You can never get a cup of tea large enough or a book long enough to suit me.

C.S. Lewis

 
 
 
 
 
Tác giả: Astrid Lindgren
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Phạm Văn
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 222 / 14
Cập nhật: 2020-01-25 21:17:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Mio, Con Trai Ta
HẢI, BAN MAI đã hửng lên rồi. Trời đẹp tuyệt, vầng dương rạng rỡ, một làn gió mùa hè ùa vào khung cửa mở rộng làm rối tung mái tóc tôi. Tôi nhoài người nhìn xuống mặt hồ. Hồ nước xanh vui tươi, phản chiếu ánh nắng lấp lánh. Bầy Chim Bị Bùa Mê đã biến mất.
Chao ôi, quả là một ngày tươi đẹp! Một ngày như thế này sẽ chỉ khiến bạn ao ước được vui chơi mà thôi. Tôi nhìn mặt nước gợn sóng lăn tăn trong gió sớm. Chợt tôi hết sức thèm được ném một thứ gì đó xuống hồ, thường cứ hễ nhìn thấy nước là người ta vẫn hay muốn được làm như thế đấy, và tưởng tượng nếu ném từ trên cao xuống thì nước sẽ bắn lên tung tóe thế nào. Nhưng trong tay tôi không có gì khác ngoài thanh gươm, thế là tôi thả luôn nó xuống hồ. Tôi thích thú nhìn nó bay trong không trung, rồi rơi tùm xuống, bọt sóng bắn lên tung tóe. Ở chỗ thanh gưom chìm nghỉm xuất hiện một vòng tròn rộng, mỗi lúc một lan xa hơn, và tỏa đi khắp mặt hồ.
Một cảnh hết sức tuyệt! Nhưng tôi không có thời gian ở lại xem những gợn nước lặng đi. Tôi phải lập tức trở lại với Pompoo. Tôi biết nó đang nóng lòng đợi tôi.
Tôi chạy ngược trở lại trên chính con đường tôi đã chạy cách đây một giờ. Các đại sảnh và hành lang dài vắng ngắt, im lìm. Không còn một tên lính canh hắc ám nào. Mặt trời soi vào tận những đại sảnh hoang vắng. Nó chiếu qua khung cửa sổ chấn song lên những tấm mạng nhện giăng đầy dưới vòm cửa, và bạn có thể thấy tòa lâu đài cũ kỹ tồi tàn đến nhường nào.
Khắp nơi vắng ngắt và im lìm, khiến tôi chợt phát hoảng: nhỡ đâu Pompoo cũng có thề biến mất thì sao. Thế là tôi co cẳng chạy thục mạng mỗi lúc một nhanh. Nhưng khi đến gần ngọn tháp, tôi nghe tiếng Pompoo đang thổi sáo réo rắt, thế là tôi bật cười thật to.
Tôi mở cửa nhà tù, Pompoo đang ngồi trên sàn.
Trông thấy tôi, mắt nó ánh lên lấp lánh, rồi nó chạy ào lại nói, "Tớ cứ phải thổi sáo liên tục đấy. Tớ lo kinh khủng."
"Bây giờ cậu không còn phải lo gì nữa," tôi nói.
Chúng tôi rất vui, Pompoo và tôi. Chúng tôi cứ nhìn nhau mà cẩt tiếng cười vang!
"Bây giờ chúng mình ra khỏi nơi này thôi," tôi nói. "Mình sẽ đi ngay và không bao giờ quay trở lại nữa."
Chúng tôi nắm tay nhau cùng chạy ào ra sân lâu đài của Nam tước Kato. Và kia, có ai đang phi nước đại về phía tôi, còn ai ngoài Miramis nữa chứ! Con Miramis bờm vàng của tôi! Bên cạnh nó là một con ngựa non trắng muốt đang nhảy nhót tung tăng!
Con Miramis phi thẳng về phía tôi, tôi vòng tay quanh cổ nó, tôi ôm cái đầu xinh đẹp của nó ghé sát vào mái đầu tôi một lúc thật lâu và tôi thì thầm vào tai nó, "Miramis, Miramis của ta!"
Con Miramis nhìn tôi với cặp mắt trung thành, tôi biết nó rất nhớ tôi, nhớ nhiều y như tôi đã nhớ nó vậy.
Giữa sân lâu đài vẫn còn chôn cây cột với sợi dây xích nằm vương vãi bên cạnh. Tôi chợt hiểu rằng con Miramis cũng đã bị bùa mê. Nó chính là con ngựa đen bị xích trong sân suốt đêm. Còn con ngựa non không không phải con ngựa nào khác mà là con ngựa bị Nam tước Kato bắt trộm trong Rừng sáng Trăng. Vì con ngựa non này mà một trăm con ngựa bạch đã khóc ra những giọt lệ máu. Bây giờ chúng sẽ không phải khóc nữa, vì con ngựa non của chúng đã sắp trở về rồi.
"Nhưng còn tất cả những người bị Nam tước Kato bắt thì sao?" Pompoo thốt lên. "Đàn Chim Bị Bùa Mê biến đâu rồi?"
"Mình cưỡi ngựa xuống hồ tìm chúng nhé," tôi nói.
Chúng tôi nhảy lên lưng Miramis, còn con ngựa non vội vàng theo sau. Chúng tôi phóng qua cổng lâu đài.
Đúng lúc đó chúng tôi nghe một âm thanh kỳ quái, đáng sợ. Phía sau lưng chúng tôi có thứ gì sụp đổ, làm rung chuyển cả mặt đất. Đó là tòa lâu đài của Nam tước Kato đổ ụp xuống thành một đống đá khổng lồ. Không còn ngọn tháp, không còn những đại sảnh hoang vắng, không còn cầu thang quanh co tối tăm, không còn cửa sổ lắp chấn song, không còn gì cả. Chỉ còn lại một đống đá khổng lồ.
"Lâu đài của Nam tước Kato đã biến mất vĩnh viễn rồi," Pompoo kêu lên.
"Chỉ còn lại toàn đá thôi," tôi nói.
Một con đường quanh co, dốc đứng đổ từ vách đá xuống tới bờ hồ. Con đường rất hẹp và nguy hiểm. Nhưng con Miramis bước đi thận trọng, đặt móng đúng trên mặt đường, con ngựa non cũng thế. Và chúng tôi đã xuống đến bờ hồ an toàn.
Dưới chân vách đá, một đàn trẻ nhỏ đang tụ tập quanh một phiến đá. Có lẽ chúng đang đợi chúng tôi, vì chúng tiến tới chúng tôi với khuôn mặt rạng rỡ.
"Ôi! Các em trai của Nonno kia," Pompoo nói. "Em gái của Totty và tất cả mọi người kìa. Họ không còn là Đàn Chim Bị Bùa Mê nữa."
Chúng tôi nhảy khỏi lưng con Miramis. Cả lũ trẻ tiến tới gần chúng tôi, có vẻ hơi ngượng nghịu nhưng rất thân thiện và vui sướng. Một bé trai, em của Nonno cầm tay tôi rồi nói khẽ, như thể nó không muốn ai nghe, "Em rất vui khi thấy anh mặc chiếc áo choàng của em, em rất vui sưóng vì chúng em không còn bị bùa mê nữa."
Một bé gái, em của Totty cũng đi về phía chúng tôi. Nó không nhìn tôi mà nhìn ra hồ, vì nó xấu hổ, nó nói bằng một giọng thỏ thẻ, "Em rất vui vì anh có chiếc thìa của em, em rất vui sướng vì chúng em không còn bị bùa mê nữa."
Rồi một em trai khác của Nonno đặt bàn tay của nó lên vai tôi rồi nói, "Em rất vui vì chúng em đã nâng được thanh gươm của anh từ đáy nước sâu lên, em rất vui sướng vì chúng em không còn bị bùa mê nữa." "Thanh gươm lại nằm dưới đáy hồ rồi," tôi nói. "Thế cũng tốt, vì anh không bao giờ cần đến thanh gươm nào nữa."
"Chúng em sẽ không bao giờ nâng nó lên được nữa," em trai Nonno nói, "vì chúng em không còn là Chim Bị Bùa Mê nữa."
Tôi nhìn khắp đám trẻ, "Ai trong các em là con gái của Bà Thợ Dệt?" tôi hỏi.
Tất cả lặng im. Không ai nói một lời.
"Ai là con gái của Bà Thợ Dệt?" tôi lại hỏi, vì tôi muốn nói cho nó biết rằng chiếc áo choàng của tôi được lót bầng tấm vải thần tiên do mẹ nó dệt.
"Milimani là con gái của Bà Thợ Dệt," em trai của Nonno nói.
"Nó đâu rồi?" tôi nói.
"Milimani nằm ở kia," em trai của Nonno nói. Lũ trẻ đứng dạt ra. Bên mép nước, một bé gái nằm trên một phiến đá. Tôi chạy đến, quỳ xuống bên cạnh nó. Nó nằm im, mắt nhắm nghiền. Nó đã chết. Khuôn mặt nó xanh xao và nhỏ bé, cơ thể nó bị cháy sém.
"Nó bay vào ngọn đuốc," em trai của Nonno nói.
Tôi thấy đau nhói. Milimani đã chết vì tôi. Tôi rất buồn, niềm vui chẳng thể khỏa lấp được, vì Milimani đã chết để cứu tôi.
"Đừng buồn," em trai Nonno nói. "Milimani muốn làm thế. Nó muốn bay vào ngọn đuốc, mặc dù nó biết cánh của nó sẽ cháy."
"Nhưng bây giờ nó đã chết," tôi tuyệt vọng nói.
Em trai của Nonno cầm lấy bàn tay cháy sém, nhỏ bé của Milimani. "Bọn anh sẽ để em lại đây, Milimani," nó nói. "Nhưng trước khi đi, bọn anh sẽ hát cho em nghe."
Cả đám trẻ ngồi xuống bãi đá vây quanh Milimani rồi hát cho nó nghe bài hát chúng sáng tác.
Milimani, em gái nhỏ của chúng ta ơi.
Em gái nhỏ đã rơi vào ngọn sóng, vào ngọn sóng đôi cánh cháy rơi.
Milimani, Milimani ơi ngủ cho yên không bao giờ thức giấc, không bao giờ bay nữa
Milimani ơi với tiếng u sầu trên dòng nước đục.
"Mặt nước không còn đục nữa," Pompoo nói. "Chỉ còn những con sóng nhỏ dịu dàng hát ru Milimani để em nằm ngủ trên bờ hồ."
"Giá như chúng ta có cái gì liệm nó," em gái Totty nói. "Cái gì đó mềm mại để nó không phải nằm trên nền đá cứng."
"Liệm Milimani trong chiếc áo choàng của anh," tôi nói. "Chúng ta sẽ liệm nó trong tầm vải mẹ em đã dệt."
Tôi quấn Milimani trong chiếc áo choàng lót bằng tấm vải thần tiên. Tấm vải mềm hơn hoa táo, dịu dàng hơn gió đêm trên cỏ, ấm áp hon nhịp tim, tấm vải mà chính mẹ của Milimani đã dệt nên. Tôi quấn chiếc áo choàng quanh người Milimani thật cẩn thận rồi đặt nó nằm êm trên phiến đá.
Rồi một điều kỳ diệu xảy ra. Milimani mở mắt nhìn tôi. Thoạt tiên nó chỉ nằm yên nhìn tôi. Rồi nó ngồi dậy, ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào lũ trẻ. Sau khi nhìn quanh một hồi, nó càng ngạc nhiên hơn.
"Nước hồ mới xanh làm sao," nó nói.
Nó chỉ nói thế thôi. Rồi nó gỡ chiếc áo choàng đứng dậy; nó không còn vết bỏng nào nữa, chúng tôi vui mừng khôn xiết vì nó đã sống lại.
Xa xa trên mặt nước, một con thuyền lướt về phía chúng tôi. Có người đang chèo, mái chèo sải từng nhịp lớn. Khi chiếc thuyền đến gần, tôi thấy ông Thợ Rèn Gươm đang chèo và ông lão Eno đi cùng ông.
Chỉ một lát sau, con thuyền của họ đã chạm mũi vào bờ đá và họ nhảy lên.
"Nào, ta đã nói gì với các cháu nhỉ?" ông Thợ Rèn Gươm nói lớn bằng giọng ồm ồm. "Ta đã nói gì nào? 'Trận chiến cuối cùng của Nam tước Kato sáp đến.' Ta đã nói như thế đấy."
Ông lão Eno hào hứng đến gần tôi. "Hoàng tử Mio, ta muốn cho cháu xem cái này," ông nói.
Ông xòe bàn tay nhăn nheo ra cho tôi xem vật ở bên trong. Một chiếc lá xanh nhỏ. Một chiếc lá nhỏ thật xinh xắn, mềm mại và xanh mướt, với những gân lá mỏng mảnh.
"Nó mọc trong Rừng Chết," ông lão Eno nói. "ông tìm thấy nó trên cây trong Rừng Chết, vừa mới tìm thấy thôi."
Ông gật đầu hài lòng, mái tóc bạc của ông dập dềnh.
"Ông sẽ ra Rừng Chết mỗi sáng để tìm thêm lá xanh," ông nói. "Cháu có thể giữ chiếc lá này, Hoàng tử Mio."
Ông đặt chiếc lá vào tay tôi, và hẳn nhiên ông đang nghĩ rằng ông đã đem tặng đi món quà đẹp nhất.
Rồi ông lại gật đầu nói, "Lúc nào ta cũng cầu mong cháu được bình yên, Hoàng tử Mio. Ta đã ngồi trong ngôi nhà nhỏ của mình để cầu mong cho cháu được binh yên."
"Ta đã nói gì nào?" ông Thợ Rèn Gươm nói. "Ta nói, 'Trận chiến cuối cùng của Nam tước Kato sắp đến.' "
"Làm thế nào ông lấy lại được con thuyền của ông?" tôi hỏi ông Thợ Rèn Gươm.
"Sóng đã đưa nó qua hồ," ông Thợ Rèn Gươm nói.
Tôi nhìn lướt qua hồ về phía ngọn núi của ông Thợ Rèn Gươm và ngôi nhà của ông lão Eno. Trên mặt nước xuất hiện nhiều con thuyền chở đầy người mà trước đó tôi chưa từng gặp. Những người nhỏ bé, xanh xao này cứ chăm chú nhìn mặt trời và hồ nước xanh một cách kinh ngạc. Tôi nghĩ, trước kia họ chưa từng được thấy mặt trời chiếu sáng rực rỡ trên hồ và trên các tảng đá. Cảnh vật thật đáng yêu. Chỉ có đống đá to trên đỉnh vực là không đẹp. Nhưng tôi nghĩ sẽ có ngày rêu mọc trên đống đá. Rêu xanh mềm mại sẽ che phủ đá, và sẽ chẳng ai biết dưới đó là tòa lâu đài của Nam tước Kato nữa.
Tôi tùng trông thấy những bông hồng nom như những quả chuông nhỏ xíu nở rộ trong các khe đá. Có lẽ một ngày nào đó những đóa hồng xinh xắn nhường kia cũng sẽ nở kín lớp rêu phong trên tòa lâu đài đổ nát tan hoang của Nam tước Kato. Tôi nghĩ như thế sẽ đẹp lắm.
Đường về nhà còn xa, nhưng trở về bao giờ cũng dễ dàng hơn. Bọn trẻ con cưỡi trên lưng con Miramis, còn những đứa bé nhất cưỡi trên lưng con ngựa non. Chúng thấy như thế thật vui thú. Những người còn lại thì cuốc bộ cho đến khi về tới Rừng Chết.
Đêm đã buông, và Rừng Chết đã biến thành Rừng Sáng Trăng. Khắp nơi tĩnh mịch, yên ả. Nhưng đột nhiên con Miramis cuòng nhiệt hí vang, và sâu trong Rừng Sáng Trăng một trăm con ngựa bạch cũng hí lên cuồng nhiệt và vang dội. Chúng phi nước đại về phía chúng tôi, vó ngựa rầm rập vang rền như sấm trên mặt đất.
Con ngựa non cũng bắt đầu hí. Nó cuồng nhiệt, cố hí vang như những con ngựa lớn, nhưng chỉ phát ra tiếng hí nhỏ yếu ớt vui mừng mà bạn khó có thể nghe thấy. Nhưng một trăm con ngựa bạch hiển nhiên đã nghe thấy tiếng nó. Chao ôi, chúng mới sung sướng làm sao khi con ngựa non nhỏ bé đã trở về! Chúng vây quanh nó, cả bầy đều cố đến gần nó, chạm vào nó để chắc chắn rằng nó đã về thật.
Bây giờ chúng tôi có một trăm con ngựa và không ai phải đi bộ nữa. Tất cả lũ trẻ con đều được cưỡi ngựa. Tôi cưỡi trên lưng con Miramis, Pompoo ngồi sau tôi như trước, vì nó không muốn cưỡi con ngựa nào khác ngoài con Miramis trên thế gian này. Bé gái nhỏ nhất cưỡi con ngựa non.
Chúng tôi cưỡi ngựa qua khu rừng, một trăm con ngựa bạch đi dưới ánh trăng nom mới tuyệt làm sao!
Chẳng bao lâu tôi thấy màu sáng trắng lấp ló giữa các hàng cây. Đó là những cây táo trổ hoa xung quanh ngôi nhà xinh xắn của Bà Thợ Dệt. Những tán hoa trắng muốt phủ kín hàng cây vây quanh ngôi nhà nhỏ đã hiện ra trước mắt chúng tôi hệt như trong truyện cổ tích. Có tiếng lách cách khung dệt vẳng ra, Milimani nói, "Mẹ em đang ngồi dệt vải đấy."
Nó nhảy phắt khỏi lưng ngựa ngay bên cánh cổng, vấy chúng tôi rồi nói, "Em rất sung sướng vì đã về nhà. Em sung sướng vì đã được về nhà trước khi cây táo nở hết hoa."
Nó chạy theo con đường nhỏ giữa hàng cây và biến mất trong ngôi nhà. Tiếng lách cách bên trong lập tức im bặt.
Nhưng đường về Đảo Đồng Xanh hãy còn xa, mà tôi thì mong được về với Đức Vua cha tôi quá. Một trăm con ngựa bạch, dẫn đầu là con Miramis, bay cao tít bên trên Rừng Sáng Trăng, trên những rặng núi chót vót nhất, bơi qua không trung trên con đường về Đảo Đồng Xanh.
Trời vừa sáng khi chúng tôi về đến cầu Ánh Ban Mai. Các anh lính gác mới hạ cầu xuống, cây cầu sáng rực những tia nắng vàng, một trăm con ngựa bạch vươn cổ, bờm tung bay phất phới, phi nước đại qua cầu. Các anh lính gác nhìn chúng tôi chăm chú, sửng sốt. Rồi đột nhiên một người rút tù và ra, thổi vang khắp Đảo Đồng Xanh. Từ những ngôi nhà nhỏ và những túp lều chạy ùa ra những con người đã phải khóc than vì sầu muộn về những đứa con bị bắt mang đi. Họ đã trông thấy chúng tôi cưỡi trên lưng những con ngựa bạch, không thiếu một ai. Tất cả đã trở về.
Đàn ngựa bạch phi vun vút qua cánh đồng và chẳng bao lâu chúng tôi đến vưòn của Đức Vua cha tôi. Bọn trẻ nhảy xuống, cha mẹ chúng chạy đến, họ mừng rỡ rối rít chẳng khác nào một trăm con ngựa bạch khi thấy con ngựa non trở về. Trong số họ có cả Nonno và bà nó, cả Totty cùng các em trai và em gái của nó, cả cha mẹ Pompoo và nhiều người khác nữa mà trước đây tôi chưa từng gặp. Họ khóc rồi cười với nhau, và ôm hôn bọn trẻ đã về.
Nhưng Đức Vua cha tôi không có mặt.
Chúng tôi không cần một trăm con ngựa bạch nữa, vì thể chúng lại quay về Rừng Sáng Trăng. Tôi nhìn chúng phi nước vun vút qua cánh đồng. Con ngựa non lông trắng dẫn đầu.
Pompoo đang kề cho cha mẹ nó nghe tất cả những chuyện chúng tôi đã trải qua, nó không nhìn thấy tôi mở cánh cổng nhỏ vào Vườn Hoa Hồng. Không ai thấy tôi biến mất vào Vườn Hoa Hồng, thế cũng tốt. Tôi muốn đi một mình. Tôi đi dưới hàng bạch dương đang xào xạc du dương như chúng vẫn thường làm vậy, qua những khóm hồng vẫn nở hoa như trước, cảnh vật đều như cũ.
Rồi bất chợt tôi thấy Người. Tôi đã trông thấy Đức Vua cha tôi. Người đang đứng ở chính nơi tôi đã từ biệt để cưỡi ngựa đến Rừng Sáng Trăng và Đất Ngoài. Người đứng đó giang rộng vòng tay đón tôi ào vào lòng. Tôi quàng tay ôm cổ Người, và Người ôm ghì sát tôi vào lòng mà thi thầm, "Mio, con trai ta!"
Vì Đức Vua cha tôi yêu tôi, và tôi cũng yêu Đức Vua cha tôi.
Tôi vui đùa suốt ngày, chúng tôi chơi trong Vườn Hoa Hồng, Pompoo, Nonno và các em trai của nó, Totty cùng các em trai và em gái của nó, và tất cả bọn trẻ con. Chúng muốn xem cãn lều mà tôi và Pompoo đã cùng nhau dựng lên. Và tất cả chúng đều nghĩ rằng đấy là căn lều hết sức tuyệt. Chúng tôi cũng cưỡi con Miramis, nhảy qua những khóm hoa hồng. Rồi chúng tôi bày trò chơi đùa với chiếc áo choàng của tôi. Em của Nonno nhất định không muốn lấy lại chiếc áo.
"Dù sao thì lần vải lót áo cũng là của anh mà, Mio," nó nói.
Chúng tôi chơi trò trốn tìm với chiếc áo choàng. Tôi lộn trái nó ra để mặc, và vừa chạy nhởn nhơ giữa những khóm hồng, hệt như một người vô hình, vừa kêu lên, "Không ai bắt được anh đâu! Không ai bắt được anh đâu!"
Vá dĩ nhiên bọn trẻ con không thể nào bắt được tôi, dù có cố gáng đến mấy đi nữa.
Khi Trời bắt đầu tối, tất cả bọn trẻ con phải về nhà. Cha mẹ chúng không muốn chúng ở ngoài lâu, vì đó là đêm đầu tiên chúng về nhà.
Pompoo và tôi ngồi lại với nhau, trong căn lều của chúng tôi. Chúng tôi thổi sáo khi buổi chiều hôm phủ xuống Vườn Hoa Hồng.
"Bọn mình phải giữ sáo cần thận," Pompoo nói. "Nếu bao giờ lạc nhau, mình sẽ thổi khúc nhạc cổ xưa nhé."
Đúng lúc ấy Đức Vua cha tôi đến tìm tôi. Tôi chúc Pompoo ngủ ngon và nó chạy về nhà. Tôi cũng chúc cả con Miramis đang gặm cỏ bên cạnh lều ngủ ngon. Rồi tôi nắm tay Đức Vua cha tôi, và chúng tôi thong thả băng qua Vườn Hoa Hồng về nhà.
"Mio, con trai ta, cha tin là con đã cao lớn hơn trong lúc đi xa," Đức Vua cha tôi nói. "Cha nghĩ tối nay mình nên vạch thêm một dấu mới trên cánh cửa bếp."
Chúng tôi đi dưới hàng cây bạch dương, bóng chiều chạng vạng như màn sương lam dìu dịu lan tỏa khắp vườn Hoa Hồng. Những con chim trắng đã bay về tổ. Nhưng trên ngọn một cây bạch dương cao nhất con Chim Sầu vẫn đậu và cất tiếng hót một mình. Tôi không biết giờ đây nó đang hót về điều gì, khi những đứa trẻ bị mất tích đã trở về nhà. Nhưng tôi nghĩ Chim Sầu vẫn luôn luôn có điều gì đó đề cất tiếng hót.
Xa xa trên đồng cỏ, những người chăn cừu đã bắt đầu nhóm lên những đống lửa. Từng đốm, từng đốm lửa lần lượt xuất hiện, chiếu sáng lung linh trong buổi chiều hôm. Và tôi đã nghe tiếng những người chăn cừu véo von thổi khúc nhạc cổ xưa của mình.
Chúng tôi bước đi, tay trong tay, Đức Vua cha tôi và tôi. Đức Vua cha tôi từ trên cao cúi nhìn tôi rồi mỉm cười, còn tôi từ bên dưới ngước lên nhìn Người, lòng ngập tràn hạnh phúc.
"Mio, con trai ta," Đức Vua cha tôi nói. "Mio, con trai ta," Người cứ nhắc đi nhắc lại trong khi chúng tôi cùng nhau về nhà dưới bóng chiều.
Trời tối sập lúc nào chẳng hay, rồi đêm đến.
Tôi đã sống ở Xứ Sở Xa Xăm được một thòi gian khá dài. ít khi tôi nghĩ về hồi còn sống ở Phố Bắc. Tôi chỉ hay nhớ đến Ben nhiều hơn cả, vì nó rất giống Pompoo. Tôi hy vọng Ben cũng không buồn nhớ tôi nhiều lắm. Vì không ai biết rõ hơn tôi là nỗi buồn nặng trĩu đến thế nào. Nhưng Ben có cha mẹ, và dĩ nhiên nó đã có bạn thân mới rồi.
Thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ đến cô Hulda và chú Olaf, tôi không còn giận cô chú ấy nữa. Tôi chỉ băn khoăn không hiểu cô chú ấy nghĩ gì khi tôi mất tích. Cô chú ấy chẳng mấy khi quan tâm đến tôi, và có thế cũng chẳng nhận ra là tôi đã biến mất. Có lẽ cô Hulda tin rằng chỉ cần ra Công viên Tegnérlunden để tìm, rồi cô sẽ tìm thấy tôi ngồi trên một cái ghế đá nào đó. Chắc cô ấy nghĩ là tôi vẫn còn đang ngồi đó, dưới ngọn đèn, gặm quả táo và nghịch vớ vẩn một cái chai bia rỗng, hoặc một thứ rác rưởi gì đó. Có lẽ cô tin rằng tôi vẫn đang ngồi ở đó, nhìn đăm đăm vào những ngôi nhà có ô cửa sổ sáng đèn và bọn trẻ con đang ăn tối trong nhà cùng cha mẹ của chúng... Và khi đó chắc cô Hulda không thể nào nguôi giận vì tôi vẫn còn chưa mang bánh về nhà.
Nhưng cô Hulda đã lầm. Đúng vậy, cô đã lầm! Thằng bé Andy không còn ngồi trên cái ghế đá trong Công viên Tegnérlunden nữa. Giờ này nó đang ở Xứ sở Xa Xăm. Nó đang ở Xứ sở Xa Xăm, thật đấy. Nó đang ở nơi có những cây bạch dương xào xạc... nơi có những đống lửa rực rỡ chiếu sáng và sưởi ấm đêm đêm... nơi có Bánh Hết Đói ngon tuyệt... và có Vua Cha mà nó yêu thương vô cùng, và Người cũng vô cùng yêu nó.
Đúng thế. Karl Anders Nilsson bây giờ đang ở Xứ sở Xa Xăm, và mọi chuyện đều tuyệt vời, cực kỳ tuyệt vời cùng với Đức Vua cha nó.
Mio, Con Trai Ta Mio, Con Trai Ta - Astrid Lindgren Mio, Con Trai Ta