Until I feared I would lose it, I never loved to read. One does not love breathing.

Harper Lee

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13
áng hôm sau trời đã tạnh mưa và căn nhà có cảm giác giống như một con tàu đã an toàn vào đến đất liền. Eva đã đi nhưng vẫn để phần anh bánh mì nâu và mứt trên thớt. Trong lúc mặc quần áo, Arkady chú ý kỹ hơn tới các bức ảnh: Cô giáo dạy múa ba lê, con mèo mướp, nhóm bạn đang trượt tuyết, ai đó bịt mắt đứng trên bãi biển. Không ảnh nào có mặt Alex, anh thừa nhận cảm thấy an tâm hơn.
Lúc bước ra ngoài lớp cửa chắn*, anh chẳng thể không để ý đến hàng liễu, giống như những cô gái e thẹn khuấy một chân trong nước và con sông căng tràn với dòng nước cuồn cuộn, mang theo mùi đất cùng tiếng ầm ì vang vọng. Arkady đã không ngủ cùng phụ nữ suốt một thời gian dài và anh bỗng cảm thấy ấm áp, sống động lạ thường. Thổi bùng đám tro tàn, anh thầm nghĩ, mình sẽ không bao giờ biết.
“Xin chào.” Oksana Katanay hiện ra trong tầm mắt từ góc quanh của ngôi nhà. Cô ta mặc bộ đồ chạy màu xanh và đội mũ len; một bộ tóc giả, hoặc có lẽ bữa trưa cho cậu em trai Karel trong ba lô sau lưng. Cô ta cúi đầu và cho tay vào ống tay áo. “Mọi người dậy cả rồi chứ?”
“Rồi.”
“Đây là nhà bác sĩ phải không?”
“Phải. Cô đang làm gì ở đây?”
“Tôi thấy xe của anh. Người bạn Vespa của tôi đang dựng kế bên.”
“Bạn à?”
“Vâng.”
Arkady nhìn xe của anh dựng cùng chiếc xe tay ga trong sân nhưng khó có thể thấy chúng từ ngoài đường. Oksana mỉm cười, rướn cổ nhìn xung quanh.
Arkady hỏi, “Cô đến đây lâu chưa?.”
“Một lúc rồi.”
“Rất lặng lẽ.”
Cô ta mỉm cười gật đầu. Hẳn cô ta đã tắt máy, dắt bộ khoảng năm mươi mét nên mới âm thầm như thế. Và rõ ràng cô ta không thấy có gì bất thường khi đợi anh ngoài cửa ngôi nhà của một phụ nữ khác.
“Hôm nay, cô không phải đi làm à?” Arkady lại hỏi.
“Tôi xin ở nhà, nghỉ ốm.” Cô ta chỉ vào cái đầu trọc lốc dưới lớp mũ len. “Họ cho nghỉ bất cứ khi nào tôi muốn. Dù sao thì cũng không có nhiều việc lắm.”
“Cô muốn uống cà phê không, nóng hay đá?”
“Anh vẫn nhớ à. Không, cảm ơn.”
Anh nhìn chiếc xe ga. “Cô đi lòng vòng quanh đây à? Không sợ các trạm kiểm soát sao?”
“À, tôi biết nên đi bằng đường nào.”
“Karel, em trai cô cũng thế. Đó chính là vấn đề.” Oksana có vẻ bồn chồn, thay đổi tư thế. “Tôi chỉ muốn xem anh thế nào thôi. Nếu anh đang ở cùng bác sĩ, tôi đoán là anh ổn. Tôi rất lo lắng vì Hulak.”
“Cô biết Boris Hulak?” Thợ sửa ống nước. Cái xác ở hồ làm mát.
“Ông ấy và ông tôi có thể nói chuyện điện thoại hàng giờ về những kẻ phản bội đã đóng cửa nhà máy. Nhưng thực sự ông tôi không bao giờ làm tổn thương bất kỳ ai.”
“Rất mừng khi biết điều này.”
Oskana dường như thả lỏng. Nếu ông già ngồi trên chiếc xe lăn lao nhanh như ngựa đó không định tấn công anh thì hẳn Arkady cũng rất vui mừng.
“Nhìn kìa,” cô ta chỉ con cò đang bay là là lướt qua hình ảnh phản chiếu của nó trên mặt sông.
“Giống cô. Cô chỉ đơn giản là đến rồi đi sao?”
Cô ta nhún vai, mỉm cười. Về độ khó hiểu thì nàng Mona Lisa chả là gì so với Oksana Katanay.
Anh hỏi, “Cô còn nhớ Anton Obodovsky chứ? Một gã to lớn, tầm hơn ba mươi tuổi. Anh ta thường chơi quyền anh.”
Cô ta cười tươi hơn.
Arkady cố thử câu hỏi dễ trả lời hơn.
“Tôi có thể tìm anh em Woropay ở đâu?”
Dymtrus Woropay trượt trên đường phố có những ngôi nhà bỏ hoang, lùi sau, sang bên, tới trước, cầm gậy khúc côn cầu lùa bóng quanh các ổ gà và bụi cỏ. Mái tóc vàng hoe đủ dài để bị thổi tung trong gió và gã đang chú tâm hoàn toàn vào quả bóng nên không nhận thấy Arkady cho đến khi họ chỉ còn cách nhau vài bước chân, tại điểm mà Dymtrus gạt quả bóng về phía trước rồi dựng đứng cây gậy, Arkady liền ném thùng đựng rác anh vác theo sau lưng. Cái thùng đập vào mắt cá chân Dymtrus khiến gã đập mặt xuống và Arkady đạp chân lên gáy, giữ gã nằm im.
“Tôi muốn nói chuyện với Katanay,” Arkady nói. “Có lẽ mày cũng muốn vài gậy vào mông nữa.”
Arkady cúi xuống. Anh e sợ gã Dymtrus Woropay vạm vỡ và đôi khi nỗi sợ chỉ có thể xua đi bằng một cách.
“Katanay ở đâu?”
“Chết tiệt.”
“Cậu muốn thở chứ?” Arkady thúc gót vào quả táo Adam của Woropay.
“Mày có súng không?” Woropay cố ngước mắt lên.
Arkady lục lấy súng của Woropay, một khẩu Makarov 9mm, loại dùng cho cảnh sát. “Giờ thì có rồi.”
“Mày không dám bắn đâu.”
“Dymtrus, nhìn quanh đi. Có bao nhiêu nhân chứng?”
“Khốn kiếp.”
“Tôi cá là em của cậu đã mệt mỏi vì phải làm anh em với cậu. Tôi nghĩ đã đến lúc cậu ta tự đứng trên hai chân của mình rồi.” Arkady mở chốt an toàn, gí mũi súng vào đầu Dymtrus, tỏ vẻ sẵn sàng bắn.
“Đợi đã. Khốn kiếp. Katanay là ai?”
“Là bạn và cùng trong đội khúc côn cầu với cậu, cũng là đồng nghiệp của cậu, Karel Katanay. Cậu ta đã tìm ra người Nga chết ở nghĩa trang. Tôi muốn nói chuyện với cậu ta.”
“Cậu ấy đang bị mất tích.”
“Không phải với tất cả mọi người. Tôi đã gặp ông cậu ta và lập tức hai thằng ác ôn, cậu và em trai cậu đã chơi khúc côn cầu bằng đầu của tôi.”
“Anh muốn nói chuyện gì?”
“Về người Nga đó, chỉ thế thôi.”
“Để tôi đứng dậy đã.”
“Cho tôi một lý do đi.” Arkady đè mạnh hơn để buộc gã phải quyết định.
“Được rồi! Tôi sẽ tìm cách.”
“Tôi muốn cậu đưa tôi đến gặp cậu ta.”
“Cậu ấy sẽ gọi cho anh.”
“Không, gặp trực tiếp.”
“Tôi không thở được.”
“Gặp trực tiếp. Thu xếp đi hoặc tôi sẽ tìm và bắn gãy chân cậu. Để rồi xem, cậu sẽ trượt patanh thế nào.” Arkady ấn mạnh thêm cái nữa trước khi nhấc chân ra.
Dymtrus ngồi dậy, xoay cổ. Gã có khuôn mặt gãy như lưỡi cày cùng cặp mắt hẹp. “Khốn kiếp.”
Arkady đưa cho Dymtrus số điện thoại di động của mình, và khi cảm thấy gã đang căng lên, sẵn sàng cho một cuộc chiến thì anh bồi thêm, “Cậu trượt patanh giỏi đấy.”
“Làm thế quái nào anh biết được?”
“Tôi đã xem cậu tập luyện. Cậu thích chơi trên băng hơn à?”
“Thì sao?”
“Tôi cá là cậu đang lãng phí tài năng cho các giải đấu ở đây.”
“Thì sao?”
“Chỉ nhận xét thế thôi.”
Dymtrus hất tóc ra sau. “Còn gì nữa? Anh biết gì về khúc côn cầu trên băng?”
“Không nhiều. Nhưng tôi biết nhiều người.”
“Kiểu như ai?”
“Wayne Gretzky.” Arkady từng nghe nói về anh ta.
“Anh biết anh ấy à? Khốn kiếp! Anh có nghĩ anh ấy từng đến đây không?”
“Tới Chernobyl hả? Không. Cậu phải tới Matxcova.”
“Anh ấy có thể gặp tôi ở đó à?”
“Có lẽ. Tôi cũng không rõ.”
“Nhưng có thể chứ? Tôi vạm vỡ, nhanh nhẹn và sẵn sàng cản bóng.”
“Đó là sự kết hợp vô địch đấy.”
“Vậy anh ấy sẽ gặp chứ?”
“Chúng ta sẽ xem xét.”
Một Dymtrus với tâm trạng tích cực hơn đứng bật dậy. “Được, chúng ta sẽ xem xét. Trả lại súng cho tôi chứ?”
“Không. Nó đảm bảo giúp tôi gặp được Katanay. Cậu sẽ nhận lại súng sau đó.”
“Nếu tôi cần nó thì sao?”
“Tránh xa rắc rối ra.”
Bản thân anh cũng cảm thấy thoải mái hơn, Arkady chạy xe tới quán cà phê, nơi anh gặp Bobby Hoffman. Yakov đang tự pha cà phê đen ở đó thay vì trong một căn bếp Do Thái.
“Tôi đã tìm ra,” Bobby thông báo cho Arkady. “Nếu bố Yakov từng ở đây lúc họ bị đánh chìm trên con tàu nhồi đầy người Do Thái, tức là vào năm 1919 hoặc 1920, có nghĩa là Yakov đã khoảng tám mươi tuổi. Tôi không nghĩ ông ấy già đến thế.”
“Ông ta có vẻ hiểu rõ việc của mình.”
“Ông ấy viết sách. Nhưng khi nhìn ông ấy, anh sẽ nghĩ điều duy nhất ông ta muốn là ngồi trên ghế ở bãi biển Tel Aviv, chợp mắt rồi lặng lẽ qua đời. Anh thấy thế nào, Renko?”
Yakov ngước lên với ánh mắt của loài rắn chuyên giết người. “Cậu ta ổn.”
“Tôi ổn,” Arkady đáp.
Bất chấp một loạt vết bầm tím. Yakov rất gọn gàng, ăn vận như một người về hưu thảnh thơi nuôi chim, trong khi khuôn mặt và quần áo Bobby lại nhăn nhúm vì thiếu ngủ cùng với một bàn tay sưng vù. “Sao thế?”
“Ong đốt.” Bobby tỏ vẻ không có chuyện gì. “Thực tế, lũ ong chính là phần tốt đẹp. Còn gã cơ bắp Obodovsky thì sao, gã ta đang làm gì ở Kiev?”
“Anton đang làm những việc mà anh kỳ vọng một kẻ tầm cỡ như gã sẽ làm khi trở về thành phố quê hương. Gã khoe tiền và một cô gái.”
“Cô nhân viên chăm sóc răng miệng hả?”
“Chính xác. Đây không phải nước Nga. Cả tôi và Victor đều không có thẩm quyền bắt giữ hay tra hỏi gã.”
Bobby thì thầm, “Tôi không muốn tra hỏi gã, tôi muốn gã phải chết. Anh có thể làm được điều đó ở bất kỳ đâu. Ở đây, tôi cực kỳ bơ vơ. Và chẳng có gì xảy ra cả. Hai tay cớm người Nga của tôi đang đi lang thang trong bóng tối, uống trà, lượn lờ các khu thương mại. Tôi mang Kuzmitch cho anh, anh không muốn. Anh thấy Obodovsky thì lại không thể bắt gã. Đó là lý do tại sao anh không được trả tiền, bởi vì anh chẳng mang lại kết quả gì.”
“Cà phê.” Yakov rót cho Arkady một tách.
“Còn Yakov ở đây thì cầu nguyện suốt đêm. Lau súng và cầu nguyện. Hai người đúng là một cặp.”
Arkady nói, “Hôm qua anh đã tỏ ra rất kiên nhẫn.”
“Hôm nay tôi bắt đầu phát điên.”
“Vậy nói cho tôi biết anh đang làm gì ở đây năm ngoái.”
“Không phải chuyện của anh.” Bobby nghiêng người nhìn ra cửa sổ, “Mưa, phóng xạ, nhà dột. Chúng khiến tôi bực bội.”
Một chiếc xe của quân tự vệ lượn vào, đậu sát cạnh con Nissan trầy xước của Yakov và đại úy Marchenko từ từ chui ra, có lẽ đang làm dáng cho bức tranh gọi là Người Cozak trong ánh bình minh, Arkady thầm nghĩ. Có rất nhiều thứ thoát khỏi sự chú ý của Marchenko - vết cắt trên cổ họng, vết bánh xe và dấu chân ở hiện trường vụ giết người - nhưng hai cư dân mới nhất của Khu vực cấm lại lọt vào tầm mắt anh ta. Đại úy bước vào quán cà phê, giả vờ tỏ vẻ ngạc nhiên một cách thân thiện khi nhìn thấy Bobby cùng người đồng hành, giống kiểu nhìn thấy con cừu và tưởng tượng ra miếng sườn cừu. Anh ta tự giới thiệu và lôi từ túi áo ngực ra một danh thiếp của Vanko.
“Chaim Weitzman?” Marchenko đọc mặt sau tấm thẻ. Bobby gật đầu chào.
“Vad Yakov Brodsky?” viên đại úy hỏi tiếp.
Yakov nói, “Tôi là Brodsky. Xin thông cảm, ông bạn Weitzman của tôi chỉ nói được tiếng Anh và tiếng Do Thái thôi.”
“Không tiếng Ukraine à? Hay thậm chí tiếng Nga?”
“Tôi sẽ phiên dịch.”
Marchenko lần đầu tiên thừa nhận Arkady. “Còn đây là điều tra viên của chúng tôi đến từ Matxcova. Renko, anh nói được tiếng Anh hay Do Thái không?”
“Một chút tiếng Anh.”
“Phải rồi,” viên đại úy nói như thể đó là một vết nhơ, nhưng lại chẳng có ai cảm thấy phiền lòng với Yakov hay Bobby. “Bạn anh à?”
Arkady ứng biến, “Weitzman là bạn của một người bạn. Anh ấy biết tôi ở đây, nhưng anh ấy đến là để thăm mộ của người Do Thái.”
“Tôi có thể kiểm tra hộ chiếu hay visa của anh được chứ?” Marchenko hỏi và không buồn mở ra mà chỉ nhằm nhấn mạnh quyền lực của mình. “Tuyệt vời. Vanko nói là chúng tôi có khách tới thăm ngôi mộ nổi tiếng. Anh biết không, tôi thường bảo chúng tôi nên đặc biệt chào đón du khách người Do Thái.”
“Còn những du khách khác à?” Arkady hỏi.
Có một câu trả lời, nhất là trong các vùng đất độc hại, nhưng Marchenko lại từ chối trả lời và Arkady bị ấn tượng bởi viên đại úy đã dễ dàng lồng ghép việc kinh doanh với chức vụ của mình như thế nào.
“Ngài Brodsky, đây là danh thiếp của tôi, có đủ địa chỉ, số điện thoại, số fax văn phòng. Nếu ngài gọi tôi sớm, tôi đã có thể thu xếp tốt hơn, có lẽ một ngày sẽ đi thăm được một vùng rộng lớn hơn, được bảo vệ chặt chẽ khỏi phóng xạ và tự nhiên. Cuối mùa hè sẽ thú vị hơn nhiều. Mùa dâu rừng.” Nếu đại úy trông chờ một sự hưởng ứng nồng nhiệt từ Yakov thì anh ta hẳn phải thất vọng rồi. “Dù sao chúng ta cũng hy vọng mưa sẽ tạnh. Hy vọng không phải nhờ cậy đến Noah cùng con thuyền của ông ta nhỉ? Vâng, các quý ông, rất vui đấy. Renko, anh không định đi đâu à?”
“Không.”
“Tôi không nghĩ thế.”
Lúc viên đại úy leo lên xe, Bobby liền vẫy tay tạm biệt. “Tên khốn.”
Tâm trí Arkady đã lang thang đi tìm Eva, nhưng anh vẫn nán lại hỏi. “Bobby, anh có bao nhiêu hộ chiếu?”
“Đủ dùng.”
“Tốt, bởi vì đầu óc tay đại úy này giống như đèn trong tủ quần áo, lúc sáng lúc không. Lần này là không, nhưng lần tới thì có thể và anh ta sẽ kiểm tra giấy tờ của anh. Thị trấn này không có nhiều du khách tới thăm. Có lẽ khôn ngoan nhất là rời đi lúc này.”
“Chúng tôi sẽ đợi. Noah cũng là đồ khốn.”
“Sao lại là Noah?” Arkady hỏi. Có vẻ là một phát ngôn mới mẻ.
“Ông ta không tranh luận.”
“Ông ta nên làm thế à?”
Yakov giải thích, “Abraham* đã tranh luận với Chúa trời để không giết bất kỳ ai ở Sodom và Gomorrah. Moses* đã nài xin Chúa không giết những kẻ tôn sùng vàng bạc. Nhưng Chúa bảo Noah làm một con tàu bởi vì Ngài đang chuẩn bị làm ngập lụt toàn bộ thế giới và Noah đã nói gì? Chẳng lời nào cả.”
“Không một lời,” Bobby nói, “và chỉ cứu được con số ít ỏi nhất. Khốn nạn làm sao.”
Có lẽ Eva tới nhà Panasenko để khám sức khỏe cho Roman, nhưng con bò đã xổng chuồng trong cơn bão và phá nát vườn rau. Lúc Arkady tới, Maria đang cùng Eva cố gắng cứu chữa những gì có thể ở giữa vườn và anh không nói một lời nào, chỉ lẳng lặng tham gia. Bầu không khí nóng nực và ẩm ướt, mặt đất nhão nhoét, nóng như nung, ri rỉ nước, mỗi bước chân lại tỏa ra mùi hăng hăng của bạc hà hay hoa cúc bị xéo nát.
Cặp vợ chồng già đã cải tạo khu vườn thành những hàng thẳng băng để trồng củ cải, khoai tây, bắp cải, hành tây, tỏi và thì là, những thực phẩm thiết yếu của cuộc sống; cần tây, mùi tây, mù tạt và cải ngựa, hương vị của cuộc sống; cỏ trâu làm vodka và anh túc cho bánh mì, tất cả đều bị con bò giày xéo đến nát bét. Các loại rau củ đều được trồng lại còn rau xanh thì phải tận dụng hết. Chỗ nào nước đọng thì Roman dùng cuốc làm rãnh thoát nước đi.
Maria quấn khăn quanh đầu và một chiếc nữa ở hông để cất những thứ bà thu nhặt được. Eva đã cởi áo choàng và giày, mặc áo phông, quần soóc, đi chân trần, không quàng khăn. Với mái tóc rối bù, cánh tay dính bùn tới tận khuỷu, Eva mảnh khảnh như một thiếu nữ.
Họ làm việc theo từng luống riêng, đào xuống bùn để lấy rau lên hoặc trồng lại củ. Phụ nữ làm nhanh và hiệu quả hơn. Arkady đã không làm vườn từ khi còn nhỏ và bị buộc phải ở nhà để tránh phá nát mọi thứ. Hàng xóm của họ - Nina chống nạng, Olga nheo mắt qua cặp kính và Klara với bím tóc Viking - cùng tới xem. Từ thái độ quan tâm của họ và kích thước khu vườn, có thể thấy rõ Roman và Maria đã nuôi sống toàn bộ dân cư của ngôi làng. Maria kéo theo cả một đoàn tàu nhỏ, bà làm việc hăng say, luôn mỉm cười vẻ mãn nguyện trong lúc lao động, ngoại trừ lúc ngước lên lừ mắt nhìn Roman từ đám lá xanh gân đỏ bị bẻ gãy của củ cải đường.
“Ông chắc là đã gài cửa chuồng bò rồi chứ? Nó có thể đã bị sói ăn thịt. Lũ sói đã có thể tóm được nó.”
Roman làm thinh, trong khi Lydia - con bò - nhìn trộm ra từ thanh chắn cửa chuồng; Arkady có cảm giác cả hai như đôi bạn say bí tỉ và chẳng nhớ gì cả.
Eva hoàn toàn phớt lờ anh từ lúc anh tới và Arkady càng nghĩ chuyện xảy ra đêm qua chính là một sai lầm. Rằng anh là một kẻ cơ hội. Từ đánh giá chuyên môn, anh đã rất không chuyên nghiệp khi để bản thân dính vào chuyện này. Xét về mặt khách quan thì sao? Anh giống như một chiếc kính viễn vọng phóng vào không gian với ống kính méo mó nên chỉ có thể nhìn thấy hoặc là đèn pha hoặc là dải Thiên hà.
Lúc công việc đã xong, Maria mang nước mát tới cho Arkady và Eva, còn kvas cho Roman; kvas là một loại bia nhẹ làm từ bánh mì lên men và là thần dược duy trì cuộc sống của Roman. Eva luôn tìm cách để một trong hai người ở giữa cô và Arkady; một điển hình của sự né tránh.
Điện thoại của Arkady bỗng đổ chuông, giám đốc trại trẻ mồ côi gọi từ Matxcova.
“Điều tra viên Renko, chuyện này rất quan trọng. Anh phải về ngay lập tức. Zhenya đang đợi anh từng ngày.”
“Lần cuối cùng tôi gặp Zhenya, thằng bé còn chẳng thèm vẫy tay chào tạm biệt. Tôi thực sự nghi ngờ nó sẽ nhớ mong tôi.”
“Thằng bé không bộc lộ thôi. Anh đang ở cùng ai à?”
“Vâng.” Maria tiếp tục mắng mỏ Roman về con bò. “Hãy giải thích với họ và trở về đi.”
“Tôi xin lỗi. Tôi đang làm việc và…”
“Vậy giải thích cho Zhenya.”
Ống nghe lại bị bỏ trống, hoặc từ dưới đáy thùng rác hoặc từ một cậu bé kín miệng.
“Zhenya? Cháu có ở đó không? Zhenya?”
Arkady không thấy tiếng trả lời nhưng anh có thể cảm thấy thằng bé đưa ống nghe vào sát tai và mím môi một cách khó chịu.
“Cháu đã làm gì thế, Zhenya? Có vẻ như cháu đang làm giám đốc phát điên.”
Im lặng và có lẽ lo lắng chuyển ống nghe sang tai bên kia.
Arkady nói, “Không có tin tức gì mới về Baba Yaga cả. Chẳng có gì để thông báo.”
Anh có thể hình dung Zhenya đang nắm chặt ống nghe bằng một tay và cắn móng tay kia. Arkady cố chờ thằng bé nói gì đó, nhưng không thể vì Zhenya chỉ đang giữ ống nghe.
“Đêm qua ở đây có bão. Một con rồng xổng chuồng, nổi điên xéo nát cả cánh đồng, phá tan hàng rào. Bọn chú đuổi theo nó qua các cánh đồng đến tận con sông, nhưng nó đã trốn thoát vì có một con quỷ canh giữ cây cầu và nó chỉ có thể bị đánh bại bằng một ván cờ vua. Bọn chú không ai chơi giỏi cả, nên con rồng đã chạy thoát. Lần tới bọn chú cần phải mang theo một người chơi cờ giỏi hơn. Ngoài ra chẳng còn gì xảy ra ở Ukraine. Chúng ta sẽ sớm nói chuyện với nhau. Trong lúc đó, hãy ngoan ngoãn nhé.”
Arkady gấp di động và phát hiện Roman cùng Maria đang kinh ngạc nhìn anh. Còn Eva tỏ ra không hứng thú.
Tuy nhiên, họ mang theo hái vào cánh đồng phía sau chuồng bò để cắt cỏ và lúa mạch bị mưa làm gãy. Lưỡi hái có thể dùng được bằng cả hai tay và sắc tới nỗi như đang cắt vào không khí. Eva và Maria dùng dây bện cỏ thành từng bó trong lúc Arkady và Roman lội phía trước. Arkady cắt cỏ như một chiến sĩ Hồng quân đa năng, anh hình dung nhịp cắt của lưỡi hái giống như là nhịp bơi; chuyển động càng nhịp nhàng, nhịp cắt càng dài hơn. Thân rơm gãy rạp, côn trùng bay tán loạn trong lớp bụi vàng, đó là công việc ít sử dụng trí óc nhất anh từng làm suốt nhiều năm qua và anh hoàn toàn đắm mình trong đó. Đến cuối cánh đồng, anh buông hái xuống, thả người nằm ngửa trên đám cỏ mọc cao với phần thân cỏ ấm áp và mặt đất mát mẻ, lặng người nhìn chằm chằm lên bầu trời nhẹ nhàng xoay tròn phía trên.
Anh tự hỏi làm sao họ có thể chịu đựng được? Vui vẻ làm việc trên cánh đồng cách không xa ngôi mộ của ba đứa cháu nơi khu đất được đánh dấu không nhiễm xạ. Anh tưởng tượng ra từng đám tang và cảm thấy phẫn nộ. Anh có thể chấp nhận được không? Nhưng Roman và Maria cùng những phụ nữ khác dường như vẫn tuân theo mọi nhiệm vụ Chúa giao phó.
Lao động là thiêng liêng, anh nhớ các nhân vật trong tác phẩm của Tolstoy đã từng nói thế.
Một cơ thể thả xuống đám cỏ bên cạnh và dù không nhìn thấy nhưng anh nghe được tiếng Eva thở. Rất bình thường, Arkady thầm nghĩ. Mặc dù không phải là bình thường nhất. Có phải anh đã làm việc như một người nông dân bình thường? Cỏ này có bình thường? Không, không phải, anh tự nhắc nhở bản thân. Nhắm nghiền mắt, anh cảm nhận nhịp chuyển động buồn tẻ của mặt trời. Nhẹ nhõm làm sao khi chẳng phải nghĩ gì, được là một hòn đá trên cánh đồng và chẳng bao giờ phải di chuyển. Nhưng sẽ tốt hơn nếu có hai hòn đá.
Khuất sau lớp cỏ, cô cất tiếng, “Sao anh lại đến đây?”
“Hôm qua Maria nói có thể cô sẽ ở đây.”
“Nhưng tại sao?”
“Để gặp cô.”
“Giờ anh đã gặp rồi sao còn chưa đi?”
“Tôi muốn nhiều hơn.”
“Nhiều hơn gì?”
“Cô.”
Anh hiếm khi trực tiếp như thế này, thẳng thừng không phải loại ngôn ngữ anh hay dùng và anh hy vọng cô sẽ bật dậy, bỏ đi.
Có tiếng vạch cỏ và Eva nắm lấy tay anh. Cô nói, “Zhenya chơi cờ vua à?”
“Ừ.”
“Và rất giỏi?”
“Ừ.”
Anh nghe tiếng lẩm bẩm hài lòng vì đã đoán đúng.
“Anh đã không hỏi,” Eva lại nói.
“Hỏi gì?”
“Anh không hỏi khu vườn có bị nhiễm xạ không. Anh đã thực sự trở thành công dân của Khu vực cấm.”
“Thế là tốt hay xấu?”
“Tôi không biết.”
“Với cô,” anh lại hỏi, “là tốt hay xấu?”
Cô duỗi các ngón tay anh ra và gối đầu lên đó. “Thảm họa. Tồi tệ nhất.”
Chuông điện thoại của Arkady lại reo vang lúc anh đang trở về thị trấn, anh liền đỗ lại bên đường cạnh hàng sồi để nghe điện. Là Victor gọi từ thư viện quốc gia ở Kiev. “Theo bách khoa toàn thư, Felix Mikhailovic Gerasimov, 1925 - 2002, Giám đốc Viện vật liệu chịu nhiệt độ cực cao, Matxcova, vân vân. Giành các giải thưởng quốc gia về vật lý, được kính trọng này nọ, đưa ra các lý thuyết và có bằng sáng chế về những thứ chả hiểu mô tê gì, nằm trong các hội đồng nhà nước khác nhau về mảng khoa học, kiểm soát nguyên tử quốc tế, hạt nhân dự phòng, cho dù là cái quỷ quái gì thì cũng quản lý chất thải về mặt giấy tờ. Một người toàn diện. Sao anh lại hứng thú với ông ta? Ông ta đã chết hai năm rồi.”
Arkady dựng chân chống xe. Tia nắng nhảy múa trong tán lá, trái ngược với thực tế đây là con đường chết và các ngôi nhà bị bỏ hoang.
“Nghe đồn vài chuyện. Có dính dáng gì đến Chernobyl không.”
Tiếng sách mở sột soạt. “Không nhiều. Nằm trong phái đoàn được cử đến sáu tháng sau thảm họa. Tôi cá là tất cả các nhà khoa học Nga đều được cử đến đó.”
“Có thông tin gì mang tính cá nhân không?”
Eva đã nói rằng anh và Alex Gerasimov có nhiều điểm chung hơn anh nghĩ. Anh nghi ngờ vài điều nhưng muốn chắc chắn hơn. Trong lúc nói chuyện anh bước tới bước lui giữa các ngôi nhà, mỗi cái đều đang trong tình trạng đổ nát. Một cửa sổ có đặt con búp bê. Anh cần một con ma. Hamlet có con ma tìm ra mọi thứ cho ông ta, sao anh lại không có chứ?
Victor nói, “Ở đây chỉ có sách khoa học và tập san, không có tạp chí cho người hâm mộ. Lyuba gọi cho tôi tối qua. Tôi kể cho cô ấy về cửa hàng đồ lót ở đây. Cô ấy bảo hãy mua bất kỳ cái gì tôi muốn. Tôi tự lựa chọn.”
“Tìm các thông tin về Chelyabinsk ấy.”
“Được, có một bài báo dịch từ tiếng Pháp về vụ nổ chất thải hạt nhân ở Chelyabinsk năm 1957. Đó là bí mật động trời nên nhà nước cực kỳ bảo mật nó. Chắc chắn lúc đó, Gerasimov vẫn còn trẻ nhưng ông ta được biết đến vì đã giúp đỡ làm sạch chúng. Tôi không nghĩ họ dọn dẹp được nhiều. Đây rồi, có thêm thông tin về tình trạng ô nhiễm hạt nhân ở các trung tâm kiểm tra Nova Zemlya. Lại là Gerasimov. Với tư cách một nhà lý thuyết học, ông ta đã viết ra những thứ kỳ quặc. Giải thưởng hòa bình cho một nghiên cứu quân sự. Rất sắc sảo. Đó là cách anh leo lên nấc thang học vấn. Dù sao Viện vật liệu chịu nhiệt độ cực cao là gì? Có thể tạo ra đầu đạn hạt nhân, cũng có thể chữa được ung thư.”
Cũng có thể xả nước nhiễm phóng xạ xuống sông Matxcova lúc các đường ống ở viện bị đóng băng; Arkady nhớ rằng Timofeyev đã từng thú nhận.
“Những sự kiện gần đây hơn,” Victor nói. “Các bài báo cắt ra. Tờ London Times chụp chân dung từ mười năm trước, Các nhà vật lý Nga trong cùng một gia đình: Viện sĩ hàn lâm Felix Gerasimov và con trai Alexander. Dòng dõi thiên tài, vân vân. Cuộc tranh luận thân mật giữa các thế hệ về tính an toàn của lò phản ứng. Được tìm thấy đã chết. Xin lỗi tôi đã giở sang mục khác. Theo bài viết từ Izvestya, Giám đốc Viện được phát hiện đã chết tại nhà riêng do tự tử. Bằng súng. Sức khỏe tốt nhưng tinh thần suy sụp sau cái chết của vợ sáu tháng trước. Bài cuối cùng, được ca ngợi trên Pravda. Đạt tới đỉnh cao trên mọi ngành khoa học của Xô Viết. Đề cập tới lý do khác để che đậy những vụ việc theo kiểu Chernobyl đã dần trở nên không còn vững chắc một khoảng thời gian dài trước khi vụ Chernobyl thực sự xảy ra, được bưng bít vì lý do an ninh. Còn đây là bài viết về người vợ. Cái chết bi thảm. Uống thuốc ngủ, sáu tháng trước khi chồng bà qua đời.”
Một gia đình có truyền thống tự tử, đó chính là mối liên kết giữa Alex và Arkady. Eva đã lập tức nhận ra sự giống nhau đáng mừng này.
“Ngày đăng trên Izvestya là ngày nào?”
“Mùng Hai tháng Năm. Ông ấy được tìm thấy vào ngày Quốc tế Lao động.”
Động não đi, Arkady tự nhủ. Một thời Felix Gerasimov là giám đốc được trọng vọng và ngưỡng mộ của một viện khoa học đến mức có thể kêu gọi vốn đủ để thành lập trung tâm nghiên cứu hạt nhân riêng ở giữa Matxcova, trung tâm này đứng vững không chỉ nhờ vào các công trình vật lý đột phá của ông mà còn vì ông luôn sẵn sàng tham gia vào các vấn đề hạt nhân mang tính thực tiễn này nọ (kiểm tra mức độ ô nhiễm lẫn các vụ nổ tự phát trong nội địa), đó là những dấu hiệu cho thấy một tham vọng chính trị khôn ngoan. Và rồi hệ thống chính trị sụp đổ. Đảng Cộng sản bị phá hủy từ bên trong như lò phản ứng số Bốn. Phá sản. Vị giám đốc đó cùng nhân viên (bao gồm cả thần đồng Ivanov và Timofeyev) buộc phải đi quanh viện với cái chăn quấn trên người và xả nước nóng* một cách bí mật. Thực tế, đó là sự tuột dốc quá sức chịu đựng trong một sự nghiệp.
“Arkady, anh còn ở đó không?”
“Còn. Gọi Petrovka…”
“Ở Matxcova hả?”
“Phải. Gọi trụ sở và tìm xem có báo cáo nào về nỗ lực tự tử của người con trai Alexander không.”
“Điều gì làm anh nghĩ chuyện đó có thể xảy ra?”
“Bởi vì sẽ có. Anh có biết anh ta đến chỗ nào ở Matxcova trong thời gian nghỉ làm không?”
“Xin lỗi. Tôi đã gọi điện tới các khách sạn lớn ở Matxcova với chi phí Bobby phải chịu. Chín khách sạn có cung cấp dịch vụ biên, phiên dịch, máy tính và fax. Nhưng chẳng chỗ nào cho thuê dịch vụ cả ngày lẫn đêm và chẳng cái nào thuê ai tên Alex Gerasimov cả. Một cách thẳng thắn và thành thật, cùng đường rồi. Lyuba cho là anh đang lợi dụng tôi.”
“Phải, đó là lý do tại sao anh ở Kiev, còn tôi thì phải ở Chernobyl. Có thông tin gì của Anton không?”
“Tôi đã ghi chú lại rồi.” Tiếng lục lọi giấy tờ vang lên. “Chết tiệt! Khốn kiếp! Chắc tôi phải gọi lại cho anh sau thôi.”
Victor thực sự không phù hợp với bầu không khí tĩnh lặng của thư viện, Arkady kết luận. Anh nhìn con búp bê trên bậu cửa sổ. Khuôn mặt nó đã bị bạc hết màu nhưng các đường nét và bộ tóc vàng cột đuôi ngựa vẫn còn nguyên vẹn, anh thoáng thấy một giá đặt toàn búp bê, như thể ngôi nhà đã được giao phó cho gia đình tí hon này. Cánh cửa dụ dỗ anh tới khung cửa và bầu không khí chìm trong bóng tối. Cánh tay búp bê bị lớp mạng nhện mỏng dính quấn quanh, anh gỡ ra và khi chuông điện thoại reo, anh gần như trông thấy vẻ ngại ngần của con búp bê ấy.
Arkady nghe điện, “Alo, Victor, tiếp tục đi.”
Một giọng khàn khàn vang lên, “Victor là ai.”
“Một người bạn,” Arkady đáp.
“Tôi cá là anh không có nhiều bạn. Tôi nghe kể anh đã tìm thấy một cái xác bị bắn ở hồ làm mát.”
Arkady bắt đầu lại, “Chào Karel.”
Bụi xoáy quanh con búp bê như nó đang thở.
“Tôi muốn nói chuyện với cậu về thi thể người Nga cậu tìm thấy. Chỉ thế thôi, không gì khác,” Arkady chờ đợi. Khoảng ngắt cũng lâu gần như khi nói chuyện với Zhenya.
“Tôi muốn anh để gia đình tôi yên.”
“Được, nhưng tôi phải nói chuyện với cậu.”
“Chúng ta đang nói đây.”
“Trực tiếp. Chỉ về người Nga ấy, đó là lý do duy nhất tôi phải ở đây, sau đó tôi sẽ về nhà.”
“Với người bạn Wayne Gretzky à?”
“Phải.”
Một trận ho rũ rượi, rồi tiếp tục, “Khi nghe thấy thế, tôi suýt chết vì cười.”
“Và tôi sẽ không làm phiền ông nội cùng chị gái cậu nữa, còn Dymtrus có thể lấy lại súng.”
Một hồi dài im lặng.
“Pripyat, trung tâm quảng trường chính, mười giờ đêm nay. Một mình.”
“Đồng ý,” Arkady nói, nhưng là với tiếng chuông điện thoại.
Lập tức tiếng Victor reo lên, “Thấy rồi, Anton tới hai sòng bạc bên sông.”
“Tại sao gã lại dành nhiều thời gian ở đây thế?”
“Tôi chịu. Galina mặc váy ngắn.”
“Thôi nào.” Arkady vẫn đang cố điều chỉnh tâm trạng từ cuộc gọi của Katanay.
“Này, tạ ơn Chúa là còn có cô nhân viên bé bỏng ấy, nếu không tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được Anton. Gã đón cô nàng hàng ngày sau giờ làm việc. Tới văn phòng như một quý ông thực thụ. Đưa cô ta tới cửa hàng trưng bày Porsches, nhà thờ và một nghĩa trang.”
“Nghĩa trang à?”
“Rất có uy tín. Nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ đều nằm ở đấy. Gã đặt cả đống hoa hồng trước một ngôi mộ. Sau này, tôi đã đến tận nơi. Chắc chắn, bia đá đề Obodovsky. Mẹ gã mất năm nay.”
“Tôi quan tâm về nơi sinh của gã. Anh thử tìm xem có tài liệu nào nói gã sống ở Pripyat không?”
“Bobby cũng ngày càng hứng thú với chuyện này.”
“Tuyệt vời. Anton có kinh doanh gì không?”
“Không phải chuyện tôi có thể biết.”
“Vậy tại sao gã quanh quẩn ở Kiev? Gã đang chờ đợi cái gì, chẳng lẽ để tới nghĩa trang và các cửa hàng trưng bày thôi sao?”
“Tôi không biết, nhưng anh nên xem những con Porsches này.”
“Có vẻ đó là một hạn chế.”
Một lính gác đã được đào tạo, mắt nhắm mắt mở ra hiệu cho Arkady đi qua cổng, xuống một đại lộ không có con Porsches nào mà chỉ có các xe chữa cháy xếp một bên, bên kia là xe tải quân sự. Rất ít khách du lịch tới bãi đậu này, ngoại trừ những người mua bán các bộ phận ô tô nhiễm xạ. Hàng hàng lớp lớp các loại xe khác nhau từ ô tô cho tới xe bọc thép, từ xe tăng tới xe ủi và sa lầy trong đống bùn là chiếc xe moóc kéo văn phòng di động của Bela, quản lý bãi xe.
Bela thường có rất ít khách tới thăm. Ông ta hào hứng mở bản đồ bãi xe ra và chia sẻ với Arkady những tiện nghi sinh hoạt trong văn phòng di động của mình: lò vi sóng, tủ lạnh nhỏ chứa đồ uống, ti vi màn hình phẳng và một chồng đĩa video. Ông ta đang bật một đĩa phim khiêu dâm, kiểu làm tình nhẹ nhàng trên nền nhạc êm ái.
Bela dùng tay cào tóc. Trong bộ đồ màu trắng cáu bẩn, ông ta trông như bông huệ tây đang bắt đầu thối rữa. Sợi dây chuyền vàng lẫn vào lớp lông ngực. Chiếc điện thoại di động dường như lúc nào cũng gắn vào tai ông ta.
“Tôi đang suy nghĩ nghiêm túc về chuyện nghỉ hưu. Công việc này đòi hỏi quá nhiều.”
“Đòi hỏi gì?”
“Nhu cầu. Khách hàng không thể chỉ đơn giản lái xe vào Khu vực cấm để mua các bộ phận ô tô. Đây không phải là nơi bày hàng.”
“Mặt khác, họ muốn được xem hàng trước khi mua. Vì thế tôi phải mang chúng đi.”
“Mang đi?”
“Trên xe tải của tôi. Tôi rất hiểu bọn nhóc ở trạm kiểm soát. Chúng cũng cần ăn. Mọi người đều cần ăn, đó là Nguyên tắc vàng.”
“Còn đại úy Marchenko?”
“Phải thừa nhận, anh ta là một cái gai đâm vào mông. Tuy nhiên, các nhà quản lý Khu vực cấm đã rất khôn ngoan khi cho tôi quyền quản lý bãi đậu xe mà đại úy không thể can thiệp, vì họ quá hiểu thực trạng hối lộ cùng tham nhũng trong lực lượng dân quân tự vệ. Đây là một quốc gia thu nhỏ và tôi chính là vua.”
“Và mỗi chiếc xe đều được miễn phí một máy đo phóng xạ à?”
“Đừng bao giờ đùa như thế. Anh nên tận hưởng những thứ xinh đẹp hơn của cuộc sống. Nhớ nhà hả?” Viên quản lý nhấc một cái đĩa có tựa đề Những cô em Matxcova. “Tôi có thể mở cho anh đĩa phim của Nga, Nhật, Mỹ. Lồng tiếng hoặc không, cũng chẳng khác biệt mấy. Anh là người đam mê thể thao à? Khúc côn cầu? Bóng đá?” Một chồng đĩa nữa. “Phim cổ điển, hoạt hình, lịch sử tự nhiên. Bất cứ thể loại nào anh thích. Tôi sẽ bóc một hộp bánh quy, rót vài ly rượu và chúng ta có thể cùng thư giãn.” Viên quản lý xử sự cứ như họ đang kết thúc một ngày trên hòn đảo nhiệt đới vậy.
“Thực ra tôi có mang theo một cuốn.” Arkady lấy cuốn băng của Vanko ra.
“Không tựa đề. Thể loại hành động nghiệp dư à? Tình ái lăng nhăng? Hay máy quay theo dõi.”
“Không hiểu sao tôi nghi ngờ điều đó.”
“Nhưng thật sao?”
Bela háo hức cho cuốn băng vào máy. Lúc xem nó, khuôn mặt viên quản lý bãi xe đầu tiên là ngạc nhiên, rồi thất vọng cay đắng, như thể vốc đường ông ta nhét vào miệng hóa ra lại là muối.
Chó Sói Cắn Chó Nhà Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith Chó Sói Cắn Chó Nhà