Love is one long sweet dream, and marriage is the alarm clock.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Kobo Abe
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Woman In The Dunes (1962)
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Az Links
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3541 / 91
Cập nhật: 2017-11-29 14:55:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
nh không còn nhớ gì hết. Thế rồi anh lại nằm mơ một giấc mơ dài, nặng nề. Anh thấy mình cưỡi trên một chiếc đũa, bay xuống đường phố lạ. Đang bay chợt anh có cảm giác không còn vi vút nữa. Đường phố mang sắc đỏ xỉn ngay dưới chân và phía xa xa là màu xanh lá cây mờ ảo. Sự kết hợp giữa hai màu sắc đó khiến anh khó chịu. Cuối cùng anh đến trước một ngôi nhà gỗ trông từa tựa như trại lính. Không khí phảng phất mùi xà phòng thơm rẻ tiền. Anh bước lên cầu thang, vừa đi vừa xốc chiếc quần như muốn tụt xuống và đến một căn phòng trống rỗng, chỉ kê có một chiếc bàn dài, hẹp. Độ mười người nam và nữ ngồi xung quanh bàn đang chơi một trò gì có vẻ hào hứng lắm. Một người ngồi giữa đang chia cỗ bài. Chưa hết, người đó đột nhiên đưa cho anh lá bài cuối cùng và khóc rống lên. Anh miễn cưỡng cầm lấy lá bài, nhìn vào đó và thấy không phải là bài mà là một lá thư. Lá thư trong tay anh mềm nhũn lạ kỳ. Khi anh kẹp mạnh vào thư, máu vọt ra. Anh hét lên và thức giấc.
Đôi mắt anh như bị một làn sương mù bao phủ. Khi anh giở mình, anh nghe có tiếng giấy khô loạt soạt. Mặt anh được phủ bằng một tờ báo mở rộng. Chết thật! Anh đã lại ngủ thiếp từ lúc nào. Một lớp cát trượt khỏi mặt báo khi anh gạt nó sang bên. Dựa vào lượng cát rơi xuống, anh đoán ra mình đã thiếp đi khá lâu. Tia nắng mặt trời chiếu rọi chếch qua các lỗ hổng trên tường cho thấy đã gần trưa. Có mùi gì là lạ? Anh tự hỏi. Mùi mực in thì phải? Anh nhủ thầm. Không có lẽ như thế, nhưng anh vẫn liếc nhìn hàng chữ đề ngày ở tờ báo. Thứ Tư ngày 16. Đúng là báo hôm nay rồi! Không thể tin được nhưng sự thật là như thế. Vậy hẳn chị ấy đã chuyển lời yêu cầu của anh.
Anh chống khuỷu tay lên chiếc chiếu ẩm ướt và dính nhơm nhớp mồ hôi. Tiếp đó nhiều ý nghĩ xáo trộn trong đầu, anh cố nhét vào đầu những hàng chữ in trên tờ báo mong đợi đã lâu. “Tiến bộ trong chương trình nghị sự của ủy ban hỗn hợp Nhật - Mỹ”. Làm thế nào mà chị ấy lại có được tờ báo này? Có thể nào dân làng bắt đầu cảm thấy là họ “nợ” anh cái gì? Mặc dù vậy, căn cứ vào những việc xảy ra từ trước đến giờ thì mọi quan hệ với bên ngoài đã chấm dứt từ sau bữa ăn sáng. Người phụ nữ ấy có cách liên lạc đặc biệt với bên ngoài mà anh chưa được biết chăng? Hay là chính chị đã đích thân ra ngoài và mua tờ báo về. Chắc chắn phải có một trong hai giả thuyết trên là đúng.
“Những biện pháp cương quyết để đối phó với tình trạng ùn tắc xe cộ”. Nhưng, hãy khoan đã. Giả sử chị đã ra ngoài - khó lòng mà có thể chấp nhận là chị làm được việc này mà không cần đến một cái thang dây. Không biết bằng cách nào mà chị làm được việc này nhưng có điều chắc chắn là phải dùng đến một cái thang dây. Một người tù mơ ước được tự do là lẽ thường, nhưng người phụ nữ ấy - là dân ở đây sao lại chịu để mất tự do đi lại như vậy? Việc đem cái thang dây đi chắc chỉ để tạm thời giữ chân anh. Nếu quả thế thật, và nếu anh có thể làm họ không phải canh phòng nữa, thì một dịp nào đó anh sẽ thoát được không chừng.
“Một chất vừa được phát hiện trong củ hành có thể chữa lành các vết thương gây ra bởi chất phóng xạ”.
Hình như cách giả ốm của anh đã có một tác dụng bất ngờ. Mọi điều anh chờ đợi diễn ra đúng lúc và trọn vẹn. Nhưng dù sao anh vẫn cảm thấy chưa thỏa mãn, có lẽ là do giấc mơ quái gở, kỳ lạ mà anh vừa trải qua. Anh cảm thấy lo âu về lá thư nguy hiểm kia. Nhưng liệu nó có thực nguy hiểm không? Và giấc mơ ấy mang ý nghĩa gì vậy?
Tuy nhiên chẳng việc chỉ phải băn khoăn mỗi lần nằm mơ thấy một cái gì đó. Dù thế nào, anh phải làm cho đến cùng những điều anh vừa mới bắt đầu.
Người thiếu phụ vẫn nằm ngủ trên sàn nhà, cạnh lò sưởi. Chị thở nhè nhẹ, người cuộn lại, hai tay vòng lấy đầu gối như thường lệ; chị phủ một cái áo kimônô mùa hạ nhàu nát trên mình. Sau hôm đầu, chị thôi không ngủ trần nữa nhưng bên dưới chiếc kimônô chị vẫn không mặc gì.
Anh liếc qua trang xã hội và mục tin địa phương. Tất nhiên không có bài nào đăng về vụ anh biệt tích, cũng không có lấy một mẩu rao vặt nào về người thất lạc hết. Đã đoán trước điều đó nên anh không quá thất vọng. Anh lặng lẽ ngồi dậy và bước xuống đất. Anh chỉ mặc một cái quần lót rộng thùng thình, dài đến đầu gối, bằng tơ nhân tạo, mình cởi trần. Rốt cuộc, ăn mặc cách này là tiện nhất. Cát tụ lại quanh cạp quần, khiến da chỗ đó bị rát và ngứa ngáy.
Anh đứng ở ngưỡng cửa, ngước nhìn bức tường cát. Ánh nắng làm chói mắt anh và quanh mắt anh bắt đầu vàng đi vì bỏng rát. Không có vết chân người hay thang dây. Tuy nhiên anh vẫn xem xét kỹ cho chắc chắn. Không có dấu vết nào cho thấy đã có một cái thang dây vừa thả xuống. Tất nhiên với loại gió này, chỉ cần năm phút thôi là bất cứ dấu vết nào trên cát cũng bị xóa đi tức khắc. Ngay phía ngoài ngưỡng cửa, mặt cát luôn luôn gọn sóng tựa hồ có một luồng gió thổi qua.
Anh vào nhà và nằm xuống. Một con ruồi giấm nhỏ, màu hồng nhạt bay vo ve quanh nhà. Sau khi nhấp một ngụm nước trong cái ấm có bọc nylon để cạnh gối, anh nói với người thiếu phụ:
- Chị dậy một lát được không?
Chị nhỏm ngay dậy, run rẩy, chiếc kimônô tụt xuống đến ngang thắt lưng. Những đường gân xanh nổi rõ trên bộ ngực đã mất vẻ rắn chắc nhưng vẫn còn đầy đặn của chị. Chị kéo chiếc áo lên, ngượng ngùng. Đôi mắt chị mơ màng và hình như còn ngái ngủ. Anh do dự. Có nên hỏi chị về cái thang dây bây giờ không? Có nên nói to giận dữ không? Hay nên nói ôn tồn, dò hỏi và đồng thời cám ơn chị về tờ báo? Nếu mục đích là ngăn không cho chị ngủ thì tốt nhất là nói thẳng hơn là cứ quanh co mãi. Anh quên khuấy mất là mình đang giả ốm vì cử chỉ của anh không thể là cử chỉ của người đang bị trẹo cột sống. Anh muốn dân làng thấy rằng anh không giúp gì được cho công việc của họ, và phải làm cho họ thôi không canh phòng anh nữa. Họ đã đấu dịu đến mức cho anh một tờ báo; và anh phải tiếp tục đánh bại sự chống đối của họ.
Nhưng hy vọng của anh không đạt. Chị nói:
- Không, tất nhiên là em không hề ra ngoài. Mấy ông ở bên hợp tác xã nông nghiệp tình cờ đến đưa ít thuốc phòng phân hủy gỗ nên em mới có dịp hỏi xin tờ báo. Chỉ có độ bốn, năm nhà trong làng lấy báo. Họ phải đi ra tận cửa hàng ngoại tỉnh để mua tờ báo về đây.
Không lẽ nào mọi việc xảy ra như vậy. Thế thì chẳng khác gì bị giam trong xà lim khóa trái mà không có chìa khóa. Nếu ngay chính những người dân trong vùng cũng cam chịu giam hãm, thì bức tường cát kia là cả một thử thách đối với anh. Anh tuyệt vọng và đành xuống nước nài nỉ:
- Thật kỳ lạ! Đây là nhà của chị, phải không nào? Chị đâu phải là một con chó. Không có gì cản trở chị tự do đi lại. Hay chị làm gì xấu xa đến nỗi không dám giáp mặt với dân làng?
Đôi mắt chị mở to kinh ngạc. Cái nhìn giận dữ đến mức nó bỗng đỏ ngầu lên.
- Tất nhiên là không! Thực bậy bạ nếu tin rằng em không dám giáp mặt với mọi người!
- Vậy thì không có lý gì mà chị lại phải sợ hãi đến thế.
- Chỉ bởi em không có việc cần phải ra ngoài.
- Ít ra chị vẫn có thể đi dạo được chứ?
- Đi dạo ấy à?
- Phải, đi dạo. Thì chỉ đi dạo quanh một chút không được sao? Ý tôi là chị vẫn thường đi dạo mỗi khi thích, trước khi tôi đến đây phải không?
- Vâng, nhưng nếu đi mà không có chủ đích thì chán lắm.
- Tôi không nói đùa đâu. Ngay cả súc vật, chúng sẽ phát khùng lên nếu bị nhốt quá lâu. Chị phải hiểu điều đó chứ!
- Nhưng mà em đã đi dạo nhiều rồi - Đột nhiên chị đáp ngay, giọng đều đều, xa lạ- Trước khi em đến đây, em vẫn địu con đi dạo một hồi lâu. Còn bây giờ em thấy chán ngấy chuyện đi dạo rồi.
Anh sửng sốt. Thật là một cách trả lời kỳ lạ. Anh không biết nói thế nào khi chị đổi giọng như thế với anh.
Người Đàn Bà Trong Cồn Cát Người Đàn Bà Trong Cồn Cát - Kobo Abe Người Đàn Bà Trong Cồn Cát