Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Phần IV: Miền Bắc, Hậu Phương Lớn – Chương 1: Chiến Tranh Ở Miền Bắc
T
háng Tư năm 1973. Miền Bắc vừa ra khỏi cơn bão tố... Rời Hà Nội theo quốc lộ 1 hướng về phương Nam mà người ta chỉ có thể đi được tới vĩ tuyến 17, quang cảnh chạy dài hai bên đường làm dần dần lộ ra những tàn phá nặng nề của chiến tranh và khiến ngươi ta càng thấy rõ không quân Mỹ đã đánh phá miền Bắc ác liệt như thế nào. Nhất là ở phía bên kia vĩ tuyến 20 cách Hà Nội 160 km, khi con đường dẫn chúng tôi đi sâu vào những vùng gần như bị chiến tranh huỷ diệt. Từ Thanh Hoá ở vĩ tuyến 20 trở đi, người ta lần lượt bắt gặp những “bộ xương” còn lại của các thanh phố Vinh, Hà Tĩnh... để rồi đi tới Đồng Hới, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Bình... “Đây, chỗ này là khu nhà của các cơ quan hành chính; kia là khu thành cổ; còn từ đây chạy đi là đường phố lớn có nhiều cửa hàng buôn bán sầm uất...” Người ta mở to mắt, ngơ ngác: chẳng thấy có gì sất... Một chị cán bộ lãnh đạo của uỷ ban tỉnh mời chúng tôi đi “thăm” phố xá. Đó chỉ là một vùng đất trần trụi, hoang vắng, với những khu nhà tưởng tượng, những đám đông vắng bóng... Không một thứ gì còn lại. Có chăng chỉ còn đứng đấy trơ trụi, bơ vơ một mảng tường của nhà thờ, một mặt trước của một rạp hát. Năm 1965, sau những cuộc oanh kích đầu tiên của máy bay Mỹ, một nhà báo Việt Nam đã mô tả về thành phố này như sau: “Từ thành cao nhìn xuống, người ta có thể trông thấy bao quát toàn bộ thị xã và các làng mạc xung quanh (...) Bệnh viện Đồng Hới, niềm tự hào của thị xã với những khu nhà mới mái ngói đỏ tươi, tường quét vôi trắng xoá, là mục tiêu được máy bay Mỹ đặc biệt chú ý... Nhưng Đồng Hới vẫn đầy sức sống và giữ vững sức sống ấy. Đêm đến, mọi người quay trở lại và phố xá lại nhộn nhịp đông vui (...) Người ta ra chợ, đến cửa hàng lớn, Bách hoá để sắm sửa mua bán, như không có gì xảy ra...” Ngày nay, chẳng còn bệnh viện, cũng chẳng còn phố xá hay cửa hàng lớn. Và ở thành phố, ngùờỉ ta chỉ còn thấy sót lại những đống gạch vụn. Đồng Hới không còn nữa; thay vào đó giờ chỉ còn một vùng đất hoang tàn đổ nát, cỏ mọc lên cằn cỗi. Cả một thành phố trước đây có 18.000 dân sinh sống nay đã bị huỷ diệt...
Chính tại Quảng Bình, tỉnh vào loại lớn nhất đồng thời điều kiện sống ở đấy cũng khó khăn nhất miền Bắc mà cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ lại diễn ra ác liệt nhất: cánh đồng đang giăng trải ra trước mắt kia, theo hình thắt đáy lưng ong nằm giũa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, và với Lào quả thực đã hình thành một nút giao thông tự nhiên của tất cả các con đường nối liền hai miền đất nước. Có quá nhiều núi nhưng Quảng Bình lại chỉ có một đồng bằng nhỏ hẹp nằm kẹp giữa dãy Trường Sơn và biển, bề ngang chỉ gần bảy kilômét, đất thì vừa chua vừa bị những đụn cát chạy dài suốt dọc ven biển lấn dần... Bọn Mỹ đã tập trung đánh phá vào mạng lưới những con đường chạy nối với “đường mòn Hồ Chí Minh”, con đường huyết mạch mà ngày đêm những dòng người và hàng của miền Bắc không ngừng chảy vào chi viện cho chiến trường miền Nam. Nhìn từ máy bay xuống, Quảng Bình giống như một quang cảnh mặt trăng, đất lỗ chỗ những miệng hố bom: riêng từ 1965 đến 1968 máy bay Mỹ đã tiến hành 70.000 lần không kích vào đấy. Người Mỹ thì muốn cắt đứt cuống nhau này bằng bất cứ giá nào, còn người Việt Nam thì quyết giữ những con đường ấy bằng mọi giá...
Trước sự đánh phá ngày càng ác liệt của máy bay Mỹ, có những đoạn đường, những cây cầu bị hỏng, người ta không sửa lại nữa, mà tìm mọi cách để vượt qua: làm đường vòng tránh, bắc cầu phao, làm ngầm hay dùng phà..., còn chỗ nào sửa lại được thì tìm mọi cách để sửa; có khi thiếu vật liệu, người dân địa phương đã tự động dỡ cả nhà của mình đang ở để đưa ra dùng. Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu sinh tử để bảo vệ và giữ vững tuyến đường giao thông huyết mạch này, đã có những hy sinh vô kể và họ đã quyết tâm không lùi một bước... Đó là một cuộc chiến tranh thực sự, được tổ chức một cách khoa học, đòi hỏi phải tính toán suy nghĩ và phối hợp chặt chẽ các lực lượng của quân và dân mà kết cục của nó là sự tồn tại của con đường, trong bất cứ tình huống nào. Mỗi đoạn đường đều được giao cho một hợp tác xã, ở những nơi không người thì có các thanh niên xung phong... Tôi còn nhớ một đêm tháng Mười một 1972, chúng tôi đi trên một trong những con đường đắp bằng đất ấy, gọi rất đúng là “đường chiến lược”. Chúng tôi phải mất đúng chín tiếng đồng hồ mới đi được quãng đường 70 km, trên một chiếc “com măng ca” chạy dưới ánh đèn gầm chỉ chiếu sáng ra xung quanh được hai mét. Suốt dọc đường, cứ cách một quãng lại có một đống cát và đá chuẩn bị sẵn để hỏng đâu là sửa luôn đấy. Hai mươi mét lại có những hầm trú ẩn làm bằng tre, gỗ, đất, và thỉnh thoảng chúng tôi lại bắt gặp một đốm lửa lập loè của một người gác đang hút thuốc.
Hai giờ đêm, chúng tôi tới một cây cầu vừa bị máy bay đánh phá. Dưới ánh đèn mờ của một ngọn đèn pha ô tô, những bóng người đang hối hả sửa chữa. Tới gần người ta mới được biết mặt họ: đó là những cô gái còn rất trẻ, khéo chỉ độ mười lăm, mười sáu mà thoạt nhìn dáng dấp mảnh mai của họ, người ta không thể ngờ được rằng họ chính là các cô gái thuộc đội “thanh niên xung phong”.
Phần lớn trong các đội thanh niên xung phong là các cô gái trẻ. Một hôm, vào tháng Tư năm 1973, chúng tôi đã gặp đội thanh niên ấy ở một đoạn đâu đấy gần Đồng Hới về phía tây, trên con đường đi lên đèo Mụ Giạ nổi tiếng, một trong những trọng điểm của tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh... Nơi họ ở, rất vắng vẻ, cách xóm có người ở gần nhất cũng phải đi vài kilômét, ăn nghỉ trong một căn nhà đất mái lợp tranh và trước mặt họ là một con đường đất núi chạy ngoằn ngoèo được một đoạn rồi mất hút. Con đường đó sẽ chạy đến đâu, họ không biết được hết chỉ biết rằng nó còn đi xa lắm và cách họ năm kilômét nữa sẽ có một đội khác đảm nhiệm. Trên tuyến đường này, người ta phân công ra, năm hoặc mười kilômét tuỳ theo là thuộc về một đội. Những đoạn hiểm trở trên dãy Trường Sơn thì do những “đội xung kích” phụ trách. Họ gồm những cô gái trinh nguyên đi phục vụ chiến trường trong một hay hai năm.
Đội chúng tôi gặp ở đoạn gần Đồng Hới có mười hai cô, đúng hơn là mười hai chị phụ nữ trẻ, bởi phần lớn họ đã lập gia đình và đã có con. Họ có mặt ở đây từ tháng Một năm 1972, với nhiệm vụ là bất cứ thế nào, cũng phải bảo đảm được giao thông trên đoạn đường được giao trên có một cây cầu. Trước hết, họ cần phải tìm hiểu nhau, thông cảm và chấp nhận lẫn nhau. Bởi mặc dù đều tình nguyện đi làm nhiệm vụ “đánh Mỹ”, nhưng điều đó không đơn giản. Họ từ nhiều nơi ở Quảng Bình tới, có người là nông dân, có người trước là công nhân, tuổi đời và hoàn cảnh cũng khác nhau. Một số chị con còn nhỏ chưa thể rời mẹ nên phải đem chúng đi theo. Phần lớn chồng họ đã đi bộ đội và rất hiếm khi các anh có điều kiện về thăm. Bây giờ, trên một khu đồi suốt ngày nắng gió, tất cả sự sống động duy nhất đến với họ là từ con đường, nơi có những đoàn xe chưa bao giờ dừng lại mà chỉ vội vã đi qua... Sáng sáng họ thức dậy, trước mặt họ là con đường đỏ quạnh, nắng thì lắm bụi, mưa thì lầy bùn. Con đường... Trong mười tháng, cả ngày lẫn đêm, họ sống chỉ vì nó, và đổ ra biết bao mồ hôi, đôi khi cả máu nữa. Nhưng từ đoạn đường này cũng như từ nhiều đoạn đường khác mà thắng lợi của cuộc tiến công lớn năm 1972 đã phụ thuộc vào.
Ngày 25 tháng Tư năm 1972, lần đầu tiên máy bay Mỹ ném bom đoạn đường của họ. Có cả bom bi. Những chị có con, theo bản năng của người mẹ, đã vội chạy về với con. Sáng hôm sau, chị đảng viên phụ trách tiểu đội đã họp họ lại và đi đến quyết định là phải làm hầm trú ẩn vững chắc cho lũ trẻ con.
Từ đó, được yên tâm hơn, họ tập trung vào con đường.
Ngày 18 tháng Năm năm 1972, lúc 14 giờ, cầu bị đánh phá. Đến 18 giờ cầu sửa xong. Ngày 25 tháng Chín, lần đầu tiên, B-52 đến ném bom rải thảm. Khói bom chưa tan, các chị đã lao ra mặt đường, dùng tay, dùng cáng khiêng đất khiêng đá san lấp hố bom. 14 giờ ngày 28, B-52 lại đến đánh, lần này gây ra cho người một số thương vong. Tổng cộng, đoạn đường 5 kilômét này đã phải hứng chịu mười hai tấn bom B-52.
Nhưng con đường vẫn phải tiếp tục bảo đảm cho xe chạy, và nó đã tiếp tục bảo đảm. Bất chấp đạn pháo của tàu chiến Mỹ từ ngoài khơi bắn tới, các chị trong đội thanh niên xung phong vẫn ngày đêm bám giữ mặt đường, san lấp những chỗ bị hỏng, cứu người cứu xe khi bị đánh và hướng dẫn cho các đoàn xe đi qua...
Khi tôi đến các nơi hẻo lánh này, tôi thấy mấy cháu nhỏ con của các chị, đứa lớn trông đứa bé, đang bày trò chơi với nhau: tất cả đồ chơi của các cháu chỉ vẻn vẹn có mấy bông hoa làm bằng giấy. Một câu chuyện tóm lại là rất bình thường, ở một đất nước mà chủ nghĩa anh hùng đã trở nên bình thường, không tên tuổi và diễn ra hàng ngày. Thế nhưng ở Bắc Việt Nam, cũng như ở các vùng biển miền Nam, chủ nghĩa anh hùng không phải là dễ dàng hơn các nơi khác; nó đòi hỏi phải có sự thúc đẩy của những động cơ sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn...
Khi quốc lộ 1 rời Đồng Hới để đi tới Vĩnh Linh ở vĩ tuyến 17, trên khu phi quân sự nhìn sang hai bên đường, chúng tôi thấy trên chặng đường 65 kilômét giữa hai nơi này thỉnh thoảng vẫn còn có những đám ruộng lúa mọc khá tốt nằm cạnh các hố bom. Một dải cát nhấp nhô thành đụn chạy dọc theo con đường, lơ thơ mọc lên những búi thông nhỏ gầy guộc, suốt ngày phơi mình trong nắng gió...
Vĩnh Linh: chỉ còn ba chiếc cột đứng chơ vơ trên một ngọn đồi trọc, một khu nhà đổ nát mà những người lính đi qua tìm mãi mới thấy một góc tường còn tàm tạm đủ để mắc màn chăng võng. Sáu kilômét nữa là Bến Hải, và bờ bên kia là miền Nam...
Dải đất đau thương với một trăm kilômét chiều dài và mười bảy kilômét bề rộng này, từ 1965đến 1968 đã phải chịu đựng 43.197 lần bị bom đạn đánh phá, trung bình mỗi người dân phải chịu bảy tấn bom. Và những câu chuyện “bình thường”, “giản dị” kể sau đây, riêng nó cũng đã đủ để nói lên một khía cạnh sử thi của cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Vĩnh Linh.
Người bí thư Đảng bộ của “đặc khu” Vĩnh Linh, ông Trần Đông, năm mươi sáu tuổi là một con người mạnh mẽ. Khi ông cho biết ông sắp phải ra nước ngoài để chữa bệnh, có người tỏ ra ái ngại, thì ông phá lên cười nói: “Chả là tôi bị mắc bệnh “hiếu chiến” mà!”... “Năm mười bảy, mười tám tuổi, ông kể, một hôm tôi hỏi cha tôi: tại sao nhà mình nghèo thế? Cha tôi liền đáp: “Đó là do cái số, con ạ, Tôi lại tự hỏi vậy tại sao có những người cùng tuổi với cha tôi nghĩa là cùng chung một số, lại có những người giàu? Thế là tôi quyết định mình phải đi làm cao su... Nhưng đó chỉ là một cái trò ấu trĩ của tuổi mới lớn. Người ta hy vọng sống ở đó sẽ dễ thở hơn, nhưng thực ra, người ta chỉ càng bị bóc lột thậm tệ hơn, tinh vi hơn... Tôi đi đến kết luận, như các cụ ta thường nói, “chạy trời chẳng khỏi nắng”. Trời chỉ về phe với bọn tư bản, địa chủ mà thôi...”
Trần Đông gia nhập Đảng Cộng sản năm 1938. Ông đã từng nếm mùi tù đầy và cũng như phần lớn các nhà lãnh đạo Việt Nam, chính nhà tù đã trở thành trường đại học của ông.
“Như các ông biết đấy, so với thực dân Pháp thì đế quốc Mỹ nguy hiểm hơn, tàn bạo hơn. Chúng rất thực dụng và thực tế, đánh với chúng người ta không được phép đơn giản đâu...” Trần Đông xác định phẩm chất chủ yếu của một cán bộ lãnh đạo là phải “biết khơi sâu các vấn đề, vận dụng đường lối của Đảng không giáo điều, máy móc và dũng cảm dám chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. Người chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận chứng tỏ lòng dũng cảm của mình bằng vũ khí nắm chắc trong tay. Còn người cán bộ lãnh đạo, đương nhiên là anh ta cũng phải có lòng dũng cảm ấy, nhưng cái chính là anh ta phải có dũng cảm chính trị để đưa ra những quyết định phù hợp với hoàn cảnh lúc đó và dám chịu trách nhiệm về mình.” Con đường ông ta đi cũng là con đường của nhiều cán bộ cách mạng Việt Nam: “Cá nhân tôi, tôi không phải là nhà trí thức. Tôi chỉ là một anh nông dân như nhiều người khác. Điều gì đã thúc đẩy tôi làm cách mạng, đó là lòng căm ghét sự bần cùng... Nhưng chúng tôi sẽ vừa chiến đấu vừa nâng cao hiểu biết, cả về chính trị cũng như về văn hoá... Điều quan trọng nhất theo tôi là lòng tin. Anh có thể có ý thức giai cấp, nhưng như thế vẫn chưa đủ, mà cần phải có nhiều kiến thức hơn nữa, hiểu biết sâu hơn nữa. Nhưng nữa cũng đừng nghĩ đến mình nhiều quá, bởi nó sẽ làm mình bị hạn chế, cần phải rèn thành thói quen là làm việc gì cũng phải nghĩ đến lợi ích chung...”
Với Vĩnh Linh, mọi chuyện bắt đầu từ việc không quân và hải quân Mỹ ngụy đánh phá đảo Cồn Cỏ, là một hòn đảo nhỏ toàn đá, rộng không đầy 300 héc ta. Cồn Cỏ giống như một ngọn hải đăng thiên nhiên, một người lính đứng gác ở ngoài khơi cửa sông Bến Hải. Từ 1965 đến 1967, Mỹ đã nhiều lần đánh phá vào đấy. Mặc dù tình hình trên đảo hết sức gay go căng thẳng, nhưng các cán bộ lãnh đạo và chỉ huy Vĩnh Linh vẫn quyết tâm giữ vững đơn vị làm nhiệm vụ canh gác và bảo vệ Cồn Cỏ. Một số xã ở ven biển được phân công bảo đảm tiếp tế cho đảo và điều đó có nghĩa là phải đương đầu với máy bay và tàu chiến địch kiểm soát trên biển xung quanh đảo. “Làm thế nào mà chọc được vòng vây của địch để tiếp tế cho đảo? Trần Đông tự hỏi. Trên bản đồ, người ta có thể đo các cự ly rồi tính toán và đưa ra các quyết định này khác. Nhưng trên thực tế, nếu không dũng cảm, không quyết tâm thì mọi tính toán đều trở nên vô nghĩa.”
Quyết tâm tiếp tế cho Cồn Cỏ được giữ vững. Bằng biện pháp là dùng thuyền thúng núp dưới chân những con sóng để vượt qua eo biển, lẩn tránh con mắt của hạm đội 7. “Để bảo vệ cuộc sống thì cần phải biết lợi dụng biển. Dân chài họ đều là những tay bơi rất cừ. Nhưng khi họ chưa được động viên về tư tưởng và giáo dục về chính trị, thì họ cứ như thể không biết bơi. Song khi đã nhận thức được ý nghĩa của việc mình làm rồi thì họ có thể bơi hai ngày liền...” Trần Đông bình luận và nói tiếp: “Mới đầu chúng tôi chưa thể lường hết được các khó khăn. Nhưng chúng tôi cũng chẳng còn cách nào khác: cuộc sống khổ cực này trước như thế nào chúng tôi đã biết và đã quá ngán”...
Từ 1967 trở đi, Mỹ tăng cường đánh phá Vĩnh Linh và khu giới tuyến. Để đối phó, người ta quyết định “quân sự hoá đời sống”. Quyết định này chỉ có thể dựa vào quyết tâm của cả nhân dân, sẵn sàng chấp nhận mọi sự hy sinh một cách tự giác: những bố mẹ ở lại bám đất sẽ phải xa rời con cái nhiều năm, phải có lòng dũng cảm để chịu đựng gian khổ, vượt qua những căng thẳng từng ngày từng giờ, thậm chí có khi phải hy sinh tính mạng... Tất cả người già trẻ em đều phải sơ tán về phía sau ở ngoài vĩ tuyến 20. Chỉ còn thanh niên và lớp người đứng tuổi nhưng còn sức là ở lại để sản xuất và chiến đấu. Một chỉ thị chung được đưa ra: phải có một tổ chức gần như hoàn toàn quân sự cho mọi hoạt động xã hội, sản xuất hay văn hoá... Để tránh tổn thất về người vì bom đạn, các tổ đội lao động cần phải phân tán đội hình trong khi làm đồng và làm việc vào những giờ phút ít bị địch phá nhất tuỳ theo quy luật hoạt động của địch: địch đánh vào buổi sáng, xã viên làm vào buổi chiều, địch đánh vào khoảng 10 giờ, xã viên tranh thủ làm vào lúc sớm hơn. Căn bản là phải làm thế nào nắm vững phán đoán được chính xác quy luật hoạt động của địch... Đi đôi với việc ấy là tổ chức một hệ thống hầm trú ẩn và giao thông hào nối liền nơi này với nơi khác, trên cơ sở tính toán sao cho phù hợp với điều kiện sinh hoạt và lao động của nhân dân: 913 kilômét giao thông hào đã được xây dựng như vậy, tạo thành những xóm làng thực sự nằm ngầm trong lòng đất, và cùng với quá trình đánh phá ngày càng ác liệt của bom đạn Mỹ, “hệ thống địa đạo” ấy càng ngày càng được củng cố vững chắc và ăn ngầm xuống sâu thêm. Mọi hoạt động đều có người phụ trách, phân công nhiệm vụ rõ ràng. Nhân dân không được họp chợ, các trung tâm buôn bán phải phân tán, nhưng để bảo đảm sinh hoạt cho bà con, hợp tác xã đã có những tổ chức đứng ra lo việc mua bán và lưu thông hàng hóa. Sinh hoạt văn hoá văn nghệ ở một mức độ nhất định vẫn được duy trì, nhưng với số người tham gia hạn chế và lưu động đi phục vụ hoặc luân phiên người đến xem. Nhà cửa cũng được dỡ đi để xây hầm trú ẩn. Việc này đôi khi cũng gặp một số “vấn đề”, song “chúng tôi không ra lệnh cho bà con mà chủ yếu dùng cách thuyết phục. Câu hỏi chính chúng tôi đưa ra là: nhà cửa hay mạng sống, cái nào quan trọng hơn? Bà con nghe ra và vui vẻ chấp hành. Hơn nữa, qua thực tế bà con hiểu rõ rằng: dưới bom đạn ác liệt như thế này, không ai có thể sống được một mình, người ta cần phải dựa vào hợp tác xã: nếu nhà anh bị phá, hợp tác xã sẽ giúp anh làm lại... và chẳng may nếu anh bị chết, thì hợp tác xã sẽ đứng ra chăm lo cho gia đình anh. Hợp tác xã, đó cũng là một hình thức của chiến tranh nhân dân”.
Lúc chiến tranh diễn ra gay go căng thẳng nhất ở Vĩnh Linh, một vấn đề được đặt ra là có nên giữ hay không giữ các hợp tác xã nông nghiệp? Có người lập luận: hợp tác xã là gắn liền với sự phát triển của các cơ sở vật chất, nay cơ sở của nó đã bị địch phá mất thì sao ta còn có thể nói về hợp tác xã nữa. Bây giờ hợp tác xã chỉ còn là sự hợp tác giữa những con người. Vì vậy, để phù hợp với sự phân tán và cải thiện tình hình đó thì tốt hơn hết là ta nên chia lại ruộng đất cho các cá thể. Có người lại bảo: bây giờ cũng không nên cử cán bộ đi kiểm tra công việc như thời bình nữa, bởi làm thế có khác nào bắt họ phải phơi mình ra trước nguy hiểm một cách vô ích.
“Chúng tôi tự hỏi xem có cách tổ chức nào để bảo đảm nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu không? Bằng cách chia lại ruộng đất cho các cá thể ư? Thì nếu một quả bom rơi trúng vào mảnh đất chia cho anh thì như vậy mình anh hay gia đình anh sẽ có nguy cơ bị chết đói? Vả lại ở các túi bom - tức là ở những khoảng ruộng hay bị đánh nhất -việc cày cấy đòi hỏi phải được quân sự hoá một cách cao nhất và giao cho những đội xung kích. Cho nên nếu chia lại ruộng đất cho cá thể thì làm sao người ta có thể thực hiện được việc ấy?”... Vĩnh Linh đã sống, chiến đấu và sản xuất trong những điều kiện như vậy đấy, với biết bao khó khăn phải giải quyết, những hy sinh phải chịu đựng, những thử thách phải vượt qua. Sau chiến tranh, “đặc khu” Vĩnh Linh là một trong những nơi bị tàn phá nặng nề nhất ở miền Bắc, và thậm chí có thể trong cả nước...
Khi hoà bình lập lại, số bà con Vĩnh Linh đi tản cư trở về, nhiều người đã không nhận ra được quê hương mình nữa... Tất cả đã bị phá sạch... Nhưng, theo ông Trần Đông, chúng tôi đã có được một vốn lời lớn, đó là 20.000 các em trở về từ nơi sơ tán. Chúng đã học hết cấp 2, cấp 3... Chúng tôi hy vọng đám trẻ này sẽ giỏi giang hơn chúng tôi, nhưng cẩn thận đấy,... đã có đứa chê chúng tôi “văn hoá quá kém”. Tôi bèn trả lòi: “Phải, nhưng nếu không có đám chúng tao, thì bọn bay liệu có thể học đến trình độ đó không?”
Trần Đông kết luận: “Chúng tôi nhận thấy chúng tôi cần phải giáo dục mạnh về tư tưởng cho bọn trẻ hơn nữa, nhưng chúng tôi cũng không thể áp đặt cho bọn chúng những nhận thức của người già...”
Hôm sau ngày ký Hiệp định Paris, Vĩnh Linh im ắng một cách lạ lùng. Do vắng tiếng bom đạn thường ngày? Hay do cảm giác của con người đứng trước hàng ngàn nấm mồ đang nằm la liệt trên mảnh đất bị tàn phá trong bão táp chiến tranh: mộ của dân thường và mộ của những chiến sĩ hy sinh trong chiến dịch 1972...
Ở Vĩnh Giang, nằm đúng trên vĩ tuyến 17, 60.000 trái bom đã được máy bay Mỹ ném xuống 600 hecta đất của xã. Không kể hàng ngàn đạn pháo mà vào những thời kỳ cao điểm hạm đội 7 từ ngoài khơi nã vào hàng ngày. Cuối chiến tranh, Vĩnh Giang chỉ còn 1050 gia đình trong số 1100 gia đình xã có năm 1965. Năm mươi gia đình đã bị biến mất...
Chiến tranh đã để lại những vết thương khủng khiếp. Nhưng mặc dù người ta vẫn nhìn thấy nó ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam, một người quan sát nước ngoài vẫn khó có thể nhận biết được đầy đủ những mất mát hy sinh mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng. Những mất mát hy sinh này là vô kể, không chỉ riêng trong chiến đấu mà nó có ở tất cả các khía cạnh của cuộc sống thường ngày. Thế nhưng bất chấp những đau khổ vừa phải trải qua, vừa mới đứng trước ngưỡng cửa của một hòa bình mong manh, nhân dân Việt Nam lại hăng hái bắt tay vào xây dựng đất nước, sẵn sàng chấp nhận những nỗ lực mới. Vậy cái gì đã là những động cơ thúc đẩy họ và làm cho họ có một sự kiên trì ghê gớm đến thế để đối mặt với mọi hoàn cảnh, trong hoà bình cũng như trong chiến tranh?
Vĩnh Kim là một xã nhỏ nằm trong “đặc khu” cách vĩ tuyến 17 tám kilômét. Năm 1967, có lệnh phải đưa hai phần ba dân, người già, trẻ em, các bà mẹ... đi sơ tán lên mấy tỉnh phía Bắc ở cách đó 600 kilômét. Ở lại bám làng bám xã chỉ còn 800 người, được tổ chức thành các tổ, đội chiến đấu và sản xuất, trong đó 40% dân quân là nữ ở độ tuổi từ mười tám đến bốn mươi. Họ có nhiệm vụ không chỉ bảo vệ quê hương mà còn phải bảo đảm tiếp tế cho bộ đội hành quân vào Nam đi qua, và khi cần thiết thì bổ sung người cho quân đội, đặc biệt là trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972. Đã có một phần mười số dân lao động của xã lên đường ra mặt trận trong những điều kiện như thế.
Cũng trong thời kỳ ấy, dân vùng Vĩnh Linh, những người đã từng phải gánh chịu những tàn phá nặng nề của chiến tranh, còn phải đón tiếp những đồng bào miền Nam của mình từ Quảng Trị tránh bom đạn Mỹ chạy ra. 3.000 trong số 50.000 đồng bào đi lánh nạn ấy được phân đến ở tạm Vĩnh Kim. Những vấn đề do tình huống mới này đặt ra thật không đơn giản: chẳng những phải chia nhà chia cửa, nhường cơm sẻ áo cho đồng bào lánh nạn mà còn phải thông cảm với họ, châm chước cho họ về những thói quen trong nếp sống cũng như về tâm lý, tính tình của họ. Có người chạy ra còn mang theo cả ảnh... “Ông Thiệu” - một điều mà chúng ta thử hình dung xem: bà con Vĩnh Linh sẽ cảm thấy thế nào khi họ trông thấy mặt tên giết người trong ngôi nhà của họ, kẻ đã từng mang bom đạn, thậm chí còn ký tên vào bom đạn để gieo rắc cái chết xuống xóm làng quê hương họ... Thế nhưng “chúng tôi vẫn gắng thuyết phục bà con chạy nạn mà không đối xử thô bạo với họ. Chúng tôi có người còn xuống ngủ đất để nhường giường cho họ”, một cán bộ xã đã kể lại như vậy đó...
Phải đến tháng Bảy năm 1973, bà con Vĩnh Kim đi tản cư mới trở về. Họ thấy xóm làng gần như bị phá trụi, gia đình người còn người mất, sáu mươi hecta đất trồng trọt trước đây nay chỉ còn gần hai mươi hecta tạm gọi là làm được. Các cánh ruộng khác thì ngổn ngang những hố bom và lẫn lộn những mảnh bom mảnh pháo. “Vấn đề đầu tiên của chúng tôi là phải xốc lại tinh thần cho bà con, người cán bộ xã nói tiếp, bởi mọi người tỏ ý chán nản hay muốn nghỉ xả hơi... nhưng đó là điều không thể được. Thậm chí khi dựng lại nhà cửa, chúng tôi đã phải tính đến việc sản xuất ra cái ăn đã”.
Tháng Mười năm 1973, với sự giúp đỡ của một số chuyên gia từ Hà Nội vào, cấp uỷ Đảng bộ xã nghiên cứu một kế hoạch nhằm hợp lý hoá hoạt động sản xuất của các hợp tác xã. Cấp uỷ dự định sẽ khai phá 1.100 hecta đất bazan để trồng trên quy mô lớn hồ tiêu, chè, lạc... Kế hoạch được đưa ra thảo luận trong đảng bộ, chính quyền và rộng rãi trong toàn thể bà con xã viên để lấy ý kiến đóng góp rồi sau đó sửa chữa thông qua.
Việc hợp lý hoá sản xuất này không phải là một vấn đề đơn giản. Ví dụ, nó đòi hỏi phải di dời dân, quy hoạch lại các xóm, trong đó có việc phải đụng chạm đến các xóm cũ, nhà đất cũ, nơi mà người dân đã từng sinh sống và gắn bó với nó từ bao đời nay. Quả là không ít những điều khó nói trong chuyện đó. Như ở thôn Truyên Bắc, thôn được đánh giá là giàu nhất xã. Cả xã có 20 chiếc xe đạp, một thứ đồ quý hiếm và đắt tiền lúc bấy giờ, nhất là ở nông thôn, thì riêng Truyên Bắc đã chiếm 17 chiếc. Còn nhà ngói cây mít trồng thêm một ít chè, hồ tiêu thì cũng không thôn nào bằng Truyên Bắc. Đất ở đấy tốt, nhà cửa cơ ngơi lại tương đối đàng hoàng, thế mà bây giờ lại vận động dân ở đấy bảo họ dời đi thì tất nhiên chẳng mấy người muốn đi... “Không phải dân chúng tôi không thông chủ trương của xã đâu. Nhưng trước khi đi thì cũng phải trồng cây ở chỗ mới đã, rồi còn đợi cho cây cối nó lớn lên...
- Tức là trong bao lâu?
- Ba năm, một ông già trả lời.”
Rồi ông nói dứt khoát: “Ở đây, chúng tôi không ai muốn đi. Ở chỗ mới ấy à, đất thì hoang hoá, trơ trụi, tứ bề chỉ có nắng với gió...” Đoạn ông chỉ tay ra vườn: “Các ông trông những cây kia xem. Lâu lắm nó mới lớn được như thế. Phải mất mười năm rồi nó mới cho ta tiền. Thế mà bây giờ dọn đi thì chúng tôi sẽ phải đợi mười năm nữa...”.
Những lời nói ấy chứng tỏ đối với nông dân, kinh tế gia đình mới quan trọng làm sao và tại sao họ lại gắn bó với nó như thế, mặc dù có những khi nó đi ngược với lợi ích tập thể. Nhưng đối với những gia đình ấy, người ta không bao giờ dùng cưỡng bức mà chỉ kiên trì thuyết phục, vận động.
Tôi đã sống nhiều ngày trong một thôn nghèo nhất xã, nay đã dời đến chỗ mới, một khu đồi trọc suốt ngày gió Lào từ phía tây ào ào thổi tới. Mùa khô, tất cả đều trở nên khô kiệt và cát bụi bốc trong mù mịt rồi quyện với mồ hôi bám vào da tạo thành một lớp ghét đỏ quạnh... Đêm đến, trời trở lạnh và ngọn gió vẫn tiếp tục lùa vào dưới mái tranh.
Trong 30 gia đình của thôn, một điều đập ngay vào mắt tôi là không còn một người đàn ông nào trẻ, tuổi từ mười bảy đến ba mươi lăm. Tất cả ở độ tuổi ấy đều đã ra mặt trận. Những người còn lại đều trạc như ông chủ nhà tôi ở hoặc già hơn và cũng một kiểu người như thế: người nom sắt lại, có vẻ khắc khổ, mặt đầy nếp nhăn như có bao nhiêu nước thì đã bị nắng gió và cuộc đời gian lao vất vả vắt cạn kiệt mất...
Đối với những người đàn bà, ngày ở đây bắt đầu từ 3 giờ 30 sáng. Họ đi kiếm nước cho gia đình lấy ở giếng đào cách nhà nửa cây số. Rồi họ chuẩn bị bữa sáng: luộc một nồi sắn, rồi cả trưa cả chiều cũng vẫn là sắn, đôi khi kèm mấy củ khoai lang. Ở cái nơi cằn cỗi này, gạo được coi gần như một món ăn sang. Đàn ông 4 giờ đi làm đồng, kể cả trẻ con; dạo này chúng đang được nghỉ hè và lao động phụ của chúng được hợp tác xã tính thành công điểm.
Mùa nông nhàn, hợp tác xã giúp họ dựng lại nhà cửa trên những mảnh đất được chia theo lối bốc thăm. Tuy vẫn mái tranh vách đất nhưng nhà cửa khá đủ rộng để chia làm một gian hai chái theo kiểu truyền thống. Nét mới nhất của quang cảnh thôn xóm có lẽ là hàng trăm vỏ bom mẹ bằng nhôm sơn vàng, sơn trắng mà máy bay Mỹ “tặng” cho nhân dân trong vùng một cách hào phóng, nay được bà con lấy về để đựng nước.
Sau ngày Mỹ ngưng ném bom miền Bắc, khi hoà bình còn rất mong manh, cuộc sống của bà con trên mảnh đất bị tàn phá nặng nề này còn hết sức nhọc nhằn cơ cực. Nhưng ý thức tập thể và tình làng nghĩa xóm vẫn tồn tại và nó cố kết mọi người lại thành một cộng đồng xã hội vững chắc dựa trên cơ sở tương trợ, hợp tác. Điều đó được thể hiện rất rõ ở sự hưởng ứng của bà con đối với mọi công trình hợp tác xã đưa ra làm. Anh lái xe cho chúng tôi vốn là một nông dân quê ở Hải Hưng, một tỉnh đồng bằng sông Hồng, thừa nhận: “Ở đây, bà con cực hơn ở chỗ chúng tôi nhiều”.
Thế mà chính những người đàn ông đàn bà ấy đã là những người đương đầu với sức mạnh Hoa Kỳ... Bởi bây giờ, dù có khó khăn gian khổ đến mấy, cuộc sống của họ vẫn không thể sánh được nổi với những cơ cực mà họ cũng như cha ông họ đã từng phải nếm trải ngày xưa...
Nếu cho đến 1972 ở miền Bắc, Mỹ chủ yếu tập trung đánh mạnh vào Liên khu 4 từ vĩ tuyến 20 trở vào, thì đến tháng Mười hai năm 1972, thủ đô Hà Nội đã trở thành nơi phải đương đầu với trận đánh ác liệt nhất của không quân Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Tất nhiên, những trận ném bom vào Hà Nội trong dịp Noen và vào những trung tâm trọng yếu khác của miền Bắc là đều nằm trong những toan tính thời hậu chiến của Mỹ. Ngoài những nhân nhượng thứ yếu mà người Mỹ không quá hy vọng sẽ giành được trên bàn đàm phán, họ còn nhằm vào một mục tiêu xa hơn, đó là làm suy yếu một cách tối đa Bắc Việt Nam và do đó làm tăng thêm sức mạnh cho chế độ Thiệu trước khi ký hiệp định Paris...
Cuối tháng Mười năm 1972, văn bản Hiệp định - mà nội dung cốt lõi của nó sau này sẽ trở thành Hiệp định được ký kết vào tháng Một năm 1973 - đã được chuẩn bị xong. Tới mức mà tất cả các thủ đô trên thế giới, trừ Hà Nội, đều đinh ninh rằng nó sẽ được ký kết vào ngày 20 tháng Mười theo như dự định. Và khi sắp đến ngày bầu cử tổng thống, ở Nhà Trắng Nixon và Kissinger vui mừng hé lộ “hoà bình đã ở trong tầm tay...” Và rồi ngày 20 đã tới và các nhà lãnh đạo Mỹ... lẩn tránh. Cuộc hội đàm Kissinger - Lê Đức Thọ được nối lại từ ngày 20 đến 23 tháng Mười một, rồi từ 4 đến 13 tháng Mười hai. Phía Mỹ đòi những 126 sửa đổi đối với văn bản đã thoả thuận trước đây, trong đó có những điểm rất cơ bản từng là những mục tiêu của chiến tranh: họ muốn xoá bỏ điều 1 về những quyền cơ bản của Việt Nam, trở lại vấn đề tồn tại ở miền Nam, hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị mà tháng 10 vừa rồi họ đã thừa nhận và đó chính là những điểm chủ yếu để làm cơ sở cho những thoả hiệp... Cuối cùng Kissinger còn doạ là nếu chiến tranh kéo dài thì Mỹ sẽ không hạn chế nó như trong khuôn khổ hiện nay...
Ngày 13, hai phái đoàn chia tay nhau không một kết luận và cũng chẳng hẹn một ngày nào họp.
Ngày 15, Lê Đức Thọ rời Paris trở về Hà Nội.
Ngày 16, Kissinger mở một cuộc họp báo và ông ta tiết lộ gần như toàn bộ dự thảo Hiệp định.
Ngày 17, không quân Mỹ đánh một số mục tiêu gần Hải Phòng.
10 giờ sáng ngày 18, tại Paris, trưởng đoàn đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ông Võ Văn Sung thông báo với ngoại trưởng Pháp lúc bấy giờ là Maurice Shumann về khả năng một cuộc leo thang của không quân Mỹ trong những ngày, thậm chí những giờ sắp tới, và ông đề nghị chính phủ Pháp hãy có một lập trường kiên quyết đối với tình hình ấy. Nhưng ông Pompidou đã tránh không bày tỏ thái độ...
Cũng buổi sáng hôm ấy, Bộ chỉ huy quân sự tối cao ở Hà Nội được thông báo về những hoạt động chuẩn bị của loại siêu pháo đài bay B-52 và máy bay tiếp dầu của không quân Mỹ ở căn cứ Utapao trên đất Thái... Triệu chứng về một cuộc không kích ồ ạt của Mỹ mỗi lúc một lộ rõ.
16 giờ (giờ Hà Nội), Bộ chỉ huy tối cao Việt Nam thông báo cho quân khu thủ đô về một trận đánh sắp xảy ra. Các đơn vị tên lửa và phòng không được đưa lên báo động cấp 1 và sẵn sàng nhả đạn.
17 giờ, máy bay chở ông Lê Đức Thọ từ Paris trở về hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm...
Tuy nhiên, cuộc sống ở thủ đô Hà Nội vẫn tiếp tục nhịp điệu bình thường. 18 giờ 30, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 12 ngày thành lập quân giải phóng miền Nam, tại câu lạc bộ quốc tế sẽ có một buổi chiêu đãi các khách mời quốc tế với sự có mặt của phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh và tất cả các nhà ngoại giao đương nhiệm ở Hà Nội; mở đầu buổi chiêu đãi sẽ có trình chiếu phim... Nhưng đến giữa chừng, lúc 19 giờ, nó đã phải ngừng lại. Từ xa vẳng lại tiếng những tràng bom rền ầm ì như sấm và lúc đó trong hầm bê tông, phần lớn các nhà ngoại giao đều nhìn nhau tỏ vẻ hoài nghi, tuy ai nấy đều cố làm ra vẻ tự nhiên...
Chia làm ba đợt, 90 máy bay B-52 và hàng trăm máy bay khu trục đi yểm trợ đã lao vào đánh phá Hà Nội, vào lúc 19 giờ 25, 23 giờ 45 và 4 giờ 10 (ngày 19)...
Mục tiêu lựa chọn là nhà ga, sân bay quốc tế Gia Lâm, Đài tiếng nói Việt Nam... Nhưng bom ném xuống, chúng đâu có phân biệt chỗ nào được gọi là mục tiêu “chiến lược”, chỗ nào là nhà ở của dân thường... giữa mỗi đợt không kích, máy bay tiêm kích ném bom lại cố xông vào tiêu diệt các trận địa phòng không, bởi Mỹ đã thực sự vấp phải một lưới lửa dày đặc của quân và dân Hà Nội.
Các trận ném bom đã kéo dài trong mười hai ngày. Lượng bom bằng một phần tư quả bom nguyên tử ném xuống Hirôsima, tức 20.000 tấn T.N.T đã được máy bay Mỹ trút xuống Hà Nội và vùng phụ cận.
Nhưng dự kiến trước được tình hình nên từ đầu tháng Mười hai, nhân dân Hà Nội đã được lệnh sơ tán. Song nhiều người vẫn chưa muốn đi: đến ngày 18, tức ngày đầu tiên Mỹ bắt đầu đánh Hà Nội mới có 100.000 dân trong số 670.000 dân chịu rời thành phố. Những ngày sau đó việc sơ tán diễn ra dồn dập, 400.000 nghìn người đã tản ra vùng nông thôn xung quanh Hà Nội, ở ngoài tầm được coi là nguy hiểm. Mặc dù vậy Hà Nội vẫn có hàng nghìn người chết vì bom đạn Mỹ...
Tuy nhiên, máy bay chiến lược B-52 cũng không làm lay chuyển được quyết tâm, ý chí của nhân dân Việt Nam. Trái lại, những tội ác man rợ của đế quốc Mỹ càng làm họ tăng thêm căm thù và xiết chặt hàng ngũ hơn nữa. Những nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam có mặt ở đó, tại thủ đô Hà Nội, và người ta thấy chủ tịch Tôn Đức Thắng, thủ tướng Phạm Văn Đồng, tổng bí thư Lê Duẩn... đã kịp thời đến những nơi bị đánh phá để thăm hỏi những gia đình bị nạn, động viên cán bộ, bộ đội và nhân dân... Thành phố đã cố kết thành một khối xung quanh các nhà lãnh đạo và ngày qua ngày, bao trùm Hà Nội là một không khí kỳ lạ, một quyết tâm kháng chiến được nhân lên bởi những đau thương phải chịu đựng mà ở đấy lòng căm thù đã trở thành một động lực có sức mạnh chẳng khác gì sức mạnh của tình yêu...
Đêm đầu tiên người ta có thể cảm thấy Hà Nội căng thẳng như một con thú đang đứng trước một mối nguy hiểm: nó căng mình nghe ngóng, vừa lo sợ nhưng lại vừa quyết tâm đánh trả tới cùng. Quả thực khi B-52 ném bom xuống Hải Phòng hồi tháng Tư, loại máy bay chiến lược ấy có gây cho người ta một nỗi khiếp sợ, nhưng khi ấy là Hà Nội chưa có chuẩn bị đề phòng. Song dần dần qua chiến đấu và chiến thắng, nỗi lo sợ ấy đã mờ nhạt đi, và nhường chỗ cho một quyết tâm mạnh mẽ, một sự tự tin kỳ lạ: điều đó có thể thấy được khi sáng sớm thức dậy, người ta chen nhau trước những quầy báo để mua lấy một tờ báo đọc những tin sốt dẻo thuật lại những chiến thắng trong đêm, hay ở trước những tấm panô lớn dựng ở ngoài trời, người ta túm tụm lại để vừa xem vừa bình luận tin tức chiến sự trong Nam ngoài Bắc... Dưới bom đạn, Hà Nội vẫn sống, sống một cách bình tĩnh công khai, người ta vẫn đều đặn làm vệ sinh đường phố, chăm sóc các vườn hoa... Giữa hai lần báo động, mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường, chỉ khác một điều là phố xá vắng vẻ hơn, vắng người già, vắng trẻ em, vắng người qua lại... Đêm đến là thời gian nổ ra những trận chiến ác liệt nhất... Sau những hồi còi dài hú lên rền rĩ báo động máy bay địch từ xa, là những giờ phút chờ đợi trong hầm trú ẩn, thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng thì thào, những tiếng ho thủng thẳng như nhắc với mọi người rằng cuộc sống vẫn đang tồn tại, thì bất thình lình đất trời rung chuyển và bầu trời đen kịt bỗng sáng rực lên nhoáng nhoáng những ánh chớp của bom đạn từ trên trời trút xuống và của đường đạn, của lưới lửa phòng không từ dưới đất bắn lên...
Trong đêm đầu tiên, bị nhiễu điện tử của pháo đài bay B-52, những con quái vật của công nghệ hiện đại Hoa Kỳ, lực lượng phòng không Quân đội nhân dân Việt Nam những giây phút lúng túng ban đầu đã nhanh chóng đánh trả lại. Dựa trên những kinh nghiệm được rút trả ngay tại trận về phòng chống nhiễu và kịp thời phổ biến, các trận địa tên lửa và pháo phòng không Việt Nam bằng cách đối chiếu tầm, hướng, tốc độ bay của máy bay địch đã xác định được đúng điểm bay ngang qua của B-52 - Chúng thường bay ở độ cao 10.000 mét để bom rải xuống được tập trung hơn - và thế là B-52 đã rúc đầu vào những bức tường thực sự được dựng lên bởi những tên lửa S.A.M có tầm bắn tới 19.000 mét. Những đêm sau, nắm được quy luật hoạt động và tính năng kỹ thuật của B-52, lực lượng phòng không Việt Nam đã khéo léo chăng những lưới lửa phục kích và đánh trả chúng rất có hiệu quả... Trong chiến dịch dùng không quân chiến lược đánh phá Hà Nội, hai mươi ba B-52 đã bị hạ trên bầu trời Hà Nội, tức một phần tư lực lượng B-52 Mỹ ở Đông Nam Á... Ngày nay ở gần vườn Bách thú Hà Nội, người ta vẫn còn thấy xác của một trong số những con quái vật ấy nằm gần kề với những con thú bị nhốt trong chuồng cũi...
Hà Nội đất ngàn năm văn hiến, thanh lịch và duyên dáng, không hề chịu khuất phục mà trái lại nó đã chiến đấu kiên cường như vậy đấy... Cuối cùng trước sức kháng chiến mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và bị thế giới cực lực phản đối, Nixon đã phải từ bỏ các trận đánh bom. 70% tiềm lực phát triển công nghiệp của Bắc Việt Nam đã bị phá huỷ.
Cuối tháng Một năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết: nội dung chủ yếu của nó vẫn là nội dung của bản dự thảo tháng Mười năm 1972.
Tổng kết lại, chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đã gây thiệt hại cho miền Bắc như thế nào?
Tất cả các thành phố đều bị bom tàn phá, trong đó có ba thành phố bị huỷ diệt; 28 trong 30 thị xã bị phá huỷ. Trong số 5.708 xã của Bắc Việt Nam thì có đến 4.000 xã bị ném bom, trong đó có 300 xã ở khu 4 trở thành bình địa. Mỹ đã ném bom xuống 350 bệnh viện, trong đó 10 bệnh viện chỉ còn là những đống đổ nát. Nằm trong danh sách được coi là mục tiêu “quân sự” của bom Mỹ, còn có 1.500 bệnh xá và nhà hộ sinh, 3.000 trường học và trường đại học, 491 nhà thờ và 350 đình chùa...
Về tiềm lực kinh tế. 66 trong 70 nông trường quốc doanh, 1.500 đến 1.600 công trình thuỷ lợi và 1.000 đoạn đê bị ném bom. Sáu tuyến đường sắt cũng như phần lớn các cây cầu bị phá huỷ; cả một nửa số đầu máy cũng thế. Tóm lại là miền Bắc đã mất một phần ba số vốn cố định về công nghiệp của mình - máy móc, công trình xây dựng - do bom đạn Mỹ.
Trong nông nghiệp, 300.000 đến 400.000 hecta ruộng, tức một phần ba diện tích canh tác bị tàn phá; 40.000 con trâu, sức kéo chủ yếu của nông dân bị sát hại.
5 triệu mét vuông nhà ở bị phá huỷ...
Miền Bắc Việt Nam bước ra khỏi chiến tranh mình đầy thương tích; chỉ riêng đối với lực lượng chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc, tổn thất về người đã lên tới một triệu.
Tuy nhiên, vượt lên mọi đau thương mất mát, bằng sức mạnh và nghị lực của chính mình, nhân dân Việt Nam lại một lần nữa quyết tâm tiến hành đến cùng cuộc tổng tiến công xuân 1975, mặc dù họ có phải hy sinh nhiều nữa. Ở đây không có chuyện phép màu. Nếu nhân dân Việt Nam đứng vững và chiến đấu kiên cường như thế thì đó là bởi vì họ có sự gắn bó và đồng tình sâu sắc với chế độ, và họ tìm thấy ở nơi đó sức mạnh và những khả năng để chiến đấu. Chiến tranh tàn phá một cách ghê gớm. Nhưng nhân dân Việt Nam không chỉ có chịu đựng, mà họ còn biết cách chế ngự nó, và giữa những lúc phong ba bão táp dữ dội điên cuồng nhất thì họ vẫn bình tĩnh chuẩn bị cho tương lai...