
Do quá bức xúc về vấn đề di cư trong các cuộc thảo luận căng thẳng, nhiều người Mỹ vẫn coi Mexico là vùng đất nghèo khổ, họ rời bỏ quê hương di cư đến Hoa Kỳ kiếm sống. Nhưng kinh tế Mexico phát triển mạnh trong những năm gần đây, tầng lớp trung lưu tăng nhanh và nền dân chủ có những bước tiến đáng kể. Một ví dụ mà tôi thật ấn tượng, dưới thời Tổng thống Felipe Calderón, ông đã cho xây 140 trường đại học và miễn phí cho toàn thể sinh viên, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân tài và kinh tế đất nước.
Thời kỳ đầu của chính quyền Obama, rào cản lớn nhất đã ngăn chặn sự phát triển dân chủ và kinh tế là những cuộc bạo lực lớn đã xảy ra, nguyên nhân thường do vấn đề ma tuý. Các băng đảng ma tuý hạ sát lẫn nhau, đồng thời chống lại lực lượng an ninh quốc gia gây khó khăn cho chính phủ, nhiều lần cơ quan an ninh đã bắt được đám đông các băng đảng đang giao tranh. Sau khi nhậm chức vào tháng 12-2006, Tổng thống Calderón triển khai một lực lượng lớn quân đội tấn công các băng đảng ma túy. Tuy đạt được một số thắng lợi, nhưng bạo lực vẫn leo thang, các băng đảng ma túy vẫn hoạt động. Khi tôi giữ chức Ngoại trưởng, các băng nhóm ma túy được trang bị các loại vũ khí và trở thành tổ chức bán quân sự, mỗi năm làm hàng ngàn người chết. Mặc dù tỷ lệ tội phạm có giảm trong các khu vực buôn bán ma tuý, nơi mà băng đảng thường tổ chức đánh bom xe, bắt cóc tống tiền vẫn rất phổ biến. Những thành phố, thị xã vùng biên giới như Tijuana, Ciudad Juárez người ta tưởng nơi đây đang xảy ra chiến tranh. Bạo lực lan tràn đe dọa El Paso và những vùng lân cận có đông đảo cộng đồng dân cư Mỹ.
Năm 2008, các tay súng tấn công Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Monterrey bằng loại vũ khí nhỏ và lựu đạn. Rất may không ai bị thương. Tuy vậy, tháng 3-2010, ba người có quan hệ với toà lãnh sự Mỹ ở Ciudad Juárez đã bị sát hại. Một nhân viên toà lãnh sự, Lesley Enriquez và người chồng, Arthur Redelfs, đã bị bắn khi đang lái xe. Cũng vào thời điểm ấy, ngay trong thị trấn, người chồng Mexico của một nhân viên địa phương làm việc cho toà lãnh sự, Jorge Alberto Salcido Ceniceros, cũng bị bắn chết. Những vụ giết người là một lời cảnh cáo cho những người đại diện cho Hoa Kỳ phải đối mặt với rủi ro ở các nơi trên thế giới, không chỉ riêng ở Irag, Afghanistan hay Libya mà ngay cả tại Mỹ Latin. Những sự cố xảy nhấn mạnh sự cần thiết Hoa kỳ phải giúp Mexico lập lại trật tự và an ninh.
Vấn đề cơ bản của chiến tranh ma túy là các băng đảng triệt hại lẫn nhau để chiếm độc quyền xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Theo ước tính, khoảng 90% số lượng ma túy người Mỹ sử dụng do nguồn cung cấp từ Mexico và cũng 90% vũ khí các băng đảng sử dụng cũng mua từ Hoa Kỳ. (Lệnh cấm mua bán các loại vũ khí tấn công do Bill Clinton ký năm 1994 với thời hạn 10 năm, đã hết hiệu lực nhưng không được gia hạn, chính vì thế đã mở cửa cho việc buôn bán vũ khí qua biên giới). Nhìn qua sự kiện xảy ra, Hoa Kỳ cần phải chia sẻ trách nhiệm giúp Mexico để chấm dứt bạo lực. Tháng 3-2009, trong chuyến công du đầu tiên với cương vị Ngoại trưởng tôi đã đến Mexico City tham vấn phương sách tăng cường sự hợp tác trong bối cảnh bạo lực ngày một gia tăng.
Tôi gặp Tổng thống Calderón và Ngoại trưởng Patricia Espinosa, người bạn thân của tôi. Cả hai đưa ra những yêu cầu kể cả trực thăng Black Hawk để đối phó với các băng đảng ma tuý được trang bị vũ khí tối tân. Calderón rất quan tâm ngăn chặn bạo lực tấn công vào người dân, ông là người hăng hái nhất trong vấn đề này. Các băng đảng ma túy gây nhiều khó khăn, cản trở các kế hoạch và phát triển giáo dục của ông. Đồng thời ông bất bình vì những lời chỉ trích từ Hoa Kỳ và yêu cầu tôi giúp ông ngăn chặn bọn lậu buôn bán vũ khí qua biên giới, khi Mỹ hợp thức hoá sử dụng cần sa ở các tiểu bang. Ông hỏi, tại sao một nước có pháp luật, có quân đội mà người dân phải chịu đựng tình trạng như vậy? Đây là những câu hỏi khó lọt tai nhưng thật sự đúng đắn và chính xác.
Tôi nói với Calderón và Espinosa, Hoa Kỳ sẽ mở rộng chương trình Sáng kiến Merida của chính quyền Bush để giúp việc thực thi pháp luật và đề nghị Quốc hội phê duyệt 80 triệu Mỹ kim mua trực thăng, ống nhòm hồng ngoại, áo chống đạn và các thiết bị khác phục vụ chương trình này. Đồng thời cung cấp thêm kinh phí tăng cường hàng trăm lính biên phòng để ngăn chặn bọn buôn lậu vũ khí và ma tuý xuyên biên giới. Đây là vấn đề mà các cơ quan trực thuộc chính quyền phải tham gia, bao gồm cả Bộ trưởng An ninh Nội địa, Janet Napolitanio, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Eric Holder và John Brennan Trợ lý Tổng thống về An ninh Nội địa và chống khủng bố.
Sau khi hội đàm với Ngoại trưởng Espinosa, tôi tổ chức cuộc họp báo và giải thích, chính quyền Obama coi buôn bán ma tuý “là vấn đề chung cần chia sẻ giữa hai nước”, đồng thời tái xác nhận việc cắt giảm nhu cầu các loại ma tuý bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, cắt đường dây buôn bán vũ khí bất hợp pháp qua biên giới vào Mexico. Hôm sau tôi đến Monterrey phía bắc Mexico. Trong bài phát biểu tại trường Đại học TecMilenio tôi lại nhắc lại lời cam kết, nói với sinh viên: “Hoa Kỳ xác nhận buôn bán ma tuý không phải là vấn đề riêng của Mexico mà nó cũng là vấn đề của Hoa Kỳ. Vì thế, Hoa Kỳ có trách nhiệm giúp đỡ quý vị giài quyết việc này.”
Đây là vấn đề cần phải công khai và minh bạch. Đồng thời cũng là nguyên tắc quan trọng cách tiếp cận mới đầy tham vọng của chính quyền Obama với châu Mỹ Latin. Nhưng tôi hiểu, có thể phải trả giá với dư luận trong nước. Một số phương tiện truyền thông đã phản ứng, kích động coi những lời phát biểu là “người Mỹ đã công khai xin lỗi”. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ phải thể hiện sự vững vàng, mạnh mẽ nhất đối với đoàn kết trên thế giới, vì vậy, việc xây dựng và duy trì sự ủng hộ các chính sách tại quốc nội rất quan trọng. Nhưng riêng trong trường hợp này, tôi sẵn sàng chấp nhận búa rìu dư luận vì nhận thấy mục đích là đúng và thúc đẩy kế hoạch đã đề ra. Đúng như dự đoán, tờ Bưu điện New York có bài bình luận với tiêu đề “Cú sốc ma túy của Hillary”. Đã lâu, tôi không quan tâm đến những lời chỉ trích cá nhân, tự tin vì tìm mọi cách nâng cao giá trị Mỹ và giải quyết những vấn đề phức tạp trên thế giới.
Ngay sau đó hai bên mở rộng hợp tác về vấn đề dẫn độ. Mexico đã dẫn độ hơn một trăm kẻ bất hảo đào tẩu trục xuất về Hoa Kỳ năm 2009. Gần hai chục tên đầu sỏ buôn bán ma tuý khét tiếng bị bắt hoặc bị tiêu diệt nhờ vào tài trí thông minh của biệt đội. Chính quyền Obama đã tăng gấp ba quỹ trợ giúp để ngăn chặn, giảm nhu cầu sử dụng ma tuý bất hợp pháp ở Hoa Kỳ lên đến hơn 10 tỷ Mỹ kim mỗi năm, đồng thời FBI tăng cường lùng bắt các băng đảng buôn bán ma tuý ở vùng biên giới phía bắc. Chúng ta đã giúp đỡ, huấn luyện hàng ngàn sĩ quan, nhân viên cảnh sát, thẩm phán, công tố viên của Mexico và hình thành quan hệ đối tác mới toàn vùng Trung Mỹ và Caribbean ưu tiên về an ninh dân sự trong chính sách ngoại giao ở châu Mỹ Latin.
Mối quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng vào cuối năm 2010, khi các báo cáo bí mật của Đại sứ Mỹ ở Mexico bị rò rỉ qua công bố trong một phần vụ việc của WikiLeaks. Tháng 1-2011 tôi đến thăm, Tổng thống Calderón không vui vẻ tiếp đón. Tờ New York Time đưa tin, ông rất khó chịu do bị rò rỉ thông tin “ông Pascual đã yêu cầu quân đội Mexico hành động dựa trên thông tin tình báo Mỹ về tên trùm băng đảng ma tuý.” Calderón nói với báo chí, việc rò rỉ thông tin này “gây thiệt hại nghiêm trọng” đến mối quan hệ giữa Mexico và Hoa Kỳ. Ông phàn nàn với tờ Washington Post, “Thật khó hiểu, khi quý vị coi đội quân dũng cảm đã từng hy sinh 300 binh sĩ… ấy thế ai đó trong toà Đại sứ Hoa Kỳ lại phát biểu, binh sĩ Mexico không đủ năng lực và thiếu lòng dũng cảm.” Espinosa khuyên tôi nên trực tiếp gặp Tổng thống để giải thích và ngỏ lời cáo lỗi. Sau khi tôi thực hiện, Calderón nói với tôi, ông không muốn hợp tác với Carlor và yêu cầu phải thay thế. Đây là vấn đề thật sự khó khăn trong đàm phán mà tôi đã từng gặp. Không còn lựa chọn nào khác, tôi đành triệu hồi Đại sứ Calor, hứa sẽ bổ nhiệm chức vụ mới hợp với khả năng và kinh nghiệm mà ông có. Carlos chính thức từ chức vào tháng Ba, sau đó tôi bổ nhiệm ông phụ trách văn phòng của Bộ Ngoại giao về năng lượng toàn cầu. Espinosa và tôi đã hợp tác hành động cần mẫn để hàn gắn đưa mối quăn hệ hợp tác hai nước phát triển.
Một mô hình tốt với nỗ lực đầy tham vọng như Mexico có thể thành công đó là Colombia. Đây là đất nước gây nhiều ấn tượng từ khi em trai tôi, Hugh, phục vụ trong Đoàn quân Hoà bình đầu thập niên 1970s. Cậu em cho rằng đây là quãng thời gian rất bổ ích trong đời, sau khi trở về, Hugh thường kể những mẩu chuyện đầy phiêu lưu mạo hiểm trong quãng thời gian ấy. Bill cho rằng những câu chuyện ấy rất giống cuốn tiểu thuyết Bill yêu thích “Trăm năm cô đơn” của Gabriel Garcia Marquez, nhưng Hugh thề, những gì cậu ta kể hoàn toàn đúng sự thật. Đáng buồn thay, thập niên 1990s Colombia trở thành quốc gia bạo lực nhất trên thế giới, băng đảng ma tuý và quân du kích đã khủng bố và kiểm soát cả một vùng rộng lớn, có khả năng tấn công bất cứ thành phố nào. Các chuyên viên về chính sách đối ngoại thường coi đây là một quốc gia thất bại.
Bill Clinton làm việc với Tổng thống Andérs Pastrana, hỗ trợ hơn 1 tỷ Mỹ kim tài trợ cho chiến dịch của chính phủ Colombia chống các băng đảng ma túy và phe nổi dậy cánh tả với cái tên Lực lượng Vũ trang Cách mạng Colombia (tiếng Tây Ban Nha: Fuerzas Armadas Revolucionarias de Colombia viết tắt FARC - ND). Thập niên sau, người kế nhiệm Pastrana là Tổng thống Alvaro Uribe, thân phụ ông bị quân du kích FARC giết hại năm 1980, đã mở rộng sáng kiến Kế họach Colombia với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính quyền Bush (con - ND). Nhưng ngay sau khi chính phủ thực hiện được một số tiến bộ, một số vấn đề nảy sinh về vi phạm nhân quyền, bạo lực với các tổ chức của người lao động, ám sát có chủ đích, sự đàn áp tàn bạo của nhóm bán quân sự cánh hữu. Khi chính quyền Obama lên cầm quyền, chúng tôi đã lựa chọn sự ủng hộ của lưỡng đảng với Kế hoạch Colombia, nhưng cũng mở rộng quan hệ đối tác với chính phủ vượt qua giới hạn bảo mật để tăng cường hơn nữa về quản lý, giáo dục và phát triển.
Tháng 6-2010, khi tôi đến Vogotá, bạo lực đã giảm đáng kể, lực lượng phiến quân đang tan giã, dân chúng hân hoan vui mừng vì an ninh và thịnh vượng trở lại bất ngờ. Và cũng thật bất ngờ trong lịch trình bận rộn tôi được gặp nhà tôi, vì Bill cũng có mặt ở Colombia theo lịch trình làm việc của Quỹ Clinton. Gặp nhau ở Bogotá, chúng tôi cùng với bạn bè và nhân viên đi ăn tối tại nhà hàng địa phương, nâng cốc chúc mừng những tiến bộ của Colombia. Dạo trên đường phố trong đêm yên tĩnh trên đất nước Colombia xa xôi mà vợ chồng tôi tưởng như trong mơ.
Tôi cùng Tổng thống Uribe thảo luận những thách thức về an ninh, nhưng họ không coi là điểm trọng tâm, nên đành chờ cuộc họp tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thảo luận tiếp kế hoạch phối hợp giữa Colombia và Hoa kỷ và hoạt động toàn cầu, đồng thời chuẩn bị Hội nghị Thượng đỉnh châu Mỹ sắp tới. Ông Uribe là một nhà lãnh đạo thực tế, quyết đoán. Nhiệm kỳ của ông sắp mãn hạn, nhớ lại chặng đường điều hành đất nước, ông nói với tôi: “Như bà biết, cách đây gần tám năm khi tôi nhậm chức, chúng tôi không dám tổ chức buổi lễ ngoài trời vì có quá nhiều kẻ sẵn sàng đánh bom liều chết và ám sát quan chức. Đất nước tôi đã trải qua một quãng đường dài đổi mới”.
Ngưởi kế nhiệm Uribe là Tổng thống Juan Manuel Santos, từng du học ở Hoa Kỳ những năm 1980s với học bổng Fulbright, ông thúc đẩy chương trình này, đến năm 2012 bắt đầu có những cuộc đàm phán với cánh hữu của FARC. Những cuộc đàm phán hứa hẹn giải pháp hoà binh cho Colombia. Tôi điện đàm với Tổng thống Santos và chúc mừng ông. Tổng thống trả lời: “Điều này rất quan trọng và mang tính biểu tượng, hy vọng có thể đạt được cái kết có hậu.”
Sự tiến bộ của Colobia đã tăng thêm niềm tin của người dân. Tôi tự hào vì Hoa Kỳ đã đóng góp lớn lao, giúp đỡ nhiệm kỳ của ba Tổng thống, đảo ngược tình hình từ quốc gia hỗn loạn trong bạo lực thành quốc gia nhân quyền, pháp luật được đảm bảo và kinh tế trên đà phát triển.
Sau những lời phát biểu chia xẻ trách nhiệm của tôi ở Mexico vào tháng 3-2009, đến tháng Tư, Tổng thống Obama phát biểu ở Trinidad & Tobago về quan hệ đối tác bình đẳng, đặt nền tảng và mở ra một thời kỳ mới về giao tiếp phía Tây bán cầu. Đến tháng Sáu một kết quả bất ngờ xảy ra.
Tháng Sáu, tôi đến quốc gia nhỏ bé nhất ở Trung Mỹ, El Salvador, dự lễ nhậm chức Tổng thống và hội nghị khu vực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện và giảm sự bất bình đẳng quan hệ kinh tế. Hai sự kiện này hứa hẹn tiềm năng và xác định được mối quan hệ giữa Mỹ với các nước Mỹ Latin.
Về tổng thể, kinh tế châu Mỹ Latin lớn gần gấp ba kinh tế Ấn Độ hay Nga và không thua kém so với kinh tế Trung Quốc hay Nhật Bản. Khu vực này đang phát triển, thoát khỏi suy thoái kinh tế toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng gần 6% năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất so với hai thập niên tính đến năm 2011. Theo thống kê Ngân hàng Thế giới, tầng lớp trung lưu ở Mỹ Latin đã tăng 50% tính từ năm 2000, ở Brazil hơn 40% và ở Mexico là 17%. Đời sống thịnh vượng đã giúp hơn 50 triệu người trở thành trung lưu, họ sẽ là những khách hàng mua sản phẩm và các dịch vụ của Hoa Kỳ.
Vì thế chúng ta cần tăng cường hoạt động để cải thiện, phê chuẩn những hiệp định thương mại với Colombia, Panama, khuyến khích Canada và các quốc gia mới nổi trong Liên minh Thái Bình Dương, - bao gồm Mexico, Colombia, Peru và Chile-, đều là nền kinh tế thị trường, dân chủ, phồn vinh, thịnh vượng trong tương lai và đang tham gia các cuộc đàm phán với các quốc gia Á châu về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, TPP). Liên minh này hoàn toàn đối lập với Venezuela, một quốc gia độc tài, kiểm soát các nền kinh tế với mọi hình thức.
Tuy nhiên, sự bất bình đẳng kinh tế ở Mỹ Latin vẫn trong tình trạng tồi tệ nhất trên thế giới. Mặc dù tốc độ phát triển cao trong nhiều lĩnh vực, nhưng nhiều nước vẫn trong tình trạng nghèo đói. Tại hội nghị El Salvador, treo đầy các biểu ngữ, băng rôn về sáng kiến của chính quyền Bush, “Con đường Thịnh Vượng, Phồn Vinh”, nhưng theo tôi, thách thức chính là sự tăng trưởng kinh tế cần được chia sẻ và nền dân chủ phải đạt những kết quả cụ thể đối với người dân. Tôi đề xuất: “Thay vì đánh giá tiến bộ kinh tế tính theo GDP, chúng ta nên đánh giá theo tiêu chuẩn về chất lượng đời sống, vì thế ta nên nhìn vào thực tế “số lượng và chất lượng” bữa ăn của từng gia đình, tỉ lệ trẻ em đến trường từ mẫu giáo đến đại học, lương tối thiểu và điều kiện làm việc an toàn của người lao động.”
Một số nước châu Mỹ Latin, đặc biệt là Brazil, Mexico và Chile đã thành công trong việc giảm bất bình đẳng và nghèo đói bằng biện pháp “cho vay vốn có điều kiện” có hiệu quả. Những năm 1990s, Tổng thống Fernando Cardoso có chương trình trợ cấp cho hàng triệu gia đình nghèo, với điều kiện phải cho con đi học. Tổng thống kế tiếp Luiz Inacio Lula da Silva, đưa ra chương trình kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho người dân, tăng dinh dưỡng bữa ăn trong nhà trường và chương trình vệ sinh phòng bệnh. Ngoài ra, ưu đãi về quyền phụ nữ, số nữ sinh đã tăng lên, việc chăm lo sức khỏe cho trẻ em được cải thiện đáng kể và thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhờ các chương trình đó ở Brazil, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 22% năm 2003 xuống còn 7% vào năm 2009 và chương trình này đang được phát triển toàn Tây bán cầu.
Một lĩnh vực hợp tác kinh tế đặc biệt quan trọng, đó là vấn đề năng lượng. Hoa Kỳ nhập khẩu trên 50% tổng số nguồn năng lượng nhập khẩu của Tây bán cầu. Trong tương lai việc mở rộng hợp tác năng lượng và biến đổi khí hậu có thể trở thành cầu nối giữa các quốc gia, tạo cơ hội kinh tế phát triển, cải tạo môi trường. Đội ngũ của tôi đã thành lập Đối tác Năng lượng và Biến đổi Khí hậu Hoa Kỳ để hỗ trợ sự đổi mới và xây dựng trên thế mạnh trong khu vực. Nhiều nước tham gia chương trình này. Brazil là quốc gia đứng đầu sử dụng năng lượng sinh học. Nhà máy thuỷ điện ở Costa Rica đảm bảo cung cấp điện toàn quốc. Colombia và Peru phát trển năng lượng sạch. Mexico đã đóng cửa các bãi rác thải chôn vùi và khai thác rác thải thành khí methan cung cấp nhà máy nhiệt điện, đồng thời cải thiện môi trường ở thành phố Mexico, phủ xanh các nóc nhà, hệ thống tường của các khu building, trồng một số lượng lớn các cây xanh trong khu vực. Barbados đã mở rộng sử dùng hệ thống năng lượng mặt trời. Các quần đảo như Saint Kits, Nevis và Dominica đã biết tận dụng nguồn năng lượng địa nhiệt.
Những năm tới, chúng ta sẽ xây dựng dựa trên nền tảng này, đặc biệt chú trọng sự liên kết mạng lưới điện các quốc gia và khu vực từ miền bắc Canada đến điểm tận cùng nam Chile, đồng thời vươn ra vùng biển Caribbean, nhưng chi phi có thể rất cao. Nếu vốn đầu tư quá cao, vùng Caribbean có thể hoạt động và sử dụng độc lập bằng hệ thống năng lượng mặt trời, năng lượng gió, khí đốt sinh học, một khi chính phủ không trợ giá, họ buộc phải thay đổi từ nhập khẩu dầu khí sang sản xuất và sử dụng năng lượng sạch. Vấn đề này từng áp dụng ở Trung Mỹ, hơn nữa nó đặc biệt quan trọng, vì hơn 31 triệu người ở Tây bán cầu chưa có điện và mua với giá hợp lý (toàn thế giới khoàng 1 tỷ 300 triệu người). Sự kém phát triển bao gồm nhiều nguyên nhân, nhưng thiếu năng lượng và điện là nguyên nhân chính. Các doanh nghiệp cũng như các trường học không thể hoàn thành kế hoạch nếu năng lượng và điện không cung cấp đủ. Vì thế, mục tiêu đề ra đến năm 2022 sẽ cung cấp đủ năng lượng và điện cho toan khu vực.
Điểm nổi bật chuyến công du El Salvador của tôi vào đầu tháng 6-2009 là dự lễ nhậm chức của Tổng thống mới đắc cử, Mauricio Funes, chuyển đổi thể chế chính trị sâu sắc quét qua Mỹ Latin kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Nền dân chủ lập hiến đã ăn sâu bén rễ nơi từng bị chính quyền quân sự độc tài cánh tả và bọn mỵ dân cánh hữu thống trị. Năm 2013, các cơ quan phi chính phủ (NGO) Freedom House đã đánh giá châu Mỹ, không tính Hoa Kỳ, Canada “chỉ đứng sau Tây Âu mức độ về tự do và nhân quyền.”
Sự thành công về mặt chính trị và kinh tế trong khu vực này (trừ vài trường hợp còn trì trệ) đã hình thành một mô hình dân chủ nổi lên ở một số nơi khác, kể cả ở Trung Đông. Điều tôi thật hết sức vui, khi các nước Mỹ Latin đã mạnh dạn đề cử các nhà lãnh đạo nữ lên nắm quyền. Trên thế giới, nhiều nơi vẫn còn mang nặng văn hóa trọng nam khinh nữ, nhưng những người phụ nữ tài năng, xuất chúng đã giữ chức vụ lãnh đạo quốc gia ở Argentina, Brazil, Chile, Costa Rica, Guyana, Jamaica, Nicaragua, Parama và Trinidad & Tobago, còn ở Ecuador và Bolivia.
Tôi rời El Salvador bay tới Honduras dự cuộc họp thường niên của Tổ chức Các nước châu Mỹ. Honduras với diện tích sấp sỉ bang Mississippi (Hoa kỳ), quê hương của 8 triệu người nghèo nhất châu Mỹ Latin. Lịch sử Honduras là một lịch sử của quốc gia có các cuộc chiến tranh kéo dài bất tận do xung đột và nhiều thảm họa. Tổng thống Honduras, Manuel Zelaya, ông có dáng dấp như một bức tranh biếm họa cổ xưa về người đàn ông mạnh mẽ Trung Mỹ, đội chiếc mũ cao-bồi trắng, bộ ria mép rậm đen kịt, ông rất ngưỡng mộ Hugo Chavez và Fidel castro.
Sáng ngày 2-6, tôi dậy sớm hơn thường lệ, chuẩn bị một ngày làm việc kéo dài cho buổi tọa đàm ngoại giao đa phương, cũng may tất cả các tài liệu đã chuẩn bị kỹ cho cuộc họp, xếp thành một tập và chờ những thủ tục pháp lý vô nghĩa, thật nhàm chán đến chết người. Đây là ngày họp của Tổ chức Các Quốc gia châu Mỹ (Organization of American States - OAS), một cuộc họp mang nhiều hứa hẹn. Chúng tôi hy vọng một số quốc gia sẽ đưa ra giải pháp hủy bỏ luật 1962 để xem xét việc cho phép Cuba được trở thành thành viên của tổ chức. Theo nguyên tắc của OAS, mọi việc phải được sự đồng thuận toàn thể của tổ chức, có nghĩa là chỉ cần một thành viên phản đối, coi như không đồng thuận. Nhưng xét theo thủ tục hành pháp, nếu 2/3 số phiếu tán thành, coi như nghị quyết đã đạt thỏa thuận. Hầu hết tin tưởng các quốc gia sẽ tán thành rỡ bỏ lệnh cấm vận Cuba, vấn đề này đã lạc hậu sau khi Chiến tranh Lạnh chấn dứt, đồng thời nếu Cuba tham gia vào các tổ chức quốc tế, đây chính là biện pháp tốt nhất để khuyến khích sự cải thiện trên hòn đảo Cuba. Một số quốc gia, trong đó có Venezuela, Nicaragua, Bolivia và Ecuador sẽ coi việc ngăn cản, cấm vận là hình ảnh thể hiện rõ ràng nhất sự khủng bố của Hoa Kỳ, chấp nhận Cuba vào OAS là một biện pháp tiếp cận với Hoa Kỳ, nhưng lại làm suy yếu nền dân chủ theo tiêu chí trong khu vực. Đó là điều làm tôi lo ngại. Tổ chức OAS đã thông qua điều khoản mới vào năm 2001, hệ thống hoá các nguyên tắc về dân chủ mạnh mẽ hơn, bước ngoặt trong cuộc hành trình biến đổi quá khứ độc tài. Chúng ta không thể để Chavez và các đồng minh thân cận của ông ảnh hưởng đến tinh thần điều lệ.
Đối với chính quyền mới của Obama, đây là sự thử nghiệm đầu tiên. Chúng ta có thể vẫn dựa trên chính sách cũ, từ chối rỡ bỏ lệnh cấm vận Cuba với lý do tổ chức hiệp hội dân chủ không có chỗ cho nhà nước độc tài, nhưng cũng vì thế nhiều nước láng giềng sẽ xa lánh, làm cho Hoa Kỳ có vẻ như bị cô lập ngay tại sân sau của chính mình. Hơn nữa, cấm vận Cuba là hành động lỗi thời của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, nhưng rỡ bỏ, lại chính là sự nhạo báng về chuẩn mực dân chủ trong khu vực mà chúng ta rất chật vật mới có được, đồng thời có thể gây cơn phẫn nộ tại Hoa Kỳ. Cả hai đều là những lựa chọn đầy khó khăn có mặt tốt lẫn xấu.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ, tôi mở vô tuyến xem kênh CNN, chương trình đang nói về một người Cuba sống và làm việc tại Hoa Kỳ, hơn một năm qua anh không được gặp đứa con trai chỉ vì những quy định khắc khe du lịch giữa hai nước. Nhưng nhờ nới lỏng các quy định của chính quyền Obama, người cha và đứa con kia đã có cơ hội được đoàn tụ. Tiếp theo những thay đổi này, chúng ta đưa ra đề nghị đàm phán trực tiếp với chính phủ Cuba khôi phục lại việc trao đổi thư tín, hợp tác chương trình nhập cư. Trong thời gian hội nghị thượng đỉnh ở Hoduras, đại biểu Cuba chấp nhận đề nghị. Trước mắt, người dân Mỹ nhận thấy những gì mà ngay từ ngày đầu nhậm chức Tổng thống đã hứa hẹn, nhưng tiếp nhận Cuba vào OAS mà họ không có sự cải cách dân chủ mạnh mẽ đúng là sự khởi đầu vô nghĩa lý.
Năm mươi năm đất nước Cuba dưới sự cai trị một chế độ tài cộng sản Fidel Castros. Ông và chế độ cộng sản đã bác bỏ quyền tự do cơ bản của con người, đàn áp những người bất đồng chính kiến, bảo vệ chặt chẽ nền kinh tế quốc doanh, hoạt động thúc đẩy “xuất khẩu cách mạng” sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù tuổi già sức yếu, Castros và Raul, em trai của ông, thay nhau nắm quyền lực tối cao.
Từ năm 1960, Hoa kỳ duy trì lệnh cấm vận chống lại quốc đảo này, với hy vọng ép buộc Castros rời bỏ quyền lực, nhưng vô tác dụng ngoài việc Hoa Kỳ bị đổ lỗi đã làm nền kinh tế Cuba khó khăn. Năm 1995, chính quyền Clinton đề nghị cuộc đối thoại bí mật tìm cách cải thiện mối quan hệ giữa hai nước. Cuộc đàm phán đang tiến triển có chiều hướng tốt, nhưng tháng 2-1996 máy bay phản lực Cuba đã bắn rơi hai máy bay dân dụng, làm chết 4 thành viên phi hành đoàn. Hai máy bay này thuộc sở hữu của nhóm “Cứu trợ Huynh đệ” người Cuba lưu vong ở Miami thả truyền đơn kêu gọi chống Cuba. Chồng tôi, Bill Clinton, lên án coi đây là “vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế”. Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cũng lên án hành động của Cuba, Quốc hội Hoa kỳ thông qua luật mới được sự đồng thuận của lưỡng đảng và lưỡng viện, tăng cường cấm vận chống Cuba, ra điều kiện nếu có bất cứ sự thay đổi nào trong tương lai phải được cả hai viện chấp thuận. Vấn đề này buộc tôi phải thận trọng khi giải quyết bất cứ vấn đề gì với Castros.
Kể từ khi anh em nhà Castros kiên quyết phản đối các nguyên tắc dân chủ ghi trong điều lệ OAS, họ còn tỏ ra khinh bỉ tổ chức này, thật khó có thể giàn xếp cho họ trờ thành thành viên của OAS. Trong thực tế, quyết định chấp nhận thành viên mới phải được sự tán thành của tất cả các nước OAS, vì thế vấn đề Cuba có thể bị phủ quyết.
Anh em Castros không dự hội nghị Honduras, hơn nữa họ không có ý định tham gia tổ chức OAS. Đứng đầu phản đối là chính phủ Hugo Chavez của Venezuela (ngoài ra còn có các nước khác). Ông ta là nhà độc tài tự cao tự đại, thường phóng đại mọi chuyện nhưng chẳng đe doạ nổi ai, ngoại trừ người dân trong nước. Chavez to mồm, âm mưu chống lại Hoa Kỳ trong nhiều năm, tìm cách phá hoại, đảo ngược nền dân chủ trong nước và khu vực. Ông ta đại diện cho thế lực lạc hậu, cổ hủ của lịch sử mà khu vực này đã cố gắng vượt qua. Chavez diệt những người bất đồng chính trị và báo chí ở Venezuela, quốc hữu hoá các công ty và tịch thu tài sản của họ, lãng phí tài nguyên dầu mỏ trong nước, thúc đẩy biến quốc gia thành một nhà nước độc tài toàn trị.
Tháng Tư, Tổng thống Obama đã vượt mọi trở ngại, trực tiếp gặp Chavez tại Hội nghị Thượng đỉnh châu Mỹ. Tại thời điểm ấy, Chavez dường như rất vui mừng khi bắt tay Tổng thống Obama, coi sự có mặt của Tổng thống Obama là một món quà thiện chí của Hoa Kỳ. Cuốn sách do ông ta viết về chủ nghĩa đế quốc Mỹ và sự bóc lột châu Mỹ Latin đã bị phát hiện. Tôi thường xuyên chỉ trích Chavez, bảo vệ người dân Venezuela đã dũng cảm đứng lên chống Chavez, nhưng cũng tránh đưa ra những điều mà Chavez có thể lợi dụng lên án Mỹ bắt nạt nước nhược tiểu. Trong một chương trình giải trí trên truyền hình Venezuela, có bài hát “Tôi chẳng yêu mến Hillary Clinton… và tại sao tôi lại phải yêu quý bà ta…” trở thành bài hát phổ biến ở địa phương. Thật khó lý giải chuyện này.
Viếng thăm Honduras, trong bữa điểm tâm với ngoại trưởng các nước vùng Caribbean, chúng tôi trao đổi mọi chuyện, đặc biệt kế hoạch đối phó bạo lực ngày một gia tăng, tăng cường hợp tác hơn nữa về năng lượng. Hầu hết các quốc gia vùng Caribbean đều đói năng lượng, dễ bị ảnh hưởng trước tác động biến đổi khí hậu gây nước biển dâng cao và thời tiết ngày càng khắc nghiệt. Vì vậy, họ sẵn sàng hợp tác với chúng ta để tìm giải pháp. Tất nhiên, trong các câu chuyện có bàn đến vấn đề Cuba. Tôi khẳng định với tất cả các vị ngoại trưởng: “Chúng ta chờ đợi và mong một ngày Cuba có thể tham gia tổ chức OAS. Nhưng các thành viên OAS cũng phải có trách nhiệm duy trì các tiêu chuẩn dân chủ đã mang lại tiến bộ ở Tây bán cầu. Đây không phải là lúc hồi tưởng về quá khứ, trong tương lai mọi nguyên tắc thành lập của tổ chức phải được đảm bảo”.
Sau bữa điểm tâm, chúng tôi vào hội trường của Đại hội đồng OAS. Tổng thư ký José Miguel Insuza, nhà ngoại giao Chile cùng Tổng thống Zelaya, nước chủ nhà Honduras tổ chức hội nghị, chào đón, hoan nghênh khi chúng tôi tiến vào hội trường, ông mời tất cả các Ngoại trưởng chụp ảnh “đại gia đình” làm kỷ niệm. Trong số này, có bao nhiêu nhà lãnh đạo sẽ bảo vệ nguyên tắc tổ chức dân chủ?
Brazil là nước chủ chốt. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Luiz Inácio Lula da Silva, Brazil nổi lên như một thành viên quan trọng toàn cầu. Mọi người biết Lula, một cựu lãnh đạo công đoàn nổi tiếng, ông đắc cử Tổng thống năm 2002, Brazil trở thành gương mặt mới đầy năng động, tự hào một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới, tầng lớp trung lưu cũng tăng nhanh nhất. Sự trỗi dậy của Brazil là biểu tượng chuyển đổi của châu Mỹ Latin, đầy hứa hẹn trong tương lai.
Với cương vị Đệ nhất phu nhân, năm 1995, lần đầu tiên tôi công du Brazil, lúc bấy giờ là một quốc gia nghèo nàn lạc hậu, nền dân chủ thiếu vắng và sự bất bình đẳng về kinh tế rất lớn. Nhiều năm dưới quyền của chính phủ độc tài quân sự và lực lượng nổi dậy cánh tả đã mở đường cho sự nối tiếp của các chính phủ dân sự yếu kém, thành quả thu được không đạt sự mong đợi của người dân. Brazil bắt đầu thể chế hoá tiến bộ về bầu cử từ cuộc bầu cử Tổng thống Fermando Henrique Cardoso, sau lễ nhậm chức vài tháng, tôi đến thăm Brazil. Ông đã đánh thức nền kinh tế trong nước, vợ ông, bà Ruth, nhà xã hội học, thành lập các cơ sở xóa đói giảm nghèo, cho phép người dân vay tiền có điều kiện để cải thiện đời sống gia đình và giúp những phụ nữ nghèo khổ. Tổng thống Cardoso thành công nhờ mô hình phát triển rộng rãi của Lula, người kế tục các chính sách kinh tế, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo, cắt giảm khai thác rừng nguyên sinh vùng nhiệt đới Amazon gần 75%.
Nền kinh tế Brazil tăng trưởng cũng là lúc sự thay đổi về chính sách ngoại giao của Lula. Ông đã hình dung một ngày nào đó Brazil trở thành cường quốc, nhưng hoạt động dẫn đến hợp tác của ông mang tính hai mặt, xây dựng xã hội tươi đẹp và có cả những thất bại. Năm 2004, Lula cho phép quân đội tham gia sứ mệnh gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc tại Haiti, đã đóng góp, hoàn thành công việc tuyệt vời, đảm bảo an ninh trật tự trong điều kiện rất khó khăn. Nhưng ông lại bắt tay với Thổ Nhĩ Kỳ về thoả thuận song phương với Iran trong chương trình hạt nhân, không đáp ứng yêu cầu của cộng đồng quốc tế.
Xét về toàn diện, tôi hoan nghênh ảnh hưởng ngày càng lớn và năng lực đáng kể của Brazil đóng góp giải quyết nhiều vấn đề toàn cầu. Gần đây, tôi rất vui khi cộng tác với ông Dilma Rousseff, Bộ trưởng Nội các, đồng thời là người bảo vệ Lula, sau này bà trở thành Tổng thống. Ngày 1-1-2011 tôi đến dự lễ nhậm chức của bà đúng vào ngày mưa to gió lớn, nhưng lại là ngày đại lễ của Brazil. Hàng chục ngàn người đứng hai bên dẫy phố vẫy chào vị nữ Tổng thống đầu tiên đi trên chiếc xe Rolls Royce 1952. Bà tuyên thệ, nhận dải băng xanh to màu vàng ở giữa quàng qua cổ theo truyền thống từ Tổng thống tiền nhiệm đáng kính và bà thúc đẩy chương trình xóa đói giảm nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. Bà tuyên bố: “Từ hôm nay, phụ nữ Brazil chúng ta thật tự hào và hạnh phúc.” Dilma một nhà lãnh đạo tài năng, tôi rất ngưỡng mộ và yêu mến. Đầu thập niên 1970s, bà là thành viên của nhóm du kích cánh tả, từng bị chế độ độc tài quân sự tống tù và bị tra tấn dã man. Bà có thể chưa dũng cảm như Tổng thống Lula và không đủ dày dạn kinh nghiệm như Cardoso như một số nhà quan sát bình luận, nhưng bà có trí tuệ mạnh mẽ, can đảm, hai đặc điểm cần thiết cho vai trò lãnh đạo trong giai đoạn đầy thử thách. Năm 2013, người ta đã chứng kiến khí phách của bà, thời gian này, người dân Brazil thất vọng vì tăng trưởng giảm sút, giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng cao, trong khi đó chính phủ lại đặt trọng tâm vào những sự kiện quan trọng như Giải vô địch bóng đá Thế giới năm 2014 (World Cup 2014) và Đại hội thể dục thể thao Olympics 2016 hơn là chăm lo đời sống, vì thế nhiều nơi nhân dân xuống đường biểu tình phản đối. Thay vì ra lệnh giải tán hay khủng bố, bắt giam tống tù người biểu tình như Venezuela, bà Dilma trực tiếp gặp gỡ họ, đồng thời yêu cầu họ hợp tác với chính phủ giải quyết các vấn đề vướng mắc.
Về vấn đề Cuba, thuyết phục Brazil là cả một cuộc chiến khó khăn. Tổng thống Lula sau khi nghe tôi trình bày có chiều hướng đồng ý xóa bỏ lệnh cấm của OAS. Tôi tự hỏi, có nên thuyết phục, khuyến khích, động viên ông đứng ra làm chính khách trong khu vực, tìm kiếm sự thỏa hiệp hay không. Tôi trao đổi vấn đề này với Ngoại trưởng Celso Amorim.
Một thành viên khác cũng rất quan trọng, đó là Chile. Giống như Brazil, Chile cũng có nhiều thành công trong sự chuyển đổi sang nền dân chủ thập niên 1990s, từ chế độ độc tài quân sự tàn bạo của Tướng Augusto Pinochet. Hoa Kỳ đã ủng hộ cuộc đảo chính năm 1973 đã đưa Tướng Augusto Pinochet lên cầm quyền, đây chính là trang sử đen tối của Mỹ tham gia sự kiện trong khu vực, nhưng quan hệ hai nước gần đây đã phát triển. Cuộc bầu cử năm 2006, bà Michelle Bachelet từ bác sĩ nhi khoa, người phụ nữ đầu tiên ở Chile đắc cử Tổng thống. Giống như bà Dilma Rousseff của Brazil, Tổng thống Bachelet từng đối mặt với các cuộc đàn áp của chế độ độc tài quân sự, buộc phải lưu vong chính trị. Chế độ Pinochet sụp đổ, bà trở về, trưởng thành trong hoạt động chính trị tại Chile. Với cương vị Tổng thống, bà ra sức hoạt động để thống nhất đất nước, giải quyết vi phạm nhân quyền trong quá khứ, mở Viện bảo tàng Tưởng niệm và thiết lập Viện Quốc gia Nhân quyền. Vì những nỗ lực hoạt động phụ nữ trong nước, bà giành được sự ngưỡng mộ, sau khi mãn nhiệm Tổng thống năm 2010, bà được cử giữ chức giám đốc Nữ quyền của LHQ, tổ chức mới thành lập của LHQ về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ. Bà và tôi là đồng minh và bạn thân trong cuộc đấu tranh không ngừng vì quyền phụ nữ. Bà trở về Chile, đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ 2 vào cuối năm 2013.
Chile ủng hộ việc giảm sự cô lập Cuba, kêu gọi Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận. Đầu năm 2009, Bachelet là Tổng thống Chile đầu tiên trong nhiều thập niên thăm chính thức Havana, gặp em trai của Fidel Castros. Sau đó Fidel đăng bài bình luận đứng về phía Bolivia trong cuộc tranh chấp lãnh thổ từ thời kỳ 1870s, lên án “bọn đầu sỏ Chile” trong việc xâm chiếm Bolivia. Đây là những lời chỉ trích cay độc nhất của Fidel. Tôi hy vọng Chile sẽ duy trì tính nguyên tắc về nền dân chủ, trên cơ sở đó giải quyết khủng hoảng này một cách ổn thỏa.
Cố vấn hàng dầu của tôi về Mỹ Latin, Trợ lý Ngoại trưởng Tây Bán Cầu, Tom Shannon, một nhà ngoại giao lớn tuổi khả kính, rất giàu kinh nghiệm đã từng phục vụ 5 đời chính phủ Hoa Kỳ. Ông Tom từng giữ chức vụ hàng đầu về Mỹ Latin dưới thời Ngoại trưởng Rice, khi làm Ngoại trường, tôi đề nghị ông tiếp tục công việc, sau đó cử ông làm Đại sứ Hoa Kỳ ở Brazil. Tom đề xuất tình thế “thuận và chống” khi đưa Cuba ra nhập tổ chức OAS, đồng thời giải thích tình thế khó khăn về ngoại giao, buộc tìm mọi cách thoát khỏi cuộc khủng hoảng.
Tổng thống Obama từng phát biểu về những mâu thuẫn từ thời Chiến tranh Lạnh đã quá lạc hậu, nếu chúng ta vẫn gạt bỏ Cuba ra khỏi tổ chức OAS vì lý do từ lệnh cấm vận từ năm 1962, họ “theo chủ nghĩa Marxit - Leninit”, liên kết với “phe cộng sản”. Điều cần quan tâm hiện nay nên tập trung vấn đề vi phạm nhân quyền, những điểm không phù hợp với điều lệ của tổ chức OAS. Chúng ta có chấp thuận Cuba trở thành thành viên OAS, nếu họ cải cách dân chủ và bảo đảm theo điều lệ của tổ chức hay không? Anh em Castros từng coi thường tổ chức OAS, chúng ta phải yêu cầu Cuba chính thức xin ra nhập? Điều này sẽ làm Brazil, Chile thoả hiệp kéo theo nhiều nước khác. Chúng ta không nhất thiết phải lôi kéo quốc gia theo đường lối cứng rắn như Venezuela. Bởi vì khi các nước trong khu vực hướng tới sự thỏa hiệp, họ cũng có thể muốn tham gia tổ chức OAS.
Sau lễ khai mạc hoành tráng kết thúc, tôi họp với Ngoại trưởng các nước, trình bày giải pháp thỏa hiệp có điều kiện. Đề xuất này gặp sự bất ngờ, khác hẳn với những điều kiện mà Hoa Kỳ thực hiện, nhưng đạt được mục tiêu chung. Tom và tôi lần lượt trao đổi với các Ngoại trưởng theo kế hoạch. Đến trưa, phát biểu trước Đại hội đồng, tôi đưa ra các nguyên tắc cơ bản phải đảm bảo về dân chủ và tiến trình dân chủ của châu Mỹ Latin là tối thượng và chính quyền Obama đã tiến hành từng bước trao đổi với Cuba.
Những người ủng hộ Cuba phát biểu, Zelaya coi việc bỏ phiếu chống Cuba năm 1962 “là ngày ô nhục”, kêu gọi hội đồng “sửa chữa sai lầm đó”. Tổng thống Nicaraguan, Daniel Orlega, cho rằng lệnh cấm vận Cuba là sự “áp đặt bạo chúa”, ông nói thẳng, “OAS vẫn chỉ là một công cụ của sự thống trị của Hoa Kỳ.” Cùng với Venezuela, Nicaraguan đe dọa kêu gọi bỏ phiếu thông qua hay từ bỏ đại hội và xóa bỏ tổ chức.
Theo thời gian biểu, tôi phải rời Honduras vào buổi chiều, bay sang Cairo gặp Tổng thống Obama, ông có bài phát biểu quan trọng với thế giới Hồi giáo. Nhưng trước khi đi, tôi cần đảm bảo hai phần ba số phiều đồng ý kết nạp Cuba không cần một điều kiện nào. Chúng tôi đã tranh luận với những người cho rằng vấn đề này không có lợi ích tốt cho OAS. Về điểm này, Tổng thống Obama đã gọi điện trực tiếp cho Lula, khuyến khích thúc đẩy việc thông qua sự thỏa hiệp. Tôi kéo Zelaya sang căn phòng kế bên, yêu cầu ông với vai trò trách nhiệm của nước chủ nhà. Nếu ông ủng hộ sự thỏa hiệp, không những bảo đảm thành công hội nghị thượng đỉnh mà còn đảm bảo cho chính tổ chức OAS. Nếu không, ông sẽ mang tiếng là nước chủ trì một hội nghị gây sự sụp đổ của tổ chức. Những lời đề nghị xem chừng có những phản ứng khác biệt. Đến chiều, mặc dù sự đồng thuận còn chưa rõ ràng, nhưng tôi tin mọi vấn đề sẽ theo chiều hướng tốt. Ngay cả trường hợp giải pháp không được thông qua, hoặc theo chiều hướng khác, tôi cũng không nghĩ OAS sẽ tan rã chỉ vì vấn đề này. Tôi ra sân bay và yêu cầu Tom báo cáo thường xuyên diễn biến cuộc họp. Tôi nói với Tom trước khi lên xe ô tô: “Hãy cố đạt thỏa thuận trước khi trở về.”
Một vài giờ sau, Tom gọi điện, báo tin, thỏa thuận trong tầm tay. Nhóm đàm phán đang tìm ngôn từ cho phù hợp với các điều kiện, xem ra sự thỏa hiệp đã được ủng hộ. Đến tối chỉ có Venezuela, Nicargua, Honduras và một số liên minh khác chưa thông qua nghị quyết. Thay vào đó, tưởng Hoa Kỳ như bị cô lập, giờ đây chính Chavez và nhóm của họ đối mặt với một khu vực được thống nhất. Zalaya điện đàm với Chavez, yêu cầu chấp nhận sự thỏa hiệp. Đến sáng tình thế đã thay đổi, đạt được sự đồng thuận và các Ngoại trưởng vỗ tay vang dội, nghị quyết được thông qua.
Trong khi đó tại Havana, chính quyền Castros phản ứng dữ dội, từ chối nộp đơn xin gia nhập OAS, không chấp nhận bất cứ điều kìện nào và cải cách dân chủ. Vì vậy, trên thực tế việc cấm vận vẫn còn hiệu lực. Nhưng dù sao chúng ta cũng thành công trong việc thay thế những điều lệ lỗi thời bằng điều khoản mới tiến bộ hơn, tăng cường hơn nữa những cam kết của OAS đưa đến nền dân chủ.
Đúng là chế độ độc tài, tháng 12-2009, chính quyền Castros gây thêm một chuyện rắc rối mới bằng cách bắt giữ một nhà thầu Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Alan Gross, vì ông biếu máy vi tính xách tay cho hội người cao tuổi Do Thái ở Havana. Nhà đương cục Cuba kết tội ông với bản án 15 năm tù. Là Ngoại trưởng tôi thật buồn vì không giải thoát được ông. Bộ Ngoại giao và cá nhân tôi thường xuyên liên lạc với vợ ông, bà Judy và con gái ông. Tôi đưa vấn đề Alan ra công luận, đồng thời liên hệ với nhiều quốc gia khác can thiệp với Cuba. Bất chấp trao đổi trực tiếp cũng như sự nỗ lực của các nước khác, Cuba từ chối thả Alan, trừ khi phía Hoa Kỳ thả năm điệp viên người Cuba đang bị cầm tù. Cũng có thể phe cứng rắn trong chính quyền Cuba muốn sử dụng trường hợp Alan Gross là cơ hội kìm hãm tái lập quan hệ hữu hảo với Hoa Kỳ và cải cách. Nếu đúng như thế, thảm họa sẽ tăng gấp đôi, hàng triệu người dân Cuba vẫn tiếp tục cuộc sống giam cầm.
Đối diện với chế độ hà khắc của Havana, Tổng thống Obama và tôi tìm cách tiếp cận, thu hút người dân Cuba hơn là với chính phủ. Dựa trên những kinh nghiệm thu được trên thế giới, chúng tôi tin, cách tốt nhất mang lại sự thay đổi đất nước Cuba chính là sự khẳng định những giá trị, bằng thông tin và những tiện nghi vật chất từ thế giới bên ngoài. Sự cô lập họ chỉ làm tăng cường sự kìm kẹp bằng quyền lực; Còn nếu chúng ta tuyên truyền, động viên thì tác dụng đối với nhân dân Cuba có thể ngược lại. Đầu năm 2011, chúng ta đưa ra những quy định mới tạo điều kiện dễ dàng hơn với các nhóm tôn giáo, học sinh sinh viên đến thăm Cuba, đồng thời cho phép các sân bay của Hoa Kỳ thực hiện các chuyến bay đến Cuba, cho phép gửi kiều hối có giới hạn của người Mỹ gốc Cuba cho thân nhân. Ngày nay, hàng năm có tới hàng trăm ngàn người Mỹ du lịch Cuba. Vô tình những du khách trở thành người quảng bá tính ưu việt xã hội tự do của Hoa kỳ.
Mỗi bước tiến trong các giải pháp, chúng tôi thường phải đối mặt với sự chỉ trích của một số thành viên trong Quốc Hội, họ muốn giữ khoảng cách đóng băng sâu hơn nữa với Cuba. Với tôi lại khác, tôi tin sự đối xử bình đẳng giữa con người với con người là cách tốt nhất để cảm hoá, khuyến khích cải cách tại Cuba và đó cũng là lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực. Vì vậy, tôi rất hài lòng khi đã nhận thấy những sự thay đổi ban đầu đang len lỏi trong đất nước Cuba tuy còn nhỏ nhoi, bất chấp sự bảo thủ thâm căn cố đế của chế độ độc tài ngăn cản nó. Các bloggers và những người đấu tranh bằng tuyệt thực đã góp thêm tiếng nói yêu cầu tự do, dân chủ. Tôi rất ấn tượng đối với những người phụ nữ Cuba dũng cảm mang tên “Dama de Blanco” (Phụ nữ da trắng). Bắt đầu từ năm 2003, hàng tuần vào ngày Chủ nhật, họ tuần hành sau khi đám đông người Công giáo biểu tình phản đối giam giữ các tù nhân chính trị. Tuy bị sách nhiễu, đánh đập, bắt giam nhưng họ không nản chí vẫn tiếp tục tuần hành theo lộ trình.
Gần cuối nhiệm kỳ, tôi đề nghị Tổng thống Obama xem xét lại lệnh cấm vận. Vì điều ấy không đạt được mục tiêu, không những thế còn làm cản trở các chương trình nghị sự rộng lớn của chúng ta tại châu Mỹ Latin. Sau hơn hai mươi năm theo dõi mối quan hệ Hoa Kỳ - Cuba, tôi nghĩ chúng ta nên thay đổi sách lược, truy trách nhiệm Castros để họ giải thích lý do vì sao họ vẫn không từ bỏ việc lạm quyền và thiếu dân chủ.
Kết thúc Hội nghị thượng đỉnh ở San Pedro Sula, đột nhiên xảy ra bi kịch tháng Sáu. Chỉ vài tuần sau đó, bóng ma của quá khứ đau buồn châu Mỹ Latin lại nổi lên ở Honduras. Ngày Chủ nhật, 28-6-2009, Tối cao Pháp viện Honduras ra lệnh bắt giam Tổng thống Zelaya với cáo buộc tham nhũng, lộng quyền, muốn thay đổi hiến pháp để kéo dài nhiệm kỳ. Zelaya bắt giữ tại nhà riêng khi vẫn mặc quần áo ngủ, đưa ông lên máy bay tới Costa Rica. Chính phủ lâm thời do Chủ tích Quốc hội Roberto Micheletti lên cầm quyền.
Lúc ấy tôi đang ở Chappaqua, vui vẻ hưởng thụ một sáng Chủ nhật an lành thì nhận được tin báo của Tom Shannon về cuộc khủng hoảng. Theo nguồn tin rất hạn chế, chúng tôi thảo luận phương án đối phó. Vấn đề trước mắt, vợ và con của ông Zelaya đang yêu cầu được lánh nạn tại tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Honduras. Tôi yêu cầu Tom bảo vệ và chăm sóc vợ con Zelaya an toàn cho đến khi cuộc khủng hoảng giải quyết. Tôi cũng trao đổi với Tướng Jones và Tom Donilon của Nhà Trắng, đồng thời điện đàm với Ngoại trưởng Tây Ban Nha yêu cầu tư vấn.
Lệnh trục xuất Zelaya khiến giới chức Hoa Kỳ lâm vào tình thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Micheletti và Tối cáo Phát viện đưa ra lý do, bảo vệ nền dân chủ Honduras chống lại Tổng thống Zelaya đã lạm dụng quyền lực, muốn trở thành một Chavez, Castros ở Honduras. Rõ ràng khu vực này không muốn có thêm nhà độc tài nữa, họ tin vào những cáo buộc. Nhưng ông là vị Tổng thống được dân Honduars bầu lên, việc trục xuất ông sẽ che phủ bóng đen vô cảm trong khu vực. Không một ai muốn nhìn thấy sự trở lại những ngày đen tối cũ, với các cuộc đảo chính thường xuyên, gây bất ổn định trong khu vực. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc lên án sự lật đổ Tổng thống Zalaya, công khai kêu gọi tất cả các bên phải tôn trọng hiến pháp, quy định của pháp luật, yêu cầu cam kết giải quyết các tranh chấp chính trị bằng hòa bình, thông qua đối thoại. Theo điều khoản của pháp luật, chúng ta đình chỉ tất cả viện trợ cho Honduras cho đến khi nền dân chủ được vãn hồi. Quan điểm của chúng tôi được Brazil, Colombia và Cosata Rica chia sẻ và trở thành quan điểm chung của tổ chức OAS.
Những ngày tiếp theo, tôi thoại đàm với đối tác đồng cấp các nước Tây bán cầu, gồm cả Ngoại trưởng Mexico. Chúng tôi đưa ra một giải pháp nhằm vãn hồi trật tự ở Honduars, đảm bảo một cuộc bầu cử tự do, công bằng được tổ chức sớm, đồng thời đưa ra câu hỏi tính pháp lý về Zelaya, giúp người dân Honduras có cơ hội lựa chọn cho chính tương lai của mình.
Tôi tìm một chính khách cao tuổi đủ uy tín để làm người hoà giải. Ngài Oscar Arias, Tổng thống Costa Rica, quốc gia có thu nhập bình quân cao nhất trong khu vực Trung Mỹ, người mà tôi chọn mặt gửi vàng. Ông là nhà lãnh đạo quốc gia dày dạn kinh nghiệm, thế giới kính trọng và được giải thưởng Nobel về hoà bình năm 1987 do sự đóng góp không mệt mỏi trong quá trình chấm dứt cuộc xung đột vùng Trung Mỹ. Sau 16 năm rời nhiệm sở, năm 2006 ông lại tái đắc cử Tổng thống, tiếng nói của ông có tầm ảnh hưởng lớn, đầy trách nhiệm đối với quốc gia và sự phát triển bền vững. Đầu tháng Bẩy, tôi thoại đàm với ông, thảo luận về sự cần thiết đảm bảo cuộc bầu cử diễn ra theo dự kiến vào tháng Mười Một. Ông chấp nhận làm người trung gian, nhưng lo ngại ông Zelaya không chấp nhận và yêu cầu tôi thuyết phục vị Tổng thống bị lật đổ chấp nhận và tin ông.
Chiều hôm ấy, tôi chủ trì cuộc họp với ông Zelaya tại Bộ Ngoại giao. Hình dáng ông lần này đầy đặn hơn, khác hẳn lần đầu tiên khi ông đọc diễn văn ở Costa Rica; bộ quần áo ngủ đã được thay thế, ông lại đội chiếc mũ cao-bồi, thậm chí ông còn nói đùa về chuyện bị bắt buộc phải lên máy bay. Ông hỏi đùa tôi: “Bà có biết Tổng thống Honduras bị trục xuất được mang theo những gì không?” Tôi cười và lắc đầu. Ông trả lời: “Một túi quần áo, cùng bộ đồ ngủ và một giấc ngủ kéo dài.”
Gạt trò đùa sang bên, Zelaya thể hiện sự thất vọng và thiếu kiên nhẫn. Báo cáo từ Honduras cho hay, sự đụng độ giữa người biểu tình và lực lượng an ninh ngày càng gia tăng. Tôi trao đổi với ông, việc trước mắt là tránh đổ máu, yêu cầu ông tham gia hòa giải do Tổng thống Arias đảm nhiệm. Ông Zelaya đồng ý. Tôi biết, Micheletti không chấp nhận hoà giải nếu như ông ta nghĩ Zelaya ở thế thượng phong, vì thế tôi công bố cuộc đàm phán ngoại giao hoàn toàn độc lập và trung lập. Ngay sau khi phát biểu xong, tôi yêu cầu Tom đưa ông Zelaya sang phòng bên, Trung tâm Điều hành gọi điện cho Arias, để hai người đàm thoại. Tôi trở lại Bộ Ngoại giao chuẩn bị họp báo đưa thông cáo chính thức.
Ban đầu đàm phán không có sự đột phá. Tổng thống Arias thông báo rằng ông Zelaya yêu cầu phải được phục hồi chức Tổng thống, trong khi đó ông Micheletti tuyên bố Zelaya vi phạm Hiến pháp và ông ấy tiếp tục điều hành chính phủ lâm thời cho đến khi có cuộc bầu cử mới theo hoạch định. Hai bên không có khuynh hướng thỏa hiệp.
Tôi nhấn mạnh với Tổng thống Arias: “Vấn đề chính là tự do, công bằng, dân chủ trong cuộc bầu cử sắp tới để việc chuyển giao quyền lực trong hoà bình”. Ông tán thành đàm phán phải thẳng thắn, kiên quyết và cứng rắn, nhưng ông thất vọng vì: “Hai bên hầu như không có ý nhượng bộ”. Sau đó ông nêu ý kiến cá nhân đúng như những gì tôi nghĩ: “Thưa bà Clinton, tôi đảm nhận việc này vì ủng hộ Tổng thống Zelaya theo nguyên tắc chứ không ưa gì người…. vì nếu chúng ta chấp nhận chính quyền đảo chính, tôi e sẽ gây ra hiệu ứng domino toàn châu Mỹ Latin”. Thật thú vị khi ông nhắc lại thuyết domino nổi tiếng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã từng lo ngại, nếu chấp nhận một nước nhỏ trở thành nước cộng sản nó có gây hiện tượng domino ở các quốc gia khác.
Đầu tháng Chín, ông Zelaya trở lại Bộ Ngoại giao tiếp tục đàm phán. Đến ngày 21-9, ông bí mật quay trở về Honduras, xuất hiện tại Toà Đại sứ Brazil, chuẩn bị cuộc đụng độ lớn.
Cuộc đàm phán vẫn tiếp tục. Cuối tháng Mười, ông Arias chỉ đạt được thỏa thuận tối thiểu giữa hai bên. Tôi quyết định cử Tom đến Honduras thông báo, sự kiên nhẫn của Hoa Kỳ đã hết. Ngày 23-10, khoảng sau 9 giờ tối, tôi nhận được điện thoại của Michletti. Tôi cảnh báo ông: “Hoa Kỳ và các quốc gia khác rất thất vọng việc này”. Micheletti cố lý giải vấn đề hiện tại, nói: “đã làm hết sức mình để đạt được thỏa thuận với Zelaya”.
Hơn một giờ sau tôi gọi điện cho Zelaya ẩn náu tại toà Đại sứ Brazil, thông báo cho ông ta biết, Tom sẽ gặp ông trong thời gian sớm nhất. Tôi hứa, với danh nghĩa cá nhân, sẽ quan tâm theo dõi đầy đủ, sát sao, cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng càng sớm càng tốt. Đây là nhiệm vụ rất nặng nề, nhưng cuối cùng ngày 29-10 Zelaya và Micheletti ký một thoả thuận thành lập chính phủ đoàn kết dân tộc lãnh đạo Honduras cho đến cuộc bầu cử sắp tới, thiết lập uỷ ban “sự thật và hoà giải” điều tra sự kiện lý do vì sao đưa đến sự lật đổ Zelaya. Cả hai đồng ý đưa vấn đề này trình Quốc Hội về việc Zelaya trở lại chức vụ trong thành phần chính phủ đoàn kết dân tộc.
Ngay lập tức cuộc tranh luận về cơ cấu tổ chức và mục đích chính phủ đoàn kết nổ ra, cả hai bên đều đe dọa sẽ rút bỏ thoả thuận. Vì thế Quốc Hội đã bỏ phiếu với số phiếu áp đảo không cho phép Zelaya trở lại cầm quyền, đây là sự thất bại đau đớn và bất ngờ. Ông đã quá tự tin vào sự ủng hộ, vào sự nghiệp phục vụ tổ quốc của mình. Sau cuộc bỏ phiếu, ông bay sang Cộng Hoà Dominican và sống lưu vong. Cuộc tổng bầu cử tiến hành. Cuối tháng Mười Một, cử tri bỏ phiếu chọn Porfirio Lobo, người đã từng tranh cử với Zelaya năm 2005, làm Tổng thống mới của Honduras. Nhiều quốc gia Nam Mỹ không công nhận kết quả này, nhờ công tác ngoại giao mạnh mẽ, hơn một năm sau Honduras mới được chấp nhận vào OAS.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Mỹ, một chính phủ quốc gia bị đảo chính, đứng bên bờ cuộc nội chiến đã có thể khôi phục quy trình lập pháp, dân chủ thông qua đàm phán mà không có sự áp đặt từ bên ngoài.
Từ nay, khu vực chúng ta cần nhìn xa hơn các vấn đề hàng đầu phải tập trung vào xu hướng phát triển đó là các nước Mỹ Latin. Vâng, vẫn còn nhiều vấn đề thật lớn lao phải được giải quyết. Nhưng nhìn chung, các xu hướng phải hướng tới dân chủ, đổi mới, mở rộng các cơ hội, quan hệ hợp tác tích cực giữa các nước với nhau kể cả với Hoa Kỳ. Đó là tương lai mà chúng ta mong muốn.
Những Lựa Chọn Khó Khăn Những Lựa Chọn Khó Khăn - Hillary Rodham Clinton Những Lựa Chọn Khó Khăn