What holy cities are to nomadic tribes - a symbol of race and a bond of union - great books are to the wandering souls of men: they are the Meccas of the mind.

G.E. Woodberry

 
 
 
 
 
Tác giả: Liesl Shurtliff
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Ngô Cẩm Ly
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12 - Bác Thợ Là Bác Thợ Giày
àm ơn sửa chiếc hài này giúp tôi.
Khi bà Martha đưa chúng tôi ra khỏi hũ đường buổi sáng hôm sau, tôi đã sẵn sàng thực thi kế hoạch của mình, đương nhiên trừ việc vẫn phải vắt sữa. Và cả Tom nữa. Tôi quyết định không chia sẻ kế hoạch với cậu ta. Tôi vẫn cảm thấy đôi chút khó chịu vì những điều cậu ta đã nói trong kho vũ khí, và rõ ràng là Tom không hề có ý định giúp đỡ tôi tìm bố. Tốt thôi. Tôi sẽ tự làm, nhưng công cuộc khiến Tom để tôi lại một mình lại là một kế hoạch riêng rẽ. Cậu ta cứ liên tục phọt sữa vào mặt tôi.
Nó cố gắng lôi kéo tôi đọ kiếm, chạy đua, chơi kéo co hoặc đòn bẩy thìa.
“Thế trò trốn tìm thì sao?” Tôi gợi ý. “Cho cậu trốn trước đấy.”
“Tuyệt!” Tom reo lên. “Một trăm năm nữa cậu cũng chẳng tìm thấy tớ đâu.”
“Tuyệt,” tôi phụ họa, và Tom chạy biến khi tôi bắt đầu đếm. Đến mười thì tôi dừng lại. Phải, tôi đang tìm cách loại trừ Tom. Phải, tôi có hơi thủ đoạn thật, nhưng tôi còn có thể làm gì?
Tôi chạy đến đầu kia của chiếc bàn, nơi bà Martha đang lé mắt nhìn một đống cà-rốt tí hon trong nỗ lực thái bỏ phần đầu có lá. Một đám người tí hon đang thao tác nhanh nhẹn hơn hẳn với đống củ của họ.
“Các người cứ nghĩ chúng tôi có thể tự trồng cà-rốt, nhưng không, chúng tôi cứ phải sống dựa vào đống củ tí hon này. Ái! Tôi lại đứt tay rồi!” Bà Martha cuộn ngón tay vào trong cái tạp dề, vô tình tạo nên một cây cầu vải nhỏ nối giữa cái bàn và cái túi.
Tôi dễ dàng bò vào bên trong và tìm thấy cây rìu của mình chỏng chơ ở một góc. Ha! Tôi giắt cây rìu vào sợi thừng cột quanh eo và trượt từ chiếc váy của bà xuống đôi giày vĩ đại. Tôi lôi cây rìu ra, rất cẩn thận và chậm rãi luồn lưỡi rìu vào những sợi chỉ khâu giày, lấy hết sức bình sinh cưa cưa cắt cắt vị trí giữa lớp da và phần đế gỗ. Việc xử lý những mối chỉ rất khó khăn, giống như phải cứa đứt những sợi dây thừng rất dày vậy. Đôi lúc bà lại nhịp nhịp các ngón chân, khiến tôi cứ phải ngồi đó mà nhún nhảy cho đến khi bà dừng lại, nhưng cuối cùng tôi cũng cắt đứt được một cơ số các mối chỉ, và khi tôi xong việc, chỗ đầu ngón chân đã hiện ra một lỗ hở to tướng. Đủ to để bà đầu bếp phải viện đến ai đó sửa lại. Một ông thợ giày.
Tôi giắt chiếc rìu trở lại thắt lưng và trèo lên chiếc váy và tạp dề của bà Martha. Bà bếp vẫn đang vừa thao thao bất tuyệt vừa thái cà-rốt, và có vẻ như không ai nhận ra sự mất tích của tôi, kể cả Tom. Nó vẫn đang mải miết đi trốn. Tôi mỉm cười, lấy làm mừng rằng bấy nhiêu năm gây rắc rối của mình cuối cùng cũng phát huy tác dụng. Không rõ mẹ có tự hào không?
Sau khi thái xong đầu các củ cà-rốt, bà Martha đứng dậy phủi tay. “Được rồi, hỡi các bạn tí hon của tôi. Đã đến lúc chuẩn bị món súp. Chúng ta phải... Ối!” Bà vấp ngã bổ chửng về đằng trước. Bà đụng phải một cái bát khổng lồ đựng cà-rốt tí hon và bám vào rìa bàn. Một tá người tí hon chạy về phía chỗ cà-rốt bị đổ và bắt đầu nhặt lại chúng vào bên trong.
“Ối giời ơi phiền quá đi mất! Hình như tôi vừa làm thủng giày rồi!” Bà tuột giày và đặt nó lên mặt bàn, phơi ra cái lỗ hở hoác nơi ngón chân. “Không ổn rồi.”
Trong lúc những người tí hon khác bận rộn với việc thu gom đống cà-rốt, tôi lẻn vào bên trong chiếc giày.
“Tôi cần một con quỷ lùn. Quỷ lùn đâu hết rồi?” Bà Martha hỏi. Hé nhìn qua cái lỗ thủng, tôi thấy bà đi ra khung cửa sổ bên trên bồn rửa và ngâm nga. “Tin nhắnnnn!” Một giây sau, bà lôi lên một trong số những sinh vật ngu ngốc béo núc ních đã từng nhại lại lời tôi. Y ngọ nguậy đôi chân trong không trung. Vậy ra chúng được gọi là quỷ lùn.
“Một tin nhắn cho ông thợ giày Siegfried,” bà Martha nói.
Siegfried thân mến,
Như ông thấy đó, tôi vừa làm chiếc giày bị thủng một lỗ lớn, và tôi không thể nào chuẩn bị bữa ăn cho Đức vua dưới điều kiện như vậy. Làm ơn khâu nó lại đẹp nhất có thể, và tôi sẽ biếu ông một chiếc bánh nướng hoặc một khoanh pho-mát để đền ơn, ông chọn thứ nào cũng được. Tôi thì tôi khoái pho-mát hơn, nhưng có lẽ ông sẽ ưng cái bánh bởi vì lần trước khi ông đóng đôi ủng cho thằng con trai Tom Ngón Cái bé bỏng của tôi, tôi đã tạ ơn ông món pho-mát rồi. Thằng bé vẫn ổn thỏa, đúng là một đứa bé ngoan, và tôi lại có thêm một cậu con trai nữa đấy nhé. Là Tim Ngón Cái! Thằng bé suýt thì bị xơi tái bởi con mèo của tôi, tội quá đi mất. Không những vậy, nhà vua tí nữa thì nuốt chửng nó khi nó ngã vào món bánh pút-đinh. Nhưng nó vẫn bình an vô sự bên tôi. Mà nó đâu rồi nhỉ? Chà, chắc lại núp trong một tách trà ở đâu đó rồi. Lũ con trai thì lúc nào chẳng đầy những trò nghịch ngợm. Cảm ơn vì đã sửa giúp tôi chiếc giày tội nghiệp. Đó cũng chính là việc phụng sự Hoàng thượng Bệ hạ, Vua Bartholomew Archibald Reginald Fife vậy.
Kính thư,
Martha, Đầu bếp Hoàng gia
“Giờ thì nhắc lại xem nào,” bà Martha nói, và con quỷ lùn lặp lại tin nhắn, ngoại trừ vài câu hơi lộn xộn. Thay vì “Làm ơn khâu nó lại”, y nói “làm ăn lâu hóa ngại”, và “bị xơi tái bởi con mèo” trở thành “ả gà mái thích làm liều”.
“Cũng gần chuẩn rồi đấy,” bà Martha nhận xét. “Cầm lấy chiếc giày và đi mau.”
Martha trao chiếc giày cho con quỷ lùn, và rồi trước sự kinh ngạc của tôi, bà tóm lấy tóc y và quẳng y đánh vèo qua cửa sổ. Tôi cứ ngỡ chúng tôi sẽ ngã chổng vó và lăn nhiều vòng trên đất, còn bản thân tôi thì văng ra khỏi chiếc giày, nhưng con quỷ lùn lại tiếp đất khéo léo như một con mèo và bắt đầu rảo chân chạy. “Tin nhắn cho ông thợ giày Siegfried!” Y ngân nga khi chạy dọc theo lối đi dẫn ra ngoài những cánh cổng lâu đài và xuống khỏi ngọn đồi. Chưa đầy mười phút sau,chúng tôi đã có mặt ở cánh cửa nhà ông thợ giày mà không hề gặp chút trở ngại nào. Kế hoạch của tôi đã tiến triển một cách trơn tru!
“Tin nhắn cho Siegfried! Tin nhắn cho Siegfried!” Tay quỷ lùn gọi mỗi lúc một lớn tiếng cho đến khi rốt cuộc cánh cửa bật mở. Tôi hé nhìn qua cái lỗ trên mũi giày thấy một ông lão nhăn nheo lụ khụ bước ra. Lão có một đôi tai dơi khổng lồ và một khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn đến mức trông nó như một miếng vỏ cây vậy. Lão đeo mục kỉnh và một cái tạp dề dài bằng da găm đầy búa, kéo, đục và các dụng cụ khổng lồ khác.
“Ta chính là ông thợ giày Siegfried đây,” ông lão khò khè.
Tay quỷ lùn liến thoắng lặp lại nội dung tin nhắn, còn ông thợ giày hình như lăn ra ngủ gật khi đang lắng nghe. Mí mắt ông lão sụp xuống, đầu gật lia lịa. Khi tay quỷ lùn kết thúc, ông thợ giày giật mình tỉnh giấc với một tiếng “khịt” thật lớn. “Gì cơ? Ai? Ồ phải. Tốt lắm. Ta sẽ nhận chiếc giày. Và tin nhắn cho Martha. Chiếc giày của bà ấy sẽ được sửa xong đúng sáng mai. Ta sẽ lấy chiếc bánh. Và chút bia chua nếu như bà ấy còn dư. Hết!”, ông thợ giày nói.
Tay quỷ lùn lon ton chạy khỏi cửa ngâm nga. “Tin nhắn cho Martha! Tin nhắn cho Martha!”
Ông thợ giày săm soi mối khâu bị xé rách trên chiếc giày. Lão hít hít cái lỗ hở, đôi lỗ mũi khổng lồ suýt thì hút cả tôi lên. Tôi gập người xuống thật thấp cạnh mép giày.
“Xem nào,” ông thợ giày lẩm bẩm. “Có một lỗ hở... Sẽ cần đến năm, sáu hoặc mười mũi khâu, gõ lại đế cho chắc và đánh bóng một chút. Dễ như ăn bánh, và trả công cũng bằng bánh luôn!”
Ông thợ giày quẳng chiếc giày lên bàn làm việc, và tôi ngã nhào khỏi cái lỗ thủng khi nó đập xuống mặt bàn. Tôi đứng dậy và thấy mình đang đứng giữa một “khu rừng” bạt ngàn giày dép. Những đôi ủng khổng lồ nom như những thân cây sừng sững, những chiếc giày với phần mũi vểnh lên giống như những con thuyền, và những đôi dép lê xinh xắn thêu chỉ lụa, chỉ vàng và đính các hạt đá lóng lánh.
Hai người đàn ông xuất hiện từ giữa đám giày, tay mang những mảnh giẻ tẩm xi đánh giày đen. Chúng dây ra cả mũi và má họ, khiến họ nom giống những người thợ nạo ống khói hơn bao giờ hết.
“Chúng tôi lấy được nó rồi, thưa ngài Siegfried.” Họ đi về phía chiếc giày của Martha, vác lên vai như vác một súc gỗ và khiêng nó về phía một cái giá thật cao lắp một cái khuôn giày khổng lồ trên đỉnh. Trước đây tôi đã từng nhìn thấy dụng cụ tương tự trong tiệm giày ở nhà, nhưng dĩ nhiên cái này lớn hơn nhiều - một bàn chân vĩ đại úp ngược trong không khí.
Thêm nhiều người tí hon nữa tham gia vào nhiệm vụ. Họ xuất hiện từ trong những chiếc giày như những con mối túa ra khỏi các món đồ gỗ. Hai người tí hon trèo lên đỉnh chiếc khuôn giày và thả dây thừng xuống. Bên dưới, hai người tí hon khác buộc các đầu dây vào chiếc giày của Martha.
“Nâng nó lên!” Họ gọi, và những người tí hon đứng trên lôi và kéo chiếc giày cho đến khi nó úp ngược lên trên cái khuôn. Hai người tí hon đứng trên tiếp tục thả xuống một chiếc thang dây với thanh ngang là kim găm và kim khâu, phải đến nửa tá người tí hon trèo lên chiếc giày. Vài người trong số họ gõ gõ vào lớp da cũ, và bắt đầu khâu lại các mũi bằng một cây kim và sợi chỉ khổng lồ.
“Ồ tốt lắm,” ông thợ giày nói. “Các cậu thật là những chú thợ giày tí hon cừ khôi. Thôi đưa đây, để ta khâu cho. Ta vẫn làm được.” Ông lão giằng cây kim khỏi mấy người tí hon. Lão nheo nheo cặp mắt đầy vết chân chim và đâm kim bằng đôi bàn tay run rẩy. Khi chọc cây kim qua chiếc giày, lão tí nữa thì đâm trúng một người tí hon cao gầy với mái tóc đen quăn tít, khiến anh này phải nhào ra khỏi mũi giày và được mấy người khác kéo lên. Trong khi đó, thực chất ông thợ giày đã đâm xuyên cây kim qua cái lỗ thủng rồi kéo nó trở lại, chứ chẳng khâu thêm được nửa mũi.
“Đó,” ông thợ giày nói, mỉm cười. “Mũi khâu quá là chuẩn, các cậu có thấy thế không? Tất cả là nhờ đôi bàn tay cứng cáp này.” Lão giơ hai bàn tay lên ngang mặt. Chúng run lẩy bẩy tựa như chiếc lá khô trong gió. “Đôi bàn tay khỏe mạnh, vững chãi. Giờ thì đi đóng đế thôi.”
Ông thợ giày giơ chiếc búa có kích thước ngang ngửa với một thân cây sồi lên cao quá đầu. Những người tí hon vội vàng dạt ra bốn phía, ngoại trừ một người đàn ông béo lùn với bộ râu dài đỏ tía đang với lên gọi ông lão.
“Xin thứ lỗi, ngài Siegfried, nhưng nom ngài có vẻ hơi mệt rồi. Có lẽ ngài nên nghỉ chút xíu đi.”
“Không, không. Ta còn nhiều việc cần làm lắm.” Ông thợ giày ngáp dài. Cái búa lủng liểng một cách nguy hiểm.
“Tại sao ngài không giao cái búa đó cho lão Duncan này,” người tí hon râu đỏ nói tiếp. “Tôi sẽ gõ lại đôi giày đó nhanh chóng, hoàn hảo như mới, còn ngài có thể đánh một giấc ngắn trên chiếc ghế bành cạnh lò sưởi.”
“Ta nghĩ rằng ta có thể nghỉ ngơi, chỉ một phút thôi.” Ông thợ giày thả rơi cây búa vào đôi tay Duncan. Người đàn ông quỵ xuống trước sức nặng của nó, cho đến khi nhiều người tí hon khác chạy lại giải cứu.
“Gõ mạnh vào đấy,” ông thợ giày nói, lảo đảo bước tới cái ghế bành cạnh lò sưởi. “Và đừng quên cắt bớt dây giày. Các cậu không muốn người ta vấp ngã lộn cổ bởi chính dây giày của mình đấy chứ. Đó là sản phẩm của một anh thợ giày kém cỏi!”
“Vâng, thưa ngài! Nhất định rồi, thưa ngài!” Duncan đáp.
Ông thợ giày già nua ngồi phịch xuống, suýt tí nữa thì đè bẹp một con chó con có kích thước bằng một con bò đang nằm ngủ yên lành trên cái ghế. Con chó trắng lông xù kêu ăng ẳng, rồi ngọ nguậy trườn ra từ bên dưới ông lão - người chỉ chưa đầy mười giây sau đã lăn ra ngủ và ngáy ầm ĩ. Con chó lon ton chạy lại nghiêng ngó những người tí hon làm việc, đôi tai vẫy vẫy một cách háo hức.
“Tội nghiệp ông già,” Duncan nói, hất đầu về phía ông thợ giày. “Ông lão không thể giữ tỉnh táo được hơn một phút.”
“Và lão chẳng thể cầm nổi cây kim cho chắc để giữ mạng chính mình,” người tí hon gầy nhom suýt bị ông thợ giày đâm xuyên nói. “Suýt nữa còn lấy mạng cả tôi!” Anh ta gần như cao gấp đôi Duncan, nhưng rõ ràng Duncan là chỉ huy.
“A, thôi ngay cái màn khóc lóc ấy đi, Bruce,” Duncan nói. “Chúng ta có việc phải làm đấy.”
“Sao phải thế?” Bruce độp lại. “Tôi có đòi được tới đây đâu. Tôi chưa bao giờ có nguyện vọng đóng giày cho người khổng lồ.”
“Ồ, vậy tốt thôi,” Duncan nói, ngước lên nhìn Bruce trừng trừng. “Thế sao cậu không bỏ ra ngoài đó đi. Nếu may mắn không bị nghiền nát trong vòng vài nốt nhạc, cậu có thể vào làm việc trong một tàu ngựa và đóng móng cho ngựa khổng lồ đấy.”
Bruce co rúm lại và giật giật mái tóc xoăn. Hiển nhiên anh ta coi việc phải thay móng cho những con ngựa khổng lồ là một khả năng hiện hữu và đáng sợ. “Tôi cho rằng mọi chuyện đã có thể tồi tệ hơn nhiều.”
“Chứ còn gì nữa! Giờ thì vác chiếc búa này tới gót chiếc giày và đóng đinh đi! Còn các anh thì quay lại với mấy mũi khâu nào!”
Không thấy bố đứng phía trên chiếc giày, nhưng còn nhiều người tí hon khác rải rác trên khắp chiếc bàn, đang cắt da với những cây kéo khổng lồ, đánh bóng các đôi ủng, hoặc khâu những hạt trang trí vào mấy đôi dép lê. Tôi len lỏi giữa các đôi giày, tìm kiếm. Bố vẫn biệt tăm.
Tôi ngó vào trong vài chiếc giày, nhìn thấy hàng chồng chăn chiếu và nệm bằng nùi bông, những cây giá nến thô sơ tự tạo từ mấy chiếc khuy khổng lồ, cùng vài đống khoai tây cùng cải bắp nhỏ. Có vẻ như những người tí hon này ban ngày làm việc trên những chiếc giày, đến đêm thì ngủ bên trong chúng. Họ không có hàng dãy giá chất đầy gà bò, hay những khoanh pho-mát khổng lồ như chúng tôi ở trong nhà bếp, nên họ cất giấu tất cả những gì có thể tìm thấy. Tôi chắc chắn rằng những chiếc bánh của bà Martha là món trả công rất hời cho một chiếc giày đem sửa. Hơn là vàng, có lẽ thế.
Một người đàn bà đứng cạnh một đôi giày lớn theo phong cách phù thủy, có gắn một chiếc khóa đồng. Bà ta đang cắp hai đứa bé sơ sinh ở hai bên hông, trông có vẻ kiệt sức. “Này, các con,” người đàn bà nói. “Tránh lối cho mẹ nào. Đi chơi đi, nhớ để ý tránh kim, kéo và mấy cái rìa sắc đấy. Nếu các con ngoan, tối nay mẹ sẽ đãi một bữa thật ngon!” Mấy đứa trẻ bận đủ loại quần áo rách mướp bò khỏi chiếc giày và túa ra mọi hướng. Tôi nhận ra họ! Đó là bà góa Francis và mười ba đứa con. Còn một con bê nữa! Một trong những đứa con nhỏ của bà ta đang ngồi trên lưng nó như cưỡi ngựa. Nó chính là con của Trắng Sữa, tôi cược là như vậy.
“Chơi loanh quanh gần chiếc giày thôi nghe chưa!” bà góa Francis dặn. “Đừng để ngã đấy!” Lũ trẻ cười ầm ĩ và chơi trò Truy tìm chiếc Dép[4], miệng hát nghêu ngao.
Bác thợ là bác thợ giày
Làm ơn sửa chiếc hài này giúp tôi
Một, hai, ba mũi khâu thôi
Hài xinh lại ghép thành đôi vẹn toàn!
“Bà góa Francis ơi!” Tôi gọi to. Người phụ nữ có tuổi quay về phía tôi. Trong một thoáng bà lộ chút băn khoăn, nhưng rồi bà cau mày và tôi biết bà đã nhận ra tôi. Khi còn nhỏ, tôi thường giao du với ba thằng con sinh ba nhà bà, Larry, Barry và Jerry, nhưng bà đã cấm tiệt chúng nói chuyện với tôi kể từ khi tôi nổi lửa thiêu trụi cửa hàng của ông thợ rèn. “Ôi,” bà thốt lên. “Xem con mèo tha đến thứ gì này.”
“Thực ra là một gã quỷ lùn tha cháu tới. Con mèo cố ăn thịt cháu thì đúng hơn.”
Bà góa Francis chỉ biết chớp chớp mắt. Tôi di chuyển và ngó ngược ngó xuôi. “Cháu đang đi tìm bố cháu. Bà có thấy ông ấy không ạ?”
“Có, dĩ nhiên ta có thấy.”
Tim tôi thót lên tận cổ. Tôi biết mà! Tôi biết bố có ở đây mà! “Thế ông ấy đâu rồi ạ?!” Tôi kêu lên.
“Chà, ta chắc là ta không thể biết được,” Bà góa Francis đáp.
“Nhưng chính bà vừa nói...”
“Ông ấy đã ở đây, nhưng giờ thì không còn nữa.”
Trái tim tôi tan nát. “Bà nói thế là sao ạ? Chuyện gì đã xảy ra với ông ấy?”
Bà góa Francis ngó nhìn một trong mấy đứa con nhỏ nhất vừa xô đổ một cái bình thủy tinh lớn.
“Ned! Đừng có ăn xi đánh giày chứ! Ôi ta xin lỗi cậu. Gì cơ?”
“Bố Henry của cháu. Chuyện gì đã xảy ra với ông ấy?”
“Ồ, ông ấy đã ở đây, như ta vừa nói đó. Và rồi một trong mấy cái gã lắp bắp lập bập đó tới nói gì đó với bố cậu, toàn những lời lẽ kỳ cục, nhưng dường như lại rất có ý nghĩa với ông ấy, bởi vì ngay sau khi nghe xong, ông ấy lập tức rời đi. John, con làm ơn bỏ cái kéo đó xuống được không? Mẹ đã nói với con hàng trăm lần, con không được cắt bím tóc của Jane! Con sẽ cắt phăng đầu em ra mất!”
“Lúc nào ạ?” Tôi hỏi.
“Lúc nào cái gì?”
“Bố cháu rời đi lúc nào ạ?”
“Ồ, cũng được tầm một, hai tiếng đồng hồ rồi...”
“Một tiếng đồng hồ!” Tôi la lên. “Ý bà nói rằng một tiếng trước ông ấy còn ở đây?”
“Sinh vật lắp bắp đó nói rằng y có một tin nhắn cho Henry, rồi y huyên thiên mấy thứ kỳ quặc gì đó đại khái như bố y ở đâu, và vài lời lẽ khác ta không tiện trích dẫn.”
Một trong mấy đứa sinh ba gào lên từ trên đỉnh một chiếc ủng. Là Larry, Barry hay Jerry - tôi cũng không biết nữa. “Hắn ta gọi bố cậu là đồ óc bã đậu!”
Bà góa Francis nhăn mặt. “Ừ, phải, và vào lúc đó bố cậu đã tin chắc tin nhắn đó đến từ cậu.”
Tay quỷ lùn! Đó hẳn chính là tay quỷ lùn tôi đã gặp lúc mới đặt chân đến đây và cố gắng kiếm tìm sự giúp đỡ. Khi tôi nhắc đến tên bố, hẳn là tay quỷ lùn đã tìm kiếm khắp mọi nơi cho đến khi tìm ra Henry “xịn”, và rồi lặp lại cuộc đối thoại giữa chúng tôi. Bố vẫn còn sống! Nhưng vẫn mất tích.
“Ông ấy nói ông ấy sẽ đi tìm cậu,” bà góa Francis nói. “Ta đã bảo ông ấy đó là một quyết định điên rồ nhưng ông ấy không nghe, và hồi sáng ông ấy trốn trong một chiếc giày giao đi, giờ thì đi mất rồi.”
“Chú ấy tặng George cho bọn em trước lúc rời đi!”, cô bé nhỏ đang cưỡi con bê khoe.
“Đừng để George nhai dây giày con đấy!” Bà góa Francis nhắc.
“Bà có biết bố cháu có thể đi đâu không ạ?” Tôi hỏi. “Bà có thấy chiếc giày đó đi đâu không?”
“Chú ý ngọn lửa kìa!” Bà góa Francis hét lên. Hai đứa trẻ đang trèo lên đỉnh của một cây nến và nhúng chân vào lớp sáp lỏng, tự tạo nên cho mình những đôi giày sáp xinh xinh bao bọc một cách hoàn hảo lấy mấy bàn chân trần.
“Ừm, căn cứ vào hình thức của chiếc giày ông ấy đã tẩu thoát, thì ta đồ rằng giờ ông ấy đang ở trong tòa lâu đài khổng lồ tít trên đỉnh đồi. Ta không thể hình dung chiếc giày ấy có thể đi đâu khác.”
“Sao bà lại nói thế?”
“Bởi vì, cậu bé à, chiếc giày đó được làm từ vàng ròng. Ngoài bậc đế vương ra thì ai có thể đi một chiếc giày vàng?”
Một chiếc giày bằng vàng. Nó chỉ có thể thuộc về một người.
Vua Barf.
Jack - Cây Đậu Thần Jack - Cây Đậu Thần - Liesl Shurtliff Jack - Cây Đậu Thần