Nguyên tác: The Clocks (1963)
Số lần đọc/download: 298 / 22
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:48 +0700
Chương 12
S
au khi cho Colin đi rồi, thanh tra Hardcastle nhìn địa chỉ được viết rõ nét trong quyển sổ của mình và gật đầu. Sau đó ông đút quyển sổ trở vào trong túi và bắt đầu giải quyết những vấn đề thường nhật đã chất thành đống trên bàn giấy.
Với ông đó là một ngày bận rộn. Ông bảo người đi lấy cà phê và sandwich, nhận các báo cáo của trung sĩ Cray— chẳng có chỉ dấu hữu ích nào xuất hiện cả. Chẳng có ai ở nhà ga xe lửa hay xe buýt nhận diện được bức ảnh của ông Curry. Các báo cáo của phòng thí nghiệm về y phục thêm vào một con số không. Bộ com-lê của ông ta do một thợ may lành nghề làm nên, nhưng nhãn hiệu tiệm may đã bị gỡ bỏ. Phải chăng ông Curry cố tình muốn giấu tên? Hay đó là mong muốn của kẻ giết ông. Các chi tiết nha khoa đã được chuyển tới bộ phận thích hợp và có lẽ là những chỉ dấu hữu ích nhất — cần ít thời gian — nhưng cuối cùng đạt được kết quả. Tất nhiên trừ trường hợp ông Curry là người nước ngoài? Thanh tra xem xét giả thuyết đó. Có thể có khả năng người chết là người Pháp — tuy nhiên y phục của ông ta rõ ràng không phải của Pháp.
Chẳng có nhãn hiệu tiệm giặt ủi nào để giúp ích cho việc điều tra. Thanh tra không hề nản chí. Nhận dạng là một việc thường chậm chạp, nhưng cuối cùng luôn luôn lòi ra ai đó. Một chủ tiệm giặt ủi, nha sĩ, bác sĩ, một bà chủ nhà trọ. Ảnh người chết sẽ được chuyển tới các đồn cảnh sát, sẽ được đăng lại trên các nhật báo. Sớm muộn gì rồi cũng biết được nhân thân chính xác của ông Curry.
Trong khi chờ đợi còn có lắm việc khác phải làm, không phải chỉ có vụ án Curry này. Hardcastle làm việc không nghỉ giải lao mãi tới năm giờ rưỡi. Ông nhìn đồng hồ đeo tay và quyết định đã đến đúng lúc phải gọi cú điện thoại ông muốn gọi.
Theo báo cáo của trung sĩ Cray thì Sheila Webb đã trở lại Phòng Cavendish. Lúc năm giờ cô sẽ làm việc suốt với Giáo sư Purdy ở Khách sạn Curlew và không thể nào rời khỏi đó, mãi rất lâu sau sáu giờ mới được về.
Để xem lại tên bà dì là gì? Lawton — bà Lawton. Số 14, đường Palmerston. Thay vì đi xe cảnh sát, ông đi bộ trên quãng đường ngắn.
Palmerston là một con đường u ám mà, người ta nói, từng nổi tiếng với những ngày tháng tốt đẹp hơn. Thanh tra lưu ý nhà cửa đã được chỉnh trang chủ yếu thành các căn hộ và nhà nhỏ. Khi ông rẽ ở góc đường, một cô gái đi trên lề tới gần ông với vẻ ngần ngừ. Trong đầu đang bận rộn, thanh tra thoáng có ý nghĩ cô gái định hỏi mình đường đến nơi nào đó. Tuy nhiên, nếu là vậy, hẳn cô gái đã đổi ý và lại tiếp tục đi ngang qua ông. Ông thắc mắc chẳng hiểu vì sao ý tưởng về đôi giày lại đột ngột nảy ra trong đầu ông. Đôi giày… Không, một chiếc giày. Gương mặt cô gái ông thấy hơi quen quen. Là ai vậy nhỉ — một người nào đó ông mới gặp gần đây… Có lẽ cô ta đã nhận ra ông và định nói với ông chăng?
Ông dừng một lát, quay lại nhìn theo cô. Giờ đây cô đang bước rất nhanh. Rắc rối là ở chỗ, ông nghĩ, cô ta có một gương mặt mơ mơ hồ hồ rất khó nhận ra trừ phi có một lý do đặc biệt nào đó để làm như vậy. Đôi mắt màu xanh lơ, làn da đẹp, cái miệng hơi hé mở. Cái miệng. Cũng gợi nhớ một điều gì đó. Một điều gì đó cô ta đã làm với cái miệng của cô? Nói chuyện? Thoa son môi? Không phải. Ông cảm thấy hơi bực bội với chính mình. Hardcastle luôn lấy làm tự hào về khả năng nhận ra các gương mặt. Ông hay nói mình không bao giờ quên một bản mặt từng thấy ở vành móng ngựa hay trên bục nhân chứng, nhưng dẫu sao còn có những nơi giao tiếp khác. Chẳng hạn, ông không tài nào nhớ ra mọi nữ tiếp viên từng phục vụ bàn cho mình. Ông không nhớ hết các cô lái xe buýt, ông xua vấn đề ấy ra khỏi đầu mình.
Giờ đây ông đã tới nhà số 14. Cánh cửa khép hờ và có bốn nút bấm chuông bên dưới có ghi tên. Bà Lawton, ông thấy bà ở trong một căn hộ tầng trệt, ông bước vào và bấm chuông trên cửa bên trái sảnh. Vài phút sau mới được đáp lại. Cuối cùng ông nghe có tiếng chân bước ở bên trong, rồi cửa được mở ra bởi một người đàn bà cao gầy với mái tóc đen rối bù, mặc áo khoác làm việc và có vẻ như bị hụt hơi. Mùi hành phảng phất bay tới từ một hướng hiển nhiên là nhà bếp.
“Bà Lawton phải không ạ?”
“Vâng?” Bà ngó Hardcastle với vẻ ngờ vực và hơi bực mình.
Ông nghĩ bà ta chừng bốn mươi lăm tuổi, vẻ bề ngoài có gì đó hơi giông giống người di-gan lưu linh lạc địa.
“Có chuyện gì thế?”
“Tôi rất hân hạnh nếu bà có thể dành cho tôi đôi chút thời gian.”
“À, về chuyện gì vậy? Lúc này thì tôi đang khá bận.” Bà nói thêm, giọng gay gắt, “Ông không phải phóng viên chứ?”
“Dĩ nhiên là không rồi,” giọng điệu của Hardcastle ra vẻ thân tình. “Chắc đám phóng viên đã làm phiền bà nhiều lắm ạ.”
“Đúng thế. Cứ gõ cửa, bấm chuông rồi hỏi tôi đủ thứ câu vớ va vớ vẩn.”
“Tôi biết là rất bực bội. Ước gì có thể chia sẻ với bà tất cả chuyện ấy, bà Lawton ạ. Tiện thể xin thưa với bà tôi là Thanh tra Hardcastle, phụ trách vụ án mà đám phóng viên đã quấy rầy bà. Giá như có thể, hẳn chúng tôi sẽ dẹp đi rất nhiều, nhưng chúng tôi chẳng có quyền hạn về chuyện đó, bà biết đấy. Báo chí có quyền của họ.”
“Tới tư gia làm phiền người ta như họ thường làm thật đáng hổ thẹn. Cứ lấy cớ là phải có tin tức cho công chúng. Điều duy nhất tôi thấy là tin tức họ đăng báo toàn là một mớ toàn những thứ láo toét từ đầu tới cuối. Cho tới nay như tôi được biết, bất cứ chuyện gì họ cũng xào nấu lại cả. Nhưng mời ông vào nhà đã!”
Bà lùi lại. Thanh tra bước qua ngưỡng cửa và bà đóng lại. Có hai lá thư rơi trên tấm thảm. Chủ nhà cúi tới trước định lượm lên, nhưng thanh tra đã lịch sự chặn trước bà ta. Mắt ông lướt qua chúng trong nửa giây khi trao cho bà, ưu tiên xem các địa chỉ.
“Cảm ơn ông.”
Bà đặt chúng lên cái bàn trong sảnh.
“Mời ông vào phòng khách, được không ạ? Ít ra là — ông đi vào cái cửa này và xin chờ tôi một lát thôi. Cái gì đó đang sôi sùng sục.”
Bà rút lui thật nhanh vào nhà bếp. Thanh tra Hardcastle thận trọng nhìn một lần chót mấy lá thư để trên cái bàn trong sảnh. Một lá gửi cho bà Lawton và hai lá khác gửi cho cô R.S.Webb. Ông bước vào căn phòng được chỉ định. Đó là một căn phòng nhỏ khá bừa bộn, bày biện đồ đạc tồi tàn nhưng đó đây trưng bày một cái đèn chiếu sáng nhiều màu và những đồ vật lạ thường. Một cái ly thủy tinh Venice pha nhiều màu sắc và hình thù trừu tượng trông thật hấp dẫn, có lẽ đắt tiền, hai tấm đệm nhung màu tươi thắm và một đĩa lớn bằng đất nung cẩn những vỏ sò kiểu nước ngoài. Cả dì lẫn cháu đều có nét độc đáo, ông nghĩ.
Chủ nhà quay trở lại, còn hụt hơi hơn trước.
“Bây giờ sẽ ổn cả thôi,” bà nói có vẻ không mấy chắc chắn.
Một lần nữa thanh tra tỏ ra ân hận.
“Xin lỗi vì đã đến nhà bà vào một giờ giấc không thuận tiện, nhưng tôi tình cờ đi qua đây, và muốn xác minh thêm vài điểm nữa về sự việc mà cháu gái bà thật không may đã dính líu vào. Hy vọng cô ấy không phải trải qua những thời khắc tồi tệ nhất, phải thế không? Chắc hẳn đấy là một cú sốc nặng nề với bất kỳ cô gái nào.”
“Vâng, quả đúng thế ạ,” bà Lawton nói. “Sheila trở về trong một tình trạng kinh khủng. Nhưng sáng nay nó đã bình thường và đi làm trở lại.”
“À phải, tôi biết điều ấy,” thanh tra nói. “Nhưng tôi được biết cô ấy đã ra ngoài làm việc cho một khách hàng ở đâu đấy và tôi chẳng muốn làm gián đoạn một công việc như thế nên tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu đến đây nói chuyện với cô ấy ở nhà riêng. Nhưng cô ấy chưa về, phải thế không?”
“Có lẽ tối nay nó về khá muộn. Đang làm cho một giáo sư tên Purdy và theo lời nó nói thì ông ấy chả bao giờ có ý niệm về thời gian. Lúc nào cũng nói ‘việc này sẽ mất không hơn mười phút nữa nên tôi nghĩ chúng ta cũng có thể làm cho xong’ và rồi dĩ nhiên mất gần cả bốn mươi lăm phút. Tuy nhiên, ông ta là người rất tử tế và rất phục thiện. Một vài lần ông ấy đã cố mời nó ở lại dùng bữa tối, và có vẻ hết sức ái ngại vì đã giữ nó lại quá lâu mà chẳng hề nhận ra. Tuy thế đôi khi cũng khá bực mình. Có chuyện gì tôi có thể kể cho ông nghe không, ông thanh tra? Trong trường hợp con bé về quá trễ.”
“À, không hẳn,” thanh tra mỉm cười đáp. “Dĩ nhiên hôm nọ chúng tôi chỉ ghi nhận những chi tiết sơ sài thôi, và tôi thực sự không chắc mình nắm những chi tiết ấy có đúng không.” Ông lại xem qua quyển sổ của mình một lần nữa. “Để tôi xem nào! Cô Sheila Webb — đấy có phải là tên đầy đủ hay cô ấy còn có tên thánh khác? Chúng tôi phải nắm thật chính xác, bà biết đấy, để lập hồ sơ ở buổi sơ thẩm.”
“Buổi sơ thẩm là vào ngày kia, phải không ạ? Nó đã nhận được thông báo phải đến dự.”
“Phải, nhưng cô ấy không nên để chuyện đó làm cô lo lắng. Chỉ cần kể lại chuyện mình đã phát hiện cái xác như thế nào thôi.”
“Các ông vẫn chưa biết người đàn ông đó là ai sao?”
“Chưa. Tôi e rằng mới mấy ngày đầu thôi nên chưa biết được. Trong túi ông ta có một tấm danh thiếp, nên ban đầu chúng tôi tưởng ông ta là nhân viên bảo hiểm kiểu nào đấy. Nhưng bây giờ dường như có nhiều khả năng ai đó đã đưa tấm thiếp cho ông ta. Có lẽ ông ta dự định mua bảo hiểm cho chính mình.”
“À, tôi hiểu rồi,” bà Lawton có vẻ hờ hững.
“Bây giờ tôi chỉ cần nắm cho đúng những cái tên. Tôi nghĩ mình đã ghi là cô Sheila Webb hay cô Sheila R. Webb. Tôi chả nhớ ra cái tên kia. Có phải Rosalie không?”
“Rosemary,” chủ nhà đáp. “Rosemary Sheila nhưng Sheila lúc nào cũng nghĩ cái tên Rosemary quá kỳ khôi nên chẳng bao giờ dùng cái tên nào khác ngoài Sheila.”
“Tôi hiểu rồi,” giọng điệu ông thanh tra không hề lộ vẻ vui mừng vì một trong các linh cảm của ông đã thành sự thật. Ông chú ý đến một điểm nữa. Cái tên Rosemary chẳng hề làm cho bà Lawton lo lắng. Đối với bà, Rosemary đơn giản chỉ là một tên thánh mà cháu bà chả chịu dùng thôi.
“Tôi đã ghi được ngay rồi đây,” thanh tra mỉm cười. “Tôi được biết cháu gái bà từ London đến và đã làm việc cho Phòng Cavendish khoảng chừng mười tháng nay rồi. Chắc bà không rõ ngày tháng chính xác?”
“À, đúng vậy, tôi không thể nhớ được. Là lúc nào đó vào tháng mười một năm ngoái. Chắc là gần cuối tháng mười một.”
“Hẳn thế. Thật sự không thành vấn đề. Cô ấy không sống với bà ở đây trước khi xin được việc làm ở Phòng Cavendish?”
“Không. Trước đó nó sống ở London.”
“Bà có địa chỉ của cô ấy ở London không?”
“À, tôi để ở đâu đây nè,” bà ngó xung quanh mình với vẻ mặt lơ ngơ của người quen sống bừa bộn. “Trí nhớ của tôi kém lắm. Cái gì đó như là Allington Grove, tôi nghĩ là cách xa Fulham. Nó ở chung một căn hộ với hai đứa con gái khác. Những căn phòng giá đắt kinh khủng ở London dành cho bọn con gái.”
“Bà có nhớ tên công ty cô ấy làm việc ở đấy không?”
“À, có chứ. Hopgood và Trent. Một công ty bất động sản trên đường Fulham.”
“Cảm ơn bà. À, tất cả có vẻ rất rõ ràng rồi. Cô Webb là trẻ mồ côi, có đúng không?”
“Đúng,” bà Lawton đáp. Bà cựa quậy có vẻ không thoải mái. Mắt bà lơ đãng nhìn ra phía cửa phòng. “Ông cảm phiền cho tôi trở vào nhà bếp được không?”
“Dĩ nhiên rồi.”
Ông mở cửa cho bà ta. Bà đi ra. Ông tự hỏi mình đúng hay sai khi nghĩ rằng câu hỏi vừa rồi của ông cách nào đó đã khiến bà bối rối. Cho tới lúc ấy câu trả lời của bà được thốt ra một cách hết sức sẵn sàng và dễ dàng, ông suy nghĩ về điều đó cho tới khi bà Lawton quay trở lại.
“Tôi rất xin lỗi,” bà nói với vẻ áy náy, “nhưng ông biết nấu ăn là thế nào rồi đấy. Bây giờ mọi thứ đều hoàn toàn ổn thỏa rồi. Còn điều gì khác ông muốn hỏi tôi không? À này, tôi nhớ lại không phải là Allington Grove. Đó là Carrington Grove và số nhà là 17.”
“Cảm ơn bà. Tôi nghĩ mình vừa hỏi bà có phải cô Webb là trẻ mồ côi không.”
“Vâng, nó mồ côi. Bố mẹ nó đã mất rồi.”
“Cách đây đã lâu rồi à?”
“Họ mất khi nó còn bé.”
Có thể nhận thấy vẻ coi thường trong giọng điệu của bà ta.
“Cô ấy là con của chị bà, hay của anh bà?”
“Chị tôi.”
“À vâng. Và ông Webb làm nghề gì?”
Bà Lawton tạm dừng một chút trước khi trả lời. Bà đang cắn môi. Sau đó bà nói, “Tôi không biết.”
“Bà không biết ư?”
“Tôi muốn nói là không nhớ, cách đây đã quá lâu rồi.” Thanh tra chờ đợi vì biết bà sẽ nói tiếp. Quả thật bà nói tiếp.
“Xin cho tôi hỏi toàn bộ chuyện này có liên quan gì đến vụ ấy — tôi muốn nói bố mẹ nó là ai, bố nó làm gì, từ đâu đến và bất cứ chuyện gì như thế, có gì quan trọng chứ?”
“Tôi cho rằng thật ra thì không quan trọng, bà Lawton ạ, không quan trọng theo quan điểm của bà. Nhưng bà thấy đấy, hoàn cảnh thật khá bất thường.”
“Ông bảo hoàn cảnh bất thường là ý gì?”
“À, chúng tôi có lý do để tin rằng cô Webb đã đến ngôi nhà ấy hôm qua vì được đặc biệt yêu cầu đích danh ở Phòng Cavendish. Vì thế có vẻ như ai đấy đã cố tình sắp đặt để cô ấy đến đấy. Ai đấy có lẽ…” ông ngần ngừ “…có ác cảm với cô ấy.”
“Tôi không thể tưởng tượng ai đó lại ác cảm với Sheila. Nó là một đứa con gái rất dịu dàng. Một đứa con gái hiền lành tốt bụng và thân thiện.”
“Phải,” thanh tra nói thật nhã nhặn. “Chính tôi cũng từng nghĩ thế đấy.”
“Và tôi chả thích nghe ai có ý nói ngược lại,” bà ta nói vẻ khiêu khích.
“Chính xác.” Hardcastle tiếp tục mỉm cười dể giảng hòa. “Nhưng bà phải nhận ra, bà Lawton à, có vẻ như ai đấy đã cố tình làm cho cháu gái bà trở thảnh nạn nhân. Cô ấy bị đưa vào hiện trường, như phim ảnh thường nói. Ai đấy đã sắp đặt để cô vào một ngôi nhà có người chết, và người đó chỉ vừa mới chết thôi. Xem ra bề mặt của sự việc này là một chuyện hiểm ác.”
“Ông muốn nói — ông muốn nói ai đó đang cố làm cho có vẻ như Sheila đã giết chết ông kia? Ồ không đâu, tôi không thể tin chuyện ấy.”
“Khó tin thật,” thanh tra đồng ý, “nhưng chúng tôi phải hoàn toàn chắc chắn và làm sáng tỏ vấn đề. Chẳng hạn không chừng có một thanh niên, ai đấy có lẽ đã phải lòng cháu gái bà, và cháu gái bà có lẽ đã không hề để mắt đến cậu ta? Bọn con trai đôi lúc vẫn làm những việc trả thù cay độc, nhất là khi đã mất bình tĩnh.”
“Tôi không nghĩ chuyện là như vậy,” bà Lawton nhíu mắt cau mày ra chiều đăm chiêu suy nghĩ và nhăn nhó. “Sheila có quen một vài thằng, nhưng không có gì nghiêm trọng. Không có đứa nào kiên trì đeo đuổi bất cứ kiểu nào cả.”
“Biết đâu chuyện xảy ra trong thời gian cô ấy sống ở London?” thanh tra gợi ý. “Dẫu sao, tôi không cho rằng bà biết nhiều về chuyện cô Webb có những bạn bè nào ở đấy.”
“Không, không, có lẽ là không… À, chuyện đó ông phải đích thân hỏi nó, thanh tra Hardcastle. Còn tôi thì chưa bao giờ nghe có chuyện rắc rối nào.”
“Hay có thể là một cô gái khác,” thanh tra lại gợi ý. “Có lẽ một cô gái sống chung phòng ở đấy đã ghen với Sheila.”
“Tôi nghĩ có thể có một đứa con gái muốn chơi xấu,” bà Lawton nói vẻ ngờ vực. “Nhưng không liên quan tới chuyện giết người, chắc chắn như vậy.”
Đó là một đánh giá sắc sảo và thanh tra lưu ý bà Lawton tuyệt nhiên không phải người khờ khạo. Ông nói thật nhanh: “Tôi biết toàn bộ chuyện này nghe có vẻ dứt khoát không thể nào xảy ra, nhưng nếu thế thì toàn bộ vụ việc ấy cũng dứt khoát không thể xảy ra.”
“Chắc phải có kẻ điên khùng nào đó,” bà chủ nhà nhận xét.
“Ngay cả trường hợp điên rồ cũng có một lý do rõ rệt đằng sau sự điên rồ ấy, bà biết đấy,” Hardcastle nói. “Cái gì đấy xui khiến nó xảy ra. Và thực sự,” ông nói tiếp, “chính vì vậy tôi mới hỏi bà về bố mẹ của Sheila Webb. Bà sẽ ngạc nhiên khi biết những động cơ phạm tội có gốc rễ trong quá khứ thường xuyên nảy sinh đến thế nào. Vì bố mẹ của cô Webb đã mất lúc cô còn rất bé, dĩ nhiên cô ấy chẳng thể cho tôi biết bất cứ chuyện gì về họ. Chính vì thế tôi mới hỏi bà đây.”
“Vâng, tôi hiểu, nhưng mà — à…”
Thanh tra để ý thấy giọng bà ta trở lại bối rối và không chắc chắn. Ông hỏi: “Có phải họ bị giết chết cùng một lúc trong một tai nạn, hay đại loại như thế?”
“Không, không có tai nạn gì cả.”
“Thế cả hai đều mất vì những lý do tự nhiên hay sao?”
“Tôi — à vâng, tôi muốn nói — thật ra tôi không rõ.”
“Chắc hẳn bà phải biết nhiều hơn một chút so với những gì bà vừa nói với tôi, bà Lawton ạ.” Ông đoán liều một câu. “Có lẽ họ đã ly dị — đại loại thế?”
“Không, họ không ly dị.”
“Nào nào, bà Lawton. Bà biết—bà phải biết chị bà chết vì chuyện gì chứ?”
“Tôi không hiểu chuyện gì — Ý của tôi là tôi không thể nói — rất khó. Cứ khơi lại chuyện này chuyện nọ. Tốt hơn hết đừng có khơi gợi lại nữa.” Có một nét bối rối tuyệt vọng trong cái liếc nhìn của bà ta.
Thanh tra nhìn bà soi mói. Rồi ông nói một cách nhẹ nhàng: “Có lẽ Sheila Webb là con ngoài giá thú?”
Ông lập tức trông thấy một nỗi kinh sợ pha lẫn vẻ nhẹ nhõm hiện lên trên gương mặt bà ta.
“Nó không phải con tôi,” bà nói.
“Có phải cô ấy là con ngoài giá thú của chị bà?”
“Phải, nhưng nó không biết chuyện đó. Tôi chưa bao giờ cho nó biết. Tôi nói với nó bố mẹ nó đã chết lúc còn trẻ. Bởi thế cho nên — à, ông hiểu rồi đó…”
“Ô, vâng, tôi hiểu,” thanh tra nói, “và tôi cam đoan với bà trừ phi có gì xảy đến trong chuyên án đặc biệt này, tôi không cần thiết thẩm vấn cô Webb về đề tài này.”
“Ông muốn nói không cần cho nó biết sao?”
“Không cần, trừ phi có liên quan đến vụ án. Nhưng tôi cần biết tất cả những sự kiện mà bà biết, bà Lawton ạ, và tôi cam đoan với bà sẽ làm hết sức mình để giữ bí mật những gì bà nói với tôi, hoàn toàn chỉ có hai chúng ta biết mà thôi.”
“Chuyện xảy ra không hay ho gì,” bà Lawton nói, “và tôi rất đau buồn vì nó, có thể nói với ông như vậy. Chị tôi vẫn luôn là một người tài giỏi trong gia đình. Chị là giáo viên giỏi. Rất được kính trọng và mọi chuyện khác nữa. Người cuối cùng người ta nghĩ sẽ…”
“À,” thanh tra nói rất khéo, “vẫn thường xảy ra như thế đấy. Bà ấy đã quen với người đàn ông này — ông Webb này…”
“Ngay cả tên anh ta là gì tôi cũng không biết. Tôi chưa từng gặp anh ta. Nhưng chị ấy tới gặp tôi và kể chuyện đã xảy ra. Chị sắp có một đứa con nhưng người đàn ông lại không thể, hay không muốn — tôi không biết nữa — anh ta không chịu cưới. Chị ấy là người có nhiều hoài bão, và điều đó có nghĩa là phải bỏ việc nếu chuyện bại lộ. Vì vậy lẽ đương nhiên tôi — tôi đã nói là sẽ giúp.”
“Hiện giờ chị bà ở đâu, bà Lawton?”
“Tôi không biết gì cả. Hoàn toàn không biết gì cả.” Bà ta nhấn mạnh.
“Dẫu sao bà ấy vẫn còn sống chứ?”
“Chắc là vậy.”
“Bà đã không duy trì liên lạc với bà ấy sao?”
“Là do chị ấy muốn vậy. Chị ấy nghĩ sẽ tốt hơn cho đứa bé lẫn chị ấy nếu hoàn toàn cắt đứt quan hệ. Vì vậy mọi sự đã được định đoạt theo cách đó. Cả hai chị em tôi đều có một khoản thu nhập nhỏ do mẹ chúng tôi để lại. Chị Ann giao phần được chia đôi của chị cho tôi để lo nuôi dạy con bé. Còn chị thì tiếp tục hành nghề, chị nói vậy, nhưng sẽ chuyển trường. Có người đã nghĩ, tôi tin thế, chị ấy đã trao đổi một niên khóa với một giáo viên ở nước ngoài. Nước Úc hay đâu đó. Tất cả những gì tôi được biết chỉ có thế, thanh tra Hardcastle à, và là tất cả những gì tôi có thể kể cho ông nghe.”
Ông nhìn bà ta có vẻ nghĩ ngợi. Có thật đó là tất cả những gì bà ta biết? Một câu hỏi khó trả lời, rất khó. Chắc chắn đó là tất cả những gì bà ta muốn kể cho ông nghe. Cũng có thể đó là tất cả những gì bà ta biết. Tuy kết quả sưu tra về bà chị còn sơ sài, Hardcastle vẫn có ấn tượng về một cá tính mạnh mẽ, chua cay, giận dữ của người này. Dạng phụ nữ quyết không để mình tàn đời vì một sai lầm. Một cách kiên định lạnh lùng, bà ta đã chuẩn bị đầy đủ để nuôi dạy và có thể còn lo cho hạnh phúc của con mình nữa. Từ đó trở đi bà tự cắt đứt để lênh đênh phiêu bạt, bắt đầu lại một cuộc sống tùy ý mình.
Ông nghĩ, sao bà ta cảm thấy như thế về đứa con thì có thể hiểu được, nhưng còn em gái bà thì sao? ông nói một cách nhẹ nhàng: “Bà ấy đã không giữ liên lạc tối thiểu với bà qua thư từ cũng kỳ thật, bộ không muốn biết đứa bé phát triển thế nào hay sao?”
Bà Lawton lắc đầu.
“Không đâu, giá như ông có quen biết chị Ann thì sẽ rõ. Chị ấy lúc nào cũng rất dứt khoát khi quyết định một việc gì. Và tôi với chị ấy không thân thiết lắm. Tôi nhỏ tuổi hơn chị ấy rất nhiều — mười hai tuổi. Như tôi nói đó, chúng tôi chưa bao giờ thân với nhau lắm.”
“Còn chồng bà thì nghĩ gì về việc nhận nuôi này?”
“Lúc đó tôi đã ở góa. Tôi lấy chồng lúc còn trẻ và chồng tôi chết trong chiến tranh. Thời gian ấy tôi trông coi một cửa hàng bánh kẹo.”
“Tất cả chuyện này xảy ra ở đâu thế? Không phải ở Crowdean này?”
“Không phải. Thời gian đó chúng tôi sống ở Lincolnshire. Tôi đã đến đây một lần vào kỳ nghỉ hè, và tôi thích quá chừng nên đã bán cửa hàng rồi dọn tới sống ở đây. Về sau, khi Sheila tới tuổi đi học, tôi xin vào làm ở Roscoe và West, cửa hàng bán vải lớn nơi này. Tôi vẫn còn làm việc ở đó. Họ là những người rất vui tính.”
“À, xin cảm ơn bà rất nhiều, bà Lawton,” Hardcastle đứng dậy, “vì đã thành thật kể cho tôi biết chuyện.”
“Ông sẽ không nói một lời nào với Sheila chứ?”
“Không đâu, trừ phi việc ấy trở nên cần thiết, và chỉ xảy ra nếu một số hoàn cảnh từ quá khứ tỏ ra có dính líu với án mạng ở nhà số 19, Wilbraham Crescent. Và điều ấy tôi nghĩ không thể nào xảy ra cả.” Ông rút trong túi ra bức ảnh mà ông đã đưa cho quá nhiều người xem, rồi chìa nó cho bà Lawton xem. “Bà có biết người đàn ông này là ai không?”
“Người ta đã đưa cho tôi xem rồi.” Bà Lawton cầm lấy bức ảnh, săm soi một cách sốt sắng.
“Không. Tôi chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn, trước giờ tôi chưa hề gặp người này. Tôi không nghĩ ông ta là người ở đây hay nhớ đã từng gặp ở đâu đó. Dĩ nhiên…” bà nhìn thật kỹ. Ngừng lại một lát, rồi bà nói thêm, khá bất ngờ: “Ông này trông có vẻ là người tử tế, tôi nghĩ vậy. Một quý ông, phải nói như thế. Ông nghĩ sao?”
Đó là kiểu nói đã lỗi thời theo kinh nghiệm của ông thanh tra, thế nhưng lại rơi ra một cách tự nhiên từ đôi môi của bà chủ nhà. ‘Được nuôi dạy ở thôn quê,’ ông nghĩ. ‘Họ vẫn quen nghĩ về chuyện này chuyện nọ cái kiểu ấy.’ Ông tự ngó lại bức ảnh, trầm ngâm suy nghĩ với đôi chút ngạc nhiên vì đã không nghĩ về người chết theo kiểu đó. Có phải ông ta là người tử tế? Thanh tra vẫn luôn nghĩ điều ngược lại. Cho là như thế có lẽ vì vô thức, hoặc bị ảnh hưởng bởi sự kiện người đàn ông có một danh thiếp trong túi mang một cái tên và một địa chỉ hiển nhiên là sai. Nhưng lời ông đã giải thích với bà Lawton ngay bây giờ có thể là đúng. Có thể tấm thiếp đó tiêu biểu cho một nhân viên bảo hiểm giả mạo đã ép người chết nhận tấm thiếp. Và, ông nghĩ một cách gượng gạo, điều đó thực sự khiến cho toàn bộ sự việc càng thêm khó khăn.
Ông lại liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
“Tôi không nên tách bà khỏi việc nấu nướng lâu hơn nữa,” ông nói, “bởi vì cháu gái bà vẫn chưa về đến nhà.”
Tới lượt bà Lawton nhìn đồng hồ để trên bệ lò sưởi. ‘Chỉ có một chiếc đồng hồ trong phòng này, tạ ơn trời!’ thanh tra thầm nghĩ.
”Vâng, nó về trễ,” bà nhận xét. “Thật đáng ngạc nhiên. Edna không đợi cũng tốt đó chứ.”
Thấy vẻ mặt Hardcastle hơi ngơ ngác, bà giải thích: “Là một đứa con gái ở sở làm. Tối nay nó tới đây để gặp Sheila và đã chờ một chút xíu nhưng một lát sau nó nói không thể chờ lâu hơn nữa. Nó có hẹn với ai đó. Nó nói thôi để ngày mai hay là khi khác.”
Trong đầu thanh tra bừng sáng lên. Cô gái đã đi ngang qua ông ngoài đường! Giờ đây ông đã biết vì sao cô ta khiến ông nghĩ tới những chiếc giày. Đúng rồi. Chính là cô gái đã tiếp ông ở Phòng Cavendish và là cô gái lúc ông ra về đang cầm lên một chiếc giày với cái gót nhọn đã bị sút ra, và đã rối trí vì xúi quẩy nên bàn chuyện làm sao đi về nhà như thế. Một kiểu phụ nữ khó tả vì không có đặc điểm gì, ông nhớ lại, không hấp dẫn lắm, luôn mút một thứ kẹo nào đó khi nói chuyện. Cô đã nhận ra ông khi đi ngang qua trên phố dù ông không nhận ra cô. Cô cũng đã ngần ngừ do dự như thể định nói với ông. Ông tự hỏi khá vu vơ, không biết cô muốn nói gì. Phải chăng cô muốn giải thích vì sao tới nhà Sheila Webb hay cô tưởng ông mong cô nói điều gì đó? Ông hỏi: “Có phải cô ấy là một người bạn thân của cháu bà không?”
“À, không có gì đặc biệt,” bà Lawton đáp. “Tôi muốn nói bọn nó làm chung sở thôi, nhưng con bé ấy khá khù khờ. Không sáng dạ lắm, nó và Sheila không phải bạn đặc biệt gì. Thực tế là tôi đã thắc mắc không hiểu tại sao tối nay nó lại muốn gặp Sheila vậy. Nó nói không hiểu nổi chuyện gì đó và muốn hỏi Sheila.”
“Cô ấy không cho bà biết là chuyện gì sao?”
“Không, nó bảo để nó nói chuyện đó với con bé, và không có gì quan trọng.”
“Tôi hiểu. À, tôi phải đi đây.”
“Thật lạ quá,” bà Lawton nói, “sao Sheila không gọi điện thoại. Nó thường vẫn gọi nếu về trễ, vì đôi khi ông giáo sư mòi nó ở lại dùng bữa tối. A, phải rồi, tôi nghĩ nó sẽ về ngay bây giờ đây. Có nhiều xe buýt đôi khi nối đuôi nhau, và Khách sạn Curlew rất tiện đường để tới phố đi bộ Esplanade. Không có gì—không nhắn gì à—ông có muốn để lại lời nhắn cho Sheila không?”
“Tôi nghĩ là không,” thanh tra đáp.
Khi đi ra ông hỏi, “À này, ai đã chọn tên thánh cho cháu gái bà, Rosemary và Sheila? Chị bà hay chính bà?”
“Sheila là tên mẹ chúng tôi. Rosemary do chị tôi chọn. Chọn lựa gì kỳ cục thật! Lập dị. Nhưng mà chị tôi không hề lập dị hay đa cảm chút nào.”
“Vâng, chúc bà ngủ ngon nhé, bà Lawton.”
Khi từ lối vào cổng rẽ ra phố, thanh tra nghĩ: “Rosemary — Hừm… Rosemary để tưởng nhớ. Hồi tưởng lãng mạn? Hay là cái gì đó hoàn toàn khác?”