Để leo dốc cao, cần chầm chậm trước tiên.

Shakespeare

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12: Tự Sát
lbert Camus từng nói rằng ‘Tự sát là vấn đề nghiêm túc thật sự của triết học’,” Aune nói, ngửa mặt lên bầu trời xám xịt phía trên phố Bogstadveien. “Bởi vì việc quyết định liệu cuộc đời có đáng sống hay không chính là câu trả lời cho câu hỏi căn bản của triết học. Mọi chuyện khác - như, có phải là thế giới có ba chiều hay không, hoặc trí óc có chín hay mười hai phạm trù - đều xếp sau nó.”
“Ừm,” Harry đáp.
“Nhiều đồng nghiệp của tôi đã tiến hành nghiên cứu về lý do khiến con người tự sát. Anh có biết họ đã tìm được nguyên nhân phổ biến nhất là gì không?”
“Đó là điều mà tôi hy vọng là ông có thể giải đáp cho tôi.” Harry phải luồn lách liên tục giữa dòng người đi trên vỉa hè chật hẹp để theo kịp nhà tâm lý học béo phệ.
“Rằng họ không muốn sống thêm một phút nào nữa,” Aune nói.
“Nghe như là có người xứng đáng giành giải Nobel ấy nhỉ.” Harry đã gọi cho Aune tối hôm trước và hẹn sẽ đón ông tại văn phòng của ông trên phố Sporveisgata vào lúc chín giờ. Họ đi qua chi nhánh của ngân hàng Nordea và Harry thấy cái thùng rác màu xanh vẫn để ở phía ngoài siêu thị 7-Eleven bên kia đường.
“Chúng ta hay quên mất rằng quyết định tự tử thường xuất hiện ở những người tỉnh táo và suy nghĩ hợp lý nhưng không còn thấy cuộc đời còn có gì để tận hưởng nữa,” Aune nói. “Ví dụ như những người già đã mất đi bạn đời của mình hay sức khỏe đang suy sụp.”
“Người phụ nữ này còn trẻ và đầy sức sống. Vậy thì cơ sở lý trí ở đâu?”
“Trước hết, anh phải định nghĩa lý trí là gì đã. Khi một người trầm cảm chạy trốn nỗi đau bằng cách kết liễu cuộc đời mình, anh phải giả định là kẻ bất hạnh đã cân nhắc kỹ lợi hại. Mặt khác, khó có thể xem tự sát là lý trí trong trường hợp thường gặp là người tự sát đang bắt đầu thoát ra khỏi tình trạng thiếu tỉnh táo, và chỉ khi ấy họ mới đủ sức để thực hiện cái việc có tính chủ động là tự sát.”
“Tự sát có thể là một hành động hoàn toàn tự phát không?”
“Đương nhiên là có. Tuy nhiên, thường là người ta phải có ý đồ tự sát trước đã, nhất là phụ nữ. Ở Mỹ, người ta đã tính toán rằng trong những vụ tự sát của nữ giới, cứ mười người thì tới chín người có ý đồ tự sát giả.”
“Giả ư?”
“Uống năm viên thuốc ngủ là một lời cầu cứu, tất nhiên là cũng khá nghiêm trọng, nhưng tôi không xem đó là một ý đồ tự sát khi mà một nửa lọ thuốc còn để ở trên kệ đầu giường.”
“Nhưng người phụ nữ này đã tự bắn mình.”
“Thế thì là một vụ tự sát kiểu nam giới.”
“Nam giới?”
“Một trong những lý do khiến đàn ông thành công hơn là họ chọn cách dữ dội hơn, chắc chết hơn so với phụ nữ. Súng và nhảy lầu, thay vì cứa cổ tay hay uống thuốc quá liều. Một người phụ nữ tự vẫn bằng cách bắn mình quả là rất bất thường.”
“Bất thường đến mức đáng nghi?”
Aune nhìn Harry chăm chú. “Anh có lý do nào để tin rằng vụ này không phải là tự sát?”
Harry lắc đầu. “Tôi chỉ muốn tìm hiểu cho chắc. Phải rẽ ở đây rồi. Căn hộ của cô ấy ở phố này, trên kia một chút.”
“Phố Sorgenfrigata à?” Aune cười khùng khục và liếc nhìn những đám mây u ám trên trời. “Đương nhiên rồi.”
“Đương nhiên gì?”
“Sorgenfri là tên một cung điện của Christophe, vị vua người Haiti đã tự sát khi bị người Pháp bắt làm tù binh. Người ta còn gọi nó là Sans Souci. Tức là vô ưu. Phố Vô Ưu. Sorgenfrigata. Anh biết không, ông ta đã chĩa những họng đại bác lên trời để trả thù Chúa.”
“Ừm…”
“Và tôi đoán là anh cũng biết nhà văn Ola Bauer đã nói gì về con phố này phải không? Tôi chuyển sang con phố Vô Ưu, nhưng điều đó cũng chẳng ích gì nhiều.” Aune cười nhiều đến nỗi cái cằm hai ngấn rung lên bần bật.
Halvorsen đứng chờ ngoài cửa. “Lúc ra khỏi đồn, tôi đã gặp Bjarne Møller,” anh ta nói. “Ông ấy xem như vụ này đã xong gọn rồi.”
“Chúng tôi cần thắt lại một vài đầu nút bị tuột thôi mà,” Harry nói, mở cửa bằng chiếc chìa khóa mà tay thợ điện đã đưa cho anh.
Dải băng cách ly của cảnh sát trước cửa đã bị gỡ và cái xác cũng đã được đưa đi, còn lại mọi thứ vẫn y nguyên như tối hôm trước. Họ vào phòng ngủ. Tấm ga trắng trên chiếc giường rộng sáng lên dưới ánh đèn mờ.
“Chúng ta tìm gì mới được chứ?” Halvorsen hỏi trong lúc Harry kéo rèm lại.
“Một chìa khóa dự phòng của căn hộ,” Harry đáp.
“Vì sao?”
“Chúng tôi đoán là cô ấy có một chìa dự phòng, cái mà cô ấy đã đưa cho gã thợ điện ấy. Tôi đã điều tra một chút. Không phải cửa hàng khóa nào cũng đánh được chìa khóa hệ thống, người ta phải đặt hàng nhà sản xuất thông qua một cửa hàng được ủy quyền. Vì chiếc chìa đó khớp với cửa chính tòa nhà và cửa tầng hầm, nên ban quản lý tòa nhà này muốn kiểm soát chúng. Thế nên những người sống ở đây phải viết đơn xin phép ban quản lý khi họ đặt một chiếc chìa khóa mới, phải không. Theo thỏa thuận với ban quản lý, nhiệm vụ của cửa hàng khóa được ủy quyền là một danh sách các chìa khóa được phát cho mỗi căn hộ. Tối qua tôi đã gọi cho Lasesmeden, cửa hàng khóa ở phố Vibes. Anna Bethsen được phát hai chìa dự phòng, thế nên tổng cộng là có ba chìa khóa. Chúng ta tìm thấy một trong căn hộ và người thợ điện có một. Còn chìa thứ ba? Cho đến khi tìm thấy nó, chúng ta chưa thể loại trừ khả năng đã có ai đó ở đây lúc cô ấy chết rồi khóa cửa lại khi ra khỏi căn hộ.”
Halvorsen chậm rãi gật đầu: “Ừm, chiếc chìa khóa thứ ba.”
“Chiếc chìa khóa thứ ba. Cậu có thể bắt đầu từ chỗ này, Halvorsen, trong lúc đó, tôi sẽ chỉ cho Aune xem một thứ nhé?”
“OK.”
“À, còn chuyện này nữa. Đừng ngạc nhiên nếu cậu tìm thấy điện thoại di động của tôi nhé. Tôi nghĩ tôi đã để quên nó ở đây chiều hôm qua.”
“Tôi tưởng anh bảo là đã làm mất từ ngày hôm kia?”
“Tôi đã tìm thấy. Rồi lại đánh mất lần nữa. Cậu biết đấy…”
Halvorsen lắc đầu. Harry dẫn Aune đi vào hành lang dẫn tới phòng khách. “Tôi hỏi ông vì ông là người duy nhất tôi quen mà biết vẽ.”
“Thật không may, nói thế là hơi phóng đại.” Aune vẫn còn hổn hển sau khi leo cầu thang.
“Phải, nhưng ông vẫn biết chút ít về nghệ thuật, và tôi hy vọng là ông có thể hiểu được chút gì đó từ thứ này.”
Harry mở cánh cửa trượt dẫn vào căn phòng cuối căn hộ, bật đèn lên và chỉ. Thay vì nhìn vào ba bức tranh, Aune lại hít một hơi và đi tới chỗ cái đèn bàn có ba cái đầu. Ông lôi cặp kính từ trong túi áo vest vải tuýt ra, cúi xuống đọc dòng chữ trên cái bệ tượng nặng nề.
“Chà chà!” ông kêu lên phấn khích. “Một cái đèn bàn Grimmer đích thực.”
“Grimmer ư?”
“Bertol Grimmer. Nhà thiết kế người Đức nổi tiếng thế giới. Trong số các thiết kế của ông có tượng đài chiến thắng mà Hitler đã cho dựng ở Paris vào năm 1941. Lẽ ra ông ta đã có thể trở thành nghệ sĩ vĩ đại nhất thời đại chúng ta, nhưng đang ở đỉnh cao sự nghiệp thì ông ta bị phát hiện là có ba phần tư dòng máu Di gan. Ông ta đã bị đưa tới trại tập trung và xóa tên khỏi vài công trình kiến trúc và tác phẩm nghệ thuật mà ông thiết kế. Grimmer sống sót, nhưng cả hai tay đã giập nát trong thời gian làm việc tại mỏ đá cùng những người Di gan. Sau Thế Chiến, ông ta vẫn tiếp tục làm việc, mặc dù sau đó không còn đạt được những đỉnh cao vĩ đại như trước bởi chấn thương. Nhưng tôi dám cá là thứ này phải được thiết kế sau Thế Chiến.” Aune nhấc cái chụp đèn lên.
Harry hắng giọng: “Thật ra thì tôi đang nghĩ về những bức chân dung này nhiều hơn.”
“Nghiệp dư,” Aune khịt mũi. “Anh nên chú ý đến bức tượng người phụ nữ tao nhã này thì hơn. Nữ thần Nemesis, chủ đề ưa thích nhất của Bertol Grimmer sau Thế Chiến. Nữ thần báo thù. Nhân tiện, anh biết không, báo thù lại là động cơ tự sát thường gặp. Người ta cảm thấy cuộc sống của mình bất như ý là do lỗi của ai đó, và người ta muốn đổ cái tội lỗi ấy cho những người khác bằng cách tự sát. Bertol Grimmer cũng tự kết liễu đời mình sau khi giết chết vợ, vì bà ta có nhân tình. Trả thù, trả thù, trả thù. Anh có biết con người là những sinh vật duy nhất biết trả thù không? Điều thú vị về sự trả thù là…”
“Aune?”
“À phải, những bức tranh này, anh muốn tôi lý giải chúng chứ gì? Ừm, trông chúng chẳng khác gì mấy vết mực của Rorschach.”
“Những bức tranh đưa cho bệnh nhân để thúc đẩy họ liên tưởng ấy à?”
“Chính xác. Vấn đề ở đây là nếu tôi giải thích những bức tranh này thì điều đó sẽ nói lên nội tâm của tôi nhiều hơn là của cô ta. Chỉ có điều không ai còn tin vào vết mực của Rorschach nữa, vậy thì tại sao lại không nhỉ? Để tôi xem nào… Những bức tranh này rất u ám, thiên về tức giận hơn là chán nản. Dù vậy, một bức rõ ràng là vẫn chưa hoàn tất.”
“Có lẽ ý định của người vẽ là như vậy, như vậy mới tạo thành một tổng thể chăng?”
“Sao anh lại nói vậy?”
“Tôi không rõ, có lẽ vì ánh sáng của từng bóng đèn riêng rẽ kia chiếu đúng vào từng bức tranh một?”
“Hừm.” Aune đưa một cánh tay qua ngực và đặt một ngón trỏ lên môi. “Anh nói đúng. Đương nhiên là anh nói đúng. Và, anh biết gì không, Harry?”
“Không. Gì vậy?”
“Tôi chẳng thấy chúng có nghĩa lý gì cả - xin lỗi phải nói thế này - chẳng thấy cái cứt gì cả. Xong chưa?”
“Rồi. À, tiện thể, vì ông đã từng vẽ tranh nên còn một chi tiết nhỏ này tôi muốn hỏi nữa. Như ông thấy đấy, bảng màu nằm bên trái giá vẽ. Như thế có phải là rất bất tiện không?”
“Phải, trừ phi anh thuận tay chiêu.”
“Tôi hiểu. Tôi phải tới giúp Halvorsen một tay. Tôi không biết phải cảm ơn ông thế nào nữa.”
“Tôi thì biết đấy. Tôi sẽ tăng thêm một giờ nữa vào hóa đơn lần sau.”
Halvorsen đã tìm kiếm xong trong phòng ngủ.
“Cô ta không có nhiều đồ đạc cá nhân lắm,” anh ta nói. “Hơi giống tìm kiếm trong phòng khách sạn. Chỉ có quần áo, mỹ phẩm, một cái bàn là, khăn tắm, ga trải giường và vài thứ khác. Không có ảnh chụp gia đình, cũng chẳng có thư từ hay giấy tờ cá nhân gì hết.”
Một tiếng sau, Harry đã hiểu rõ ý của Halvorsen là gì. Họ sục sạo khắp căn hộ và trở lại phòng ngủ mà chẳng tìm nổi lấy một cái hóa đơn điện thoại hay bảng kê của ngân hàng.
“Đây là vụ lạ nhất mà tôi từng gặp,” Halvorsen nói, ngồi xuống đối diện với Harry bên chiếc bàn viết. “Hẳn là cô ta đã dọn đồ. Có lẽ cô ta muốn mang theo mọi thứ, toàn bộ con người cô ta, khi ra đi, nếu anh hiểu ý tôi.”
“Tôi hiểu. Cậu không thấy có dấu hiệu gì của một cái laptop sao?”
“Laptop ư?”
“Máy tính xách tay ấy.”
“Anh đang nói gì vậy?”
“Cậu không thấy cái hình chữ nhật mờ mờ trên các vật bằng gỗ ở đây à?” Harry chỉ lên mặt bàn ở giữa họ. “Trông có vẻ như đã từng có một chiếc laptop ở đây và nó đã bị đem đi rồi.”
“Vậy ư?”
Harry cảm thấy ánh mắt dò xét của Halvorsen.
Họ đứng ngoài phố nhìn chằm chằm lên những khung cửa sổ ở phía mặt tiền sơn màu vàng nhạt trong lúc Harry hút một điếu thuốc lá rúm ró mà anh tìm thấy ở túi trong áo khoác.
“Cái vụ về gia đình đó lạ nhỉ,” Halvorsen nói.
“Vụ gì?”
“Møller không nói gì với anh sao? Họ không thể tìm thấy địa chỉ của cha mẹ, anh chị em cô ta hoặc bất cứ ai khác, chỉ có mỗi một ông chú đang ngồi tù. Møller phải đích thân gọi cho người làm dịch vụ tang lễ đến đưa cô gái tội nghiệp đó đi. Như thể chết cũng chưa đủ cô đơn hay sao ấy.”
“Ừm. Người làm dịch vụ tang lễ nào?”
“Sandermann,” Halvorsen đáp. “Ông chú muốn cô ấy được hỏa táng.”
Harry rít điếu thuốc lá rồi nhìn khói bay lên và tản ra. Kết thúc của một quá trình bắt đầu từ lúc một người nông dân gieo hạt trên một cánh đồng ở Mexico. Cái hạt đó mọc lên thành cây thuốc lá cao ngang đầu người sau bốn tháng, và hai tháng sau đó nó được hái, giũ sạch, phơi khô, phân loại rồi đóng gói và gửi tới các xưởng sản xuất của RJ Reynolds ở Florida hay Texas để trở thành điếu thuốc có đầu lọc đóng trong một cái bao màu vàng, hút chân không của Camel, được xếp vào hộp các tông và chuyển tới châu Âu. Tám tháng sau khi còn là một chiếc lá trên một cái mầm cây xanh mới nhú dưới ánh nắng Mexico, nó rơi ra khỏi túi áo khoác của một gã say rượu khi anh ta bị trượt chân trên cầu thang, hoặc trong lúc bước ra khỏi xe taxi, hay khi lấy áo làm chăn vì không thể hay không dám mở cửa phòng ngủ vì sợ những con quái vật đang núp dưới gầm giường. Rồi, khi cuối cùng cũng tìm thấy điếu thuốc đó, rúm ró và dính đầy nùi bông trong túi áo, anh ta cắm một đầu vào cái miệng hôi hám và châm lửa vào đầu kia. Sau khi chiếc lá phơi khô, thái nhỏ được hít vào cơ thể anh ta trong một khoảnh khắc khoái trá ngắn ngủi, nó bị phì ra và được tự do mãi mãi. Tự do để tan rã, để trở thành hư không. Để bị lãng quên.
Halvorsen hắng giọng hai lần: “Làm sao anh biết được cô ta đã đặt thêm chìa khóa ở cửa hàng khóa trên phố Vibes?”
Harry ném đầu mẩu thuốc lá xuống đất và khép áo khoác chặt hơn quanh mình. “Có vẻ như Aune nói đúng,” anh nói. “Trời sắp mưa rồi. Nếu cậu đi thẳng về Sở Cảnh sát thì cho tôi đi nhờ.”
“Có đến cả trăm cửa hàng khóa ở Oslo này cơ mà, Harry.”
“Ừm. Tôi đã gọi cho Knut Arne Ringnes, phó chủ tịch ban quản lý chung cư. Ông ta tử tế lắm. Họ thuê cửa hàng khóa đó suốt hai mươi năm nay rồi. Về chứ?”
○○○
“May quá, anh tới rồi!” Beate Lønn nói khi thấy Harry bước vào Nhà Đau đớn. “Tối qua tôi đã phát hiện ra một chi tiết. Nhìn cái này xem.” Cô tua lại đoạn băng và ấn nút PAUSE. Hình ảnh tĩnh hơi rung của khuôn mặt Stine Grette đang hướng về phía cái mũ len trùm đầu của tên cướp choán hết màn hình. “Tôi đã phóng to một phần của khung hình trong cuốn băng. Tôi muốn nhìn khuôn mặt của Stine gần hết mức có thể.”
“Để làm gì?” Harry hỏi, thả người xuống một chiếc ghế tựa.
“Nếu anh nhìn vào quầy giao dịch, anh sẽ thấy rằng lúc đó cách thời điểm Kẻ Hành quyết bắn tám giây…”
“Kẻ Hành quyết ư?”
Cô mỉm cười bẽn lẽn. “Tôi mới đặt cho hắn cái tên đó chỉ để gọi riêng thôi. Ông tôi có một trang trại, nên tôi… đúng thế.”
“Ở đâu?”
“Valle, thung lũng Sete.”
“Và cô đã từng thấy gia súc ở đó bị giết?”
“Vâng.” Giọng điệu của Beate ngầm định là chớ có hỏi thêm nữa. Beate ấn nút TUA CHẬM và khuôn mặt Stine Grette bắt đầu trở nên sinh động. Harry thấy cô ta chớp mắt và môi mấp máy rất chậm. Anh bắt đầu cảm thấy sợ phải nhìn thấy cảnh nổ súng thì Beate đột ngột dừng đoạn băng lại.
“Anh có thấy không?” cô hỏi, vẻ phấn khích.
Vài giây trôi qua Harry mới lên tiếng.
“Cô ta đang nói!” anh thốt lên. “Cô ta đang nói gì đó trước lúc chết vài giây, nhưng không nghe thấy gì trong phần thu thanh cả.”
“Là vì cô ta đang thì thào.”
“Làm sao tôi lại bỏ sót đoạn này được nhỉ? Nhưng tại sao? Và cô ta nói gì?”
“Tôi hy vọng là chúng ta sẽ sớm tìm ra. Tôi đã liên lạc với một chuyên gia đọc cử động miệng ở Viện Nghiên cứu Câm Điếc. Anh ta đang trên đường tới đây.”
“Tuyệt.”
Beate liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Harry cắn môi dưới, hít một hơi và nói khẽ. “Beate, tôi đã từng…”
Anh thấy cô sững người khi anh gọi tên cô mà không dùng họ. “Tôi từng có một đồng nghiệp tên là Ellen Gjelten.”
“Tôi biết,” cô nói nhanh. “Chị ấy bị giết gần sông.”
“Đúng thế. Khi tôi và cô ấy bị tắc trong một vụ điều tra, chúng tôi đã sử dụng vài kỹ thuật để kích hoạt những thông tin bị kẹt trong tiềm thức. Những trò chơi liên tưởng. Chúng tôi viết vào những mẩu giấy, kiểu vậy.” Harry cười gượng gạo. “Chuyện đó nghe thì hơi mơ hồ, nhưng đôi khi cũng có hiệu quả. Tôi đang tự hỏi liệu chúng ta có nên thử một lần không.”
“Nếu anh muốn.” Harry lại nhận thấy khi tập trung vào cuốn băng ghi hình hay màn hình máy vi tính thì Beate có vẻ tự tin hơn biết bao nhiêu. Còn lúc này cô đang nhìn anh chằm chằm như thể anh vừa rủ cô chơi bài cởi đồ vậy.
“Tôi muốn biết cô cảm thấy thế nào về vụ này,” anh nói.
Cô bật cười vẻ hồi hộp. “Ừm, cảm giác à.”
“Tạm quên đi tất cả những sự kiện thực tế.” Harry hơi ngả về phía Beate. “Đừng có cố lý giải. Cô không cần phải chứng minh cho những gì cô nói ra. Chỉ cần nói những gì mà trực giác của cô mách bảo thôi.”
Beate nhìn chằm chằm xuống bàn. Harry chờ đợi. Rồi cô ngước lên, nhìn thẳng vào mắt anh: “Tôi đặt cược vào trường hợp số hai.”
“Trường hợp số hai là sao?”
“Kiểu cá cược bóng đá. Đội khách thắng. Đó là một trong số năm mươi phần trăm mà chúng ta không bao giờ lý giải.”
“Ra thế. Nhưng tại sao?”
“Số học đơn giản thôi. Nếu anh nghĩ tới tất cả những tên ngu ngốc mà chúng ta không tóm được, thì một gã như Kẻ Hành quyết, vốn đã tính kỹ mọi đường đi nước bước và biết chút ít về cách làm việc của chúng ta, có khá nhiều lợi thế.”
“Ừm.” Harry xoa mặt. “Vậy là linh cảm của cô đã tính toán rồi hả?”
“Không hẳn. Có gì đó trong cách hành động của hắn. Rất dứt khoát. Có vẻ như hắn bị điều khiển bởi…”
“Cái gì đã điều khiển hắn, Beate? Tiền ư?”
“Tôi không biết. Theo số liệu thống kê, động cơ chủ yếu của các vụ cướp là tiền, thứ hai là do khích động và…”
“Quên số liệu thống kê đi, Beate. Giờ cô đã là điều tra viên rồi. Cô không chỉ phân tích hình ảnh trong cuốn băng mà còn cả những diễn giải trong tiềm thức của chính cô về điều cô nhìn thấy. Tin tôi đi, đó là đầu mối quan trọng nhất đối với một điều tra viên.”
Beate nhìn Harry. Anh biết là anh vừa cố dỗ cô tự tin vào bản thân. “Nào!” anh giục. “Cái gì đã điều khiển Kẻ Hành quyết?”
“Cảm xúc.”
“Loại cảm xúc nào?”
“Những cảm xúc mãnh liệt.”
“Loại cảm xúc mãnh liệt nào, Beate?”
Cô nhắm mắt lại. “Yêu hoặc ghét. Ghét. Không, là yêu. Tôi cũng không biết nữa.”
“Tại sao hắn lại bắn cô ta?”
“Vì hắn… không.”
“Nói đi. Tại sao hắn lại bắn cô ta?” Harry nhích ghế của anh về phía cô.
“Vì hắn phải làm thế. Vì hắn đã quyết định từ trước…”
“Tốt! Tại sao chuyện đó lại được quyết định từ trước?”
Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa.
Hẳn là Harry sẽ thích hơn nếu Fritz Bjelke bên Viện Nghiên cứu Câm Điếc đã không đạp xe sốt sắng đến thế ngang qua thành phố để tới giúp họ, nhưng giờ thì anh ta đang đứng ở ngưỡng cửa rồi - một người béo tròn, lịch sự, đeo kính tròn và đội mũ bảo hiểm màu hồng. Bjelke không điếc và dứt khoát cũng chẳng câm. Để anh ta có thể hiểu rõ cử động môi của Stine Grette hết sức có thể, họ phải bật lại phần đầu của cuốn băng, lúc còn nghe thấy cô ta nói. Trong lúc cuốn băng chạy, Bjelke nói như súng liên thanh.
“Tuy tôi là chuyên gia, nhưng thật ra thì tất cả chúng ta đều nhìn môi người khác mà đoán, dù chúng ta nghe được lời họ nói. Đó là lý do khiến cho tiếng lồng trong phim dù chỉ lệch vài phần trăm giây vẫn có cảm giác khó chịu đến thế.”
“Thế à?” Harry nói. “Cá nhân tôi thì chịu không thể đọc ra cái gì từ chuyển động môi của cô hết.”
“Vấn đề là chỉ có ba mươi đến bốn mươi phần trăm của tất cả những từ nói ra có thể đọc từ chuyển động của môi. Để hiểu được phần còn lại thì anh phải nghiên cứu ngôn ngữ của nét mặt và cơ thể, và sử dụng những bản năng ngôn ngữ cũng như suy luận của chính mình để điền nốt những từ bị khuyết. Nghĩ cũng quan trọng ngang với nhìn.”
“Cô ta bắt đầu thì thào từ chỗ này,” Beate nói.
Bjelke lập tức im bặt và tập trung cao độ vào những chuyển động cực kỳ nhỏ của đôi môi ở trên màn hình. Beate dừng đoạn băng lại trước lúc súng nổ.
“Được rồi,” Bjelke nói. “Lại lần nữa đi.” Và sau đó: “Lại nào.”
Rồi: “Thêm lần nữa.”
Sau bảy lần, anh ta gật đầu ra hiệu đã xem đủ.
“Tôi không hiểu ý cô ta là gì,” Bjelke nói. Harry và Beate liếc nhìn nhau. “Nhưng tôi nghĩ là tôi biết cô ta nói gì.”
○○○
Ra tới hành lang, Beate bước gần như chạy mới bắt kịp Harry.
“Anh ta được coi là chuyên gia hàng đầu trong nước về lĩnh vực này,” cô nói.
“Chẳng tích sự gì,” Harry nói. “Chính anh ta cũng nói rằng anh ta không chắc chắn.”
“Nhưng nhỡ cô ta đã nói đúng cái câu mà Bjelke nói lại thì sao?”
“Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Hẳn là anh ta đã bỏ sót một từ phủ định nào đó.”
“Tôi không đồng ý với anh.”
Harry dừng phắt lại khiến Beate suýt lao vào anh. Vẻ mặt hoảng hốt cô ngước lên, nhìn vào một con mắt mở to.
“Tốt,” anh nói.
Beate tỏ vẻ bối rối. “Ý anh là sao?”
“Không đồng ý là tốt. Không đồng ý có nghĩa là cô đã nhìn thấy hoặc hiểu được điều gì đó mặc dù cô không hoàn toàn chắc chắn về nó. Và có điều gì đó tôi vẫn chưa hiểu ra.” Anh lại đi tiếp. “Cứ cho là cô đúng đi, vậy thì để xem chuyện này dẫn tới đâu.” Anh dừng lại trước thang máy và nhấn nút.
“Anh đi đâu bây giờ?” Beate hỏi.
“Kiểm tra lại một số chi tiết. Gần một tiếng nữa tôi sẽ quay lại.”
Cửa thang máy mở ra và sếp Ivarsson bước ra.
“Chà!” ông ta tươi cười. “Hai điều tra viên bậc thầy đang lần theo dấu vết đây. Có gì mới để báo cáo chưa?”
“Vấn đề cốt yếu của chuyện làm việc hai nhóm song song là tôi không phải báo cáo thường xuyên. Phải không?” Harry nói, vòng qua ông ta để vào thang máy. “Nếu tôi hiểu đúng ý của ông và FBI thì là vậy.”
Nụ cười và ánh mắt của Ivarsson vẫn không hề suy suyển. “Nhưng rõ ràng là chúng ta vẫn phải chia sẻ những thông tin then chốt.”
Harry bấm nút xuống tầng một, nhưng Ivarsson đã đứng chặn ở cửa.
“Thế nào?”
Harry nhún vai. “Stine Grette thì thào gì đó với tên cướp trước khi bị bắn.”
“À há?”
“Chúng tôi tin rằng cô ta đã thì thào: ‘Đó là lỗi của tôi’.”
“Đó là lỗi của tôi ư?”
“Đúng vậy.”
Lông mày Ivarsson nhíu lại. “Không thể là thế chứ? Nếu cô ta nói ‘Đó không phải là lỗi của tôi thì còn có lý’. Ý tôi là việc trưởng chi nhánh lấy tiền bỏ vào cái túi chậm mất sáu giây không phải là lỗi của cô ta.”
“Tôi không đồng ý,” Harry nói, nhìn đồng hồ đeo tay, chẳng buồn ý tứ. “Chúng tôi đã nhờ một chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực đoán lời nói qua chuyển động của môi. Beate có thể báo cáo chi tiết với ông.”
Ivarsson tì vào cửa thang máy đang nhấp nhỉnh xô vào lưng ông ta. “Vậy là cô ta đã quên mất từ phủ định trong câu nói của mình vì bấn loạn. Đó có phải là điều cô đã thu được không, Beate?”
Beate đỏ mặt. “Tôi chỉ vừa bắt đầu nghiên cứu cuốn băng ghi hình vụ cướp ở phố Kirkeveien thôi.”
“Đã có kết luận nào chưa?”
Beate hết nhìn Ivarsson lại nhìn Harry. “Lúc này thì chưa.”
“Vậy là chưa có gì,” Ivarsson nói. “Có lẽ hai người sẽ vui mừng khi biết rằng chúng tôi đã xác định được chín nghi phạm và đã triệu tập tới để thẩm vấn. Và chúng tôi có một chiến lược để cuối cùng sẽ moi được điều gì đó từ Raskol.”
“Raskol ư?” Harry hỏi.
“Raskol Baxhet, tên đầu sỏ của đám du thủ du thực,” Ivarsson nói, móc ngón tay vào đỉa quần. Ông ta hít một hơi rồi xách quần lên với một nụ cười ngoác miệng hớn hở. “Nhưng có lẽ lát nữa Beate sẽ có thể báo cáo chi tiết với anh.”
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù