Hầu hết những thành quả quan trọng trên đời đều được tạo ra bởi những người dù chẳng còn chút hy vọng nào nhưng vẫn kiên trì theo đuổi điều mình mong ước.

Dale Carnegie

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Việt Sỹ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 24
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 20
Cập nhật: 2020-10-08 21:15:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
ưng Đạo vương biết chắc là thế nào quân Nguyên Mông sẽ còn kéo sang đánh báo thù. Người ra lệnh các đạo quân phải bổ sung quân lính bị thương tật hoặc đã hy sinh. Ngũ Lão hiến một kế với Quốc công Tiết chế:
- Trong thiên hạ vẫn không thiếu gì người tài! Cha nên mở hội thi võ ở Giảng võ đường. Biết đâu chả kiếm được hào kiệt.
Hưng Đạo vương lấy làm tâm đắc lắm. Mùa thu, tháng Tám năm 1285, Người mở hội thi võ trong ba ngày. Cũng kén được vài chục viên tướng vào hạng dụng được. Nhưng người kiệt xuất thì không thấy.
Đến sáng ngày thứ ba, ở cổng có loa báo vào:
- Có đề hạt ở phủ tri châu vùng Tây Bắc là Nguyễn Chế Nghĩa xin vào ứng thí!
Tiếng loa từ bên trong Giảng võ đường phát ra:
- Xin mời đề hạt Nguyễn Chế Nghĩa vào ứng thí.
Đó là chàng trai trẻ, dáng người mảnh khảnh, mặc quần áo chàm. Vai đeo túi thổ cẩm, thúc vào một chú ngựa miền núi không cao lớn lắm. Vừa lúc đó trên bầu trời, có đàn vịt trời bay qua, buông tiếng kêu. Chàng trai trẻ bèn lấy cung, với tên ở sau lưng bắn liền ba phát. Ba con vịt trời rơi bịch xuống. Con nào cũng bị tên xuyên qua cổ.
Quân lính vội lượm lên trình Quốc công Tiết chế. Người lấy làm hài lòng lắm, hỏi tiếp:
- Về thương pháp của ngươi thế nào?
- Dạ! Khởi bẩm Quốc công Tiết chế. Thảo dân cũng không biết nói thế nào? Có ai ra tỉ thí với thảo dân độ dăm bảy chục hiệp thì… Quốc công Tiết chế mới rõ được ạ!
Hưng Đạo Vương hỏi:
- Ai muốn ra thi võ với Nguyễn Chế Nghĩa?
Không ai trả lời. Người muốn trêu đùa Khánh Dư nên quay sang bảo.
- Tướng thủy quân thử ra so tài với Chế Nghĩa xem sao?
- Như ta đây là Nhân Huệ vương đô tướng trấn thủ ở một vùng quan ải trọng yếu nhất nước, lại đi so tài với một tên “Thổ mừ” sao?
- Sao ngươi khinh người quá đáng như vậy? - Hưng Đạo vương trách. - Trước đây ngươi cũng đã xúc phạm Ngũ Lão. Nay Ngũ Lão một bước lên tước hầu, chẳng phải là bài học nhỡn tiền đó sao?
- Ta có là kẻ đốt than đi chăng nữa cũng là quý tộc. Còn Ngũ Lão dù có là Hổ hầu hay gì gì đi nữa thì vẫn là tên nhà quê đan sọt mà thôi. - Khánh Dư cũng không vừa.
- Ngươi là người văn võ toàn tài. Nhưng không thấu hiểu câu ca dao:
“Con vua thì lại làm vua,
Con sãi nhà chùa đi quét lá đa.
Bao giờ trời nổi can qua,
Con vua thất thế lại ra quét chùa”
đó sao? Mới gần đây thôi cha ông chúng ta cũng chỉ là các ngư phủ tầm thường. Thời thế tạo anh hùng, ngươi mới trở thành quý tộc. Ngươi phải nên hiểu rằng “Chở thuyền cũng là dân. Mà lật thuyền cũng là dân” - Hưng Đạo vương giải thích một thôi một hồi.
- Vị vương gia kia không phải là coi thường thảo dân. - Nguyễn Chế Nghĩa cũng không vừa, chỉ lên võ đài nói - Mà sợ không địch nổi ngọn giáo này!
Trần Khánh Dư tức sùi bọt mép quát:
- Thằng “Thổ mừ oắt con” kia! Rồi có ngày ta xé xác ngươi ra cho quạ rỉa. - Nói rồi hầm hầm bỏ võ đài bước xuống, quát giám mã dắt con bạch mã ra. Hưng Đạo vương ngạc nhiên hỏi lại Chế Nghĩa:
- Ngươi đã giao đấu với Nhân Huệ vương hồi nào?
- Dạ! Bẩm, chưa lâu. Mới cách đây chừng nửa tháng. Vị vương đó vi phạm luật. Săn thú trong mùa sinh sản. Thảo dân theo trách nhiệm ra yêu cầu thì suýt bị vị vương đó chém mất đầu. May mà thảo dân có chút bản lĩnh mới giao đấu với vị vương đó năm bẩy chục hiệp, bất phân thắng bại ạ!
Hưng Đạo vương vô cùng ngạc nhiên hỏi lại:
- Ngươi không nhớ nhầm đấy chứ?
- Dạ! Bẩm vị vương đó chân dài có đường gươm tuyệt luân, thiên hạ ít người địch nổi ạ!
- Vậy bây giờ ngươi có dám so tài với Phạm Ngũ Lão vài chục hiệp chăng? - Hưng Đạo vương hỏi tiếp.
- Khởi bẩm Quốc công Tiết chế Ngũ Lão là Hổ hầu, e rằng thảo dân chỉ cự được dăm ba chục hiệp là cùng thôi.
- Được! Cứ thử cho bản vương xem bản lĩnh và thương pháp của người ra sao, để còn có cơ sở mà bổ nhiệm. Đao thương vô tình. Bởi thế trước lúc giao đấu mũi giáo của Chế Nghĩa đã được bịt gỗ lại. Còn Ngũ Lão chỉ được dùng sống đao.
- Tiền chủ hậu khách. Xin mời Hổ hầu hiền huynh ra đao trước. - Chế Nghĩa nói.
- Ta lại muốn nhường đệ trước ba thương. - Ngũ Lão đáp.
- Vậy thì đệ không khách khí nữa! - Vừa dứt lời Chế Nghĩa đã phóng thẳng mũi thương vào ngực Ngũ Lão. Ngũ Lão vừa né tránh thì mũi giáo lại như con mãng xà phóng thẳng vào yết hầu, nhanh như chớp. Ngũ Lão vẫn không đưa đao lên đỡ, mà né người qua một bên. Lập tức mũi thương lộn xuống, nhằm trúng bụng mà trổ tới. Đó đã là thương thứ ba rồi nên Ngũ Lão đưa đao ra gạt. Nhưng Chế Nghĩa đã thu thương lại rất nhanh, đâm ngược lên. Ngũ Lão biết là gặp phải tay không vừa nên bắt đầu trổ đến oai, vừa đón đỡ, vừa vung đao đánh trả. Chế Nghĩa không hề nao núng, ăn miếng trả miếng rất nhanh. Hưng Đạo vương trên võ đài vỗ tay cổ vũ cho Chế Nghĩa và hô lớn:
- Thương pháp của người này không kém gì thương pháp của Trần Bình Trọng năm xưa.
Được ngoài ba mươi hiệp Ngũ Lão trổ thần oai, Chế Nghĩa khôn ngoan không đưa thương ra đón đỡ, mà luôn né tránh rồi nhằm các khe hở ở nách, ở bụng phóng giáo tới. Tuy nhiên cũng chỉ được hai chục hiệp nữa, Chế Nghĩa bắt đầu thở gấp, Hưng Đạo vương ra lệnh khua chiêng dừng trận đấu.
- Thương pháp của đệ lạ lắm! - Phạm Ngũ Lão khen.
- Thần oai của huynh quả thật đệ không trụ nổi. - Chế Nghĩa thật thà đáp lại.
- Nhưng tài thần tiễn của đệ thì thiên hạ vô địch!
- Cũng không thể so với gân sức của huynh được. Một nửa ba trăm bước thì tên của đệ đã không bắn với tới được. Ấy vậy mà ba trăm bước, huynh vẫn bắn xuyên qua gáy Toa Đô thì chẳng khác nào Hậu Nghệ bắn mặt trời khi xưa.
Tất cả đều cười vang. Hưng Đạo vương phán:
- Nguyễn Chế Nghĩa! Ta phong cho ngươi chức Đô úy, người có nhận không?
- Dạ! Khởi bẩm Quốc công Tiết chế! Chế Nghĩa tham gia giết giặc Nguyên Mông đâu có vì chức tước, lợi lộc.
- Được nếu vậy thì ba ngày nữa, ngươi theo Phạm Ngũ Lão về Vạn Kiếp, để Ngũ Lão truyền bảo quân phong, quân kỷ cho ngươi. Còn các tướng - Hưng Đạo vương nói tiếp - Sau ba ngày dạo chơi ở kinh thành, ai về vị trí đó, thao luyện binh sĩ, chuẩn bị đón đánh quân Nguyên Mông sang báo thù.
Tất cả tướng sĩ dạ ran…
Phạm Ngũ Lão rủ Nguyễn Khoái cùng Nguyễn Chế Nghĩa dạo chơi khắp kinh thành. Ngũ Lão và Nguyễn Khoái đánh quần nâu áo vải của người thợ cầy, còn Chế Nghĩa thì vận áo chàm, vai đeo túi thổ cẩm. Cả ba la cà khắp phố xá kinh kỳ. Lúc cuốc bộ, lúc lên thuyền dạo khắp ngõ ngách của phố phường. Gần xẩm tối, Nguyễn Khoái nói:
- Đi đã hoa mắt! Rạc cẳng rồi! Phải vào quán nào kiếm chén rượu, không khát khô cả họng đây này!
Ngũ Lão cười lớn nói với Chế Nghĩa:
- Hiền huynh không thích gì ngoài rượu đâu! Thôi bây giờ ta thuê thuyền lên thẳng Hồ Tây. Trên đó có quán bán nguyệt có món rượu ngâm chân sâm cầm và cá chép vây vàng, khắp nước không đâu sánh bằng.
Trời vừa sập tối thì ba vị khách ngồ ngộ bước vào quán. Quán có hai tầng. Tầng một là hầm để rượu. Tầng hai hình bán nguyệt vươn hẳn ra mặt nước. Chủ quán là một người đàn ông đã đứng tuổi vẻ thờ ơ hỏi:
- Các vị cần gì?
- Chúng ta muốn thuê cả quán tối nay - Ngũ Lão nói.
- Giá cao lắm! - Các vị có chịu nổi không?
- Cao là bao nhiêu? - Ngũ Lão hỏi - Tính bằng tiền hay bằng ngân lượng?
- Tiền hay ngân lượng đều được cả. Nhưng rất đắt.
- Một túi vàng cốm này có được chăng? - Chế Nghĩa lôi từ túi thổ cẩm ra một túi cát mầu vàng, nặng chừng một cân.
Chủ quán vốc ra xem, thấy các hạt kim loại sáng ánh thì bán tín, bán nghi bảo:
- Nếu các vị có tiền thì tốt.
- Được. Có ngay! Năm mươi quan có đủ không? - Ngũ Lão nói.
- Xin quý vị đặt trước.
Ngũ Lão móc trong túi áo nâu ra năm mươi quan tiền mới cứng đặt vào tay chủ quán, không quên nói thêm:
- Chúng ta thuê cả quán tối nay đấy nhé! Thiếu bao nhiêu, chúng ta bù thêm.
- Dạ! Cũng tạm đủ ạ! Có thiếu thì cũng in ít thôi. Khoảng một hai chục nữa là cùng.
Ba người đặt đít xuống thẳng sàn gỗ cẩm lai sặc sỡ sắc mầu như tranh vẽ. Nguyễn Khoái đã quát chủ quán đem rượu ra:
- Mang ra vài vò trước! Các món ăn tính sau. Uống đến hết đêm cơ mà.
- Dạ, vâng! Có ngay! Có ngay!
Một đứa trẻ chừng mười bốn, mười lăm bưng ra một vò sành, to gần bằng thùng gánh nước và ba chiếc bát sứ. Nguyễn Khoái tranh lấy rót ra và hít hà khen rượu ngon và nặng, cắm tăm được.
- Mời hai hiền huynh - Chế Nghĩa bưng bát rượu lên ngang mặt nói.
- Mời mọc mẹ gì! Cứ uống đi! - Nguyễn Khoái vừa nói vừa uống hết veo bát thứ nhất, rồi lại tự rót ngay tắp lự cho mình bát thứ hai.
Phạm Ngũ Lão vừa nâng bát lên miệng thì phía cửa ngoài có tiếng ồn ào. Rồi chủ quán mặt tái mét bước vào, lắp bắp thưa:
- Dạ! Dạ! Xin ba vị thứ lỗi cho, đi quán khác. Có cháu Nhân Huệ vương và đồng bọn đòi vào… Chúng nói các vị không đi thì chúng đốt quán. Dạ! Chúng không dọa suông đâu! Chúng nói là làm đấy!
- Cái gì cũng phải có tôn ti trật tự. Ai đến trước thì thuê trước. Ngoài ra còn có vương pháp nữa chứ? Đốt là đốt thế nào? - Ngũ Lão vặc lại.
- Dạ! Bọn này cậy quyền. Cậy tiền, cậy thế không gì là chúng không dám làm đâu ạ! Quán mới mở lại. Mấy tháng trước đây, thi thoảng Ô Mã Nhi có đưa mấy cô đầm nhí Tiểu Nga-la-tư đến ăn uống phè phỡn. Có ghi sổ đến cả chục lần mà đã thanh toán được đồng nào đâu? Nay bọn này mà đốt quán thì gia đình tôi chết đói hết.
- Có chúng ta ở đây, ông không phải lo. Nếu chúng dám đốt thật thì ta đền cho ông cái sừng tê giác đen này. - Nguyễn Chế Nghĩa vừa nói vừa rút ra từ trong túi thổ cẩm một chiếc sừng cong, đen bóng đặt xuống sàn. - Nó không chỉ giá vài ngàn lượng vàng mà có thể đổi được một tước quan đấy! Đây là của gia bảo của ông cha ta để lại.
Ở ngoài tiếng ồn ào càng nổi lên dữ dội. Đã có vài ba khuôn mặt non choẹt nhưng trông dữ dằn và ngông ngạo thò vào. Một tên quát lớn:
- Bọn mi cút ra khỏi quán ngay! Chúng mày đừng làm bẩn chỗ ăn chơi của các ông chúng mày đây!
Nguyễn Khoái vừa tợp xong bát rượu thứ ba thì đùng đùng nổi giận, gầm lên một tiếng và đứng bật dậy. Ngũ Lão biết nếu để Nguyễn Khoái lao ra ắt phải có vài ba án mạng.
- Hiền huynh cứ ngồi xuống và uống tiếp đi! Đệ để ta khu xử với bọn chúng - Ngũ Lão nói.
Vừa thấy cái bóng to lớn xù xì trong bộ quần áo nâu của thợ cầy thì tất cả nhao nhao lên:
- Thằng nhà quê cút đi! Trả quán cho các bố mày!
Ngũ Lão vẫn điềm tĩnh đáp:
- Quán này chúng ta đã trả tiền thuê trọn tối nay rồi! Nếu cần các em đi quán khác.
- Đồ nhà quê! Ai là em của chúng mày hả? - Sau câu “hả” là một trận mưa gậy đập xuống đầu, xuống vai Ngũ Lão. Ngũ Lão gồng người cho chúng đập chán tay, gãy gậy mới thủng thẳng đáp:
- Thế nào? Đã đủ hả giận chưa? Bây giờ đi tìm chỗ khác được rồi chứ?
Thấy người Ngũ Lão như tượng đồng thau, cũng đã có tên thấy chờn chờn. Nhưng tên cầm đầu, đứng ở phía xa, chênh chếch với Ngũ Lão đôi chút thì tỏ ra chưa chịu, quyết muốn “ăn thua” một chuyến. Nghĩ rồi, hắn lặng lẽ lấy cung, rút tên nhằm vào giữa bộ ngực vâm váp của Ngũ Lão bắn thẳng vào một phát. Nghe tiếng tên ra đánh “tách”, Ngũ Lão vội né người, thuận tay bắn được mũi tên. Rồi không nén nổi giận, Ngũ Lão nhằm về hướng đứa vừa bắn, nhằm vào vai trái phóng mũi tên đến.
Thằng khốn: “Ối!” lên một tiếng ôm lấy vai chạy bổ ra đường, kêu ầm ĩ:
- Ôi có kẻ giết người! Có bọn cướp giết người!
Bọn đàn em cũng chạy xuống theo và cùng đồng thanh la. Có ánh đuốc lớn tiến đến cùng đội quân Thánh dực do phó tướng Đỗ Hành đi tuần thấy chuyện huyên náo thì vội chạy đến. Thấy mũi tên còn cắm trên vai đứa cháu gọi Nhân Huệ vương là cậu ruột thì Đỗ Hành vội lao lên quán. Nhưng rồi Đỗ Hành không ngờ thốt lên:
- Hai vị Hổ hầu và tân Đô úy! Sao lại ngồi đây và ăn vận thế này!
- Chả lẽ chúng ta không có quyền ngồi đây và ăn vận thế này sao? - Ngũ Lão vặc lại.
- Hổ hầu hiểu lầm ý tôi rồi! Ý tôi muốn nói là các vị ăn mặc như thế khiến bọn con cháu nhà quý tộc hiểu lầm nên tỏ ra hỗn láo. Để tôi ra bảo và đuổi chúng nó đi!
Nói rồi Đỗ Hành phăm phăm chạy xuống. Một tay đặt ở đốc đao, tay kia chỉ vào mặt mấy thằng mất dạy:
- Chúng mày có biết là đang vuốt râu hùm không? Ba vị trên kia đâu phải là hai thằng nhà quê. Đó là Hổ hầu Nguyễn Khoái, Hổ hầu Phạm Ngũ Lão và tân Đô úy Nguyễn Chế Nghĩa đó. Cút ngay, không tao cho lính bắt giam chúng mày lại bây giờ.
- À, ông nhớ lấy nhé! Để rồi tôi sẽ báo với cậu tôi. Ông dám dùng quân Thánh dực vào hùa với bọn nhà quê để bắt nạt con em quý tộc! Ông đừng có mà hối, mà chối đấy!
Mặc dù vai còn đau nhức nhưng thằng mất dạy vẫn già họng đe dọa. Sau khi ra vẻ cứng, chúng vội vàng kéo nhau chạy về phủ Nhân Huệ vương.
Lúc này Trần Khánh Dư đang “chén tạc, chén thù” với Đỗ Khắc Chung cùng các “chiến hữu” trong phe cánh và một lũ người đẹp đến mê hồn. Thằng cháu ôm cánh tay chạy vào, khóc rống lên:
- Cậu ơi! Hãy báo thù cho cháu!
- Đứa nào dám bắn tên vào vai mày thế này! Để tao lột xác hắn ra. - Trần Khánh Dư gầm lên.
- Dạ! Thưa cậu thằng đan sọt và thằng nhà quê Nguyễn Khoái, cùng thằng Thổ mừ Nguyễn Chế Nghĩa. Chúng nó chiếm quán gió bên hồ Tây của chúng cháu. Chúng cháu đòi lại thì bị chúng hành hung ạ!
Đang nổi giận phừng, tưởng có thể xông ra xé xác kẻ đã dám “mạo phạm” tới cháu mình, đột nhiên, rất đột nhiên Trần Khánh Dư đổi giọng, rít qua kẽ răng:
- Mày là đồ ngu! Mày có biết bây giờ là thời thế nào không? Là thời thế phải chống giặc Hồ. Bởi thế phải cần đến cái “cổ cày, vai bừa” cái “vai u, thịt bắp” của bọn nhà quê. Mày hiểu chưa? Chỉ một mình giới quý tộc chúng ta thì làm sao chống được giặc. Hãy đợi đấy! Vài năm nữa yên hàn trở lại, lúc đó bọn nhà quê kia hết thời, mới đè đầu cưỡi cổ, trừng trị chúng nó được… May mà nó chỉ phóng tên vào vai mày! Chứ có phóng xuyên qua cổ họng mày thì lúc này cậu chỉ có mà “biết khóc đưa mày ra đồng” chôn thôi!…
Trở lại chuyện Đỗ Hành trở vào quán, hỉ hả nói với ba người:
- Tôi đuổi chúng nó đi rồi!
Rồi gọi chủ quán đến giới thiệu các vị thực khách, rồi không quên nói thêm:
- Hôm nay ông có mang hết cả mấy vò rượu chân sâm cầm cùng các món ăn ngon nhất ra đây, đãi ba vị này, không lấy tiền cũng là phúc lớn được gặp một lần trong đời đó.
Người chủ quán: “Dạ! Dạ!” liên hồi.
Ngũ Lão mời Đỗ Hành cùng ngồi uống cho vui. Nhưng vừa bưng bát rượu lên, Đỗ Hành đã hắt ra sau và quát lớn:
- Không bê hết các vò chân sâm cầm ra đây, ta cho lính phá quán bây giờ.
Mới uống được một tuần, Đỗ Hành đã cáo từ:
- Xin mời hai vị Hổ hầu và tân Đô úy cứ ăn uống suốt đêm. Tôi còn phải thúc quân đi tuần. Kinh thành mới giải phóng, cũng có nhiều chuyện cần giải quyết lắm.
Đứng lên Đỗ Hành gọi chủ quán ra một góc, dúi vào túi áo ông ta một trăm đồng và nói nhỏ:
- Nhớ hầu hạ ba vị thượng khách cho chu đáo. Sáng mai, tôi quay lại, thừa thiếu thế nào sẽ thanh toán sau.
Đỗ Hành đi rồi, thái độ của chủ quán tỏ ra kính cẩn hơn hẳn. Ngoài mấy vò rượu chân sâm cầm, ông ta giới thiệu một loạt đặc sản của hồ Tây và bảo:
- Nếu chưa vào quán gió, chưa ăn các món này với rượu sâm cầm thì coi như chưa tới kinh thành Thăng Long.
Rồi ông ta bắt đầu kể về những ngày được tiếp (và phải tiếp) Ô Mã Nhi như thế nào.
- Lần đầu tiên trông thấy hắn tôi đã giật nẩy mình tưởng là quái vật bước vào quán, với chiếc áo lông cừu to trùm từ đầu đến chân. Chả là lúc đó vào giữa mùa đông mà. Khi “chiếc chăn” lông cừu được vứt xuống sàn, chiếc bụng trắng hếu to như chiếc trống cái hiện ra, rồi mới đến hai cặp vú chảy sệ như vú bò sữa. Khuôn mặt tròn trĩnh với cặp mắt sắc, cái miệng với hai hàm răng khỏe lúc nào cũng cười cười. Theo sát hắn là một lũ “hồ li tinh” mắt xanh, mũi lõ, da trắng, tóc vàng vận áo bành tô bằng lông cáo đỏ, nhẹ và ấm. Khi những chiếc áo bành tô được trút ra, chao ôi là nhưng cặp đùi trắng ngần, dài đến sát bẹn làm lóa cả mắt. Cái món mà Ô Mã Nhi thích nhất là kiếm cho hắn một con ba ba to bằng cái mâm đồng lớn. Cắt ra chừng hai lít tiết hòa vào rượu để hắn uống. Lũ con gái tiểu Nga-la-tư thì chỉ nốc rượu trắng, chứ rất sợ món tiết ba ba. Rượu vào. Ô Mã Nhi ôm lấy cây đàn Balalaica, gần giống như chiếc đàn đáy của ta, dạo mấy nốt, rồi bất ngờ chơi một bản nhạc rất bốc. Thi thoảng lại vỗ tay vào hộp đàn. Lũ tiểu yêu vây quanh múa như điên, như cuồng, những chiếc váy xoay tròn ra, để lộ rõ những chiếc quần lót bé tẹo, mỏng dính màu trắng muốt. Cả tôi và lũ hầu bếp cứ trố mắt ra nhìn Ô Mã Nhi với đôi chân vòng kiềng do đi ngựa từ nhỏ to như hai cột đình, ấy vậy mà nhảy rất khéo và dẻo mới lạ chứ. Mấy lần sau đã hơi quen quen Ô Mã Nhi còn bắt nhảy cùng. Chúng tôi xéo vào chân lũ Tiểu Nga-la-tư kêu đau oai oái.
Sau chầu rượu là tới bữa ăn. Ô Mã Nhi khoái khẩu nhất là món ba ba nấu ốc, đậu phụ, thịt ba chỉ và chuối xanh. Còn lũ con gái Tiểu Nga-la-tư thì thích món cá chép vẩy vàng om dưa, chấm với bún. Khi đã no say rồi Ô Mã Nhi nằm ườn ra sàn, lũ con gái Tiểu Nga chèo lên người lão, đùa nhau chí chóe, lúc trồi lên lúc tụt xuống như đàn lợn bột, tranh nhau bú tí con lợn nái. Không bao giờ chúng ân ái với nhau ở trong quán. Hình như hắn chờ đến lúc trở về lều. Thoát Hoan thì ngủ trong cung điện. Còn Ô Mã Nhi và lũ con gái Tiểu Nga thì chỉ ngủ ngoài lều da dê, dưới lót đệm lông cừu. Hắn vào quán hơn mười lần, mà chưa thanh toán được lần nào. Sau mỗi lần hắn bảo đưa quyển sổ nợ ra, vẽ vào đó một con ó lớn, ngồi trên lưng một con ngựa nhỏ. Nghe nói sau trận Chương Dương hắn một mình một thuyền trốn ra biển và làm mồi cho cá mập rồi thì phải. Thôi thế cũng là thoát một cái nợ.
- Hắn chưa chết đâu! - Nguyễn Khoái lè nhè đáp - Nghe thám mã từ Liễn Châu báo về, hắn vẫn còn sống nhăn răng và thề sẽ sang đánh báo thù.
- Ôi! Thế thì quán tôi lại đến sập tiệm với hắn.
- Ông khỏi lo! - Phạm Ngũ Lão vừa cười vừa trỏ vào Nguyễn Khoái - ông cứ đãi ông này một chầu say túy lúy vào, ông ta sẽ đuổi Ô Mã Nhi không cho vào kinh thành.
- Đúng! Lần này hắn có sang, chắc chắn là ta và đệ sẽ phải “làm lông” hắn. - Nguyễn Khoái cười đáp.
- Nếu quả đúng như thế thì tối nay, tôi sẽ không lấy tiền các vị.
- Việc đuổi hắn, thậm chí là “làm lông” hắn như hiền huynh ta nói là việc của triều đình giao cho chúng ta. Còn việc chúng ăn uống ở đây thì phải trả tiền sòng phẳng.
- À, vừa rồi vị khách - lão chủ quán định gọi Nguyễn Chế Nghĩa là “Thổ mừ”, may chữa lại thành -… trẻ tuổi có khoe chiếc sừng tê giác gia truyền. Bây giờ có thể cho tôi ngó qua một tí được chăng?
- Được chứ! - Nói rồi Nguyễn Chế Nghĩa thò tay lấy ở chiếc túi thổ cẩm vẫn đeo trên nách trái ra một chiếc sừng gốc to như gốc măng, nhưng không mọc thẳng, mà đến nửa chừng thì bẻ cong cong xuống, rồi chàng giải thích. - Đây là sừng con tê giác già đến bẩy mươi năm. Thường loài tê giác chỉ sống được khoảng trên dưới sáu chục năm. Sừng tê tốt phải là sừng của con bốn chục tuổi trở lên.
- Công dụng thế nào mà các vị vua chúa “tôn sùng” nó thế?
Viên chủ quán hiếu kỳ hỏi.
- À, thực ra công dụng của nó cũng thường thôi! Chủ yếu là do đồn thổi mà nên. Tuy nhiên đầu tiên, công dụng của nó là sát độc. Trước khi con tê giác uống nước nó thường lấy sừng thả xuống, ngoáy một lúc cho nước tiêu các tạp chất bẩn hoặc các loại lá độc như lá han, lá lim, rồi mới uống. Công dụng thứ hai chữa mụn nhọt sốt cao. Chỉ cần mài ra một chút nước trắng như nước vo gạo, trẻ con mụn nhọt hoặc sốt cao uống vào là khỏi liền… Còn các vua chúa thì đồn rằng, mài sừng tê ra uống hàng ngày có thể ân ái với cả chục mỹ nhân một đêm mà không hề mệt mỏi. Bởi thế các triều đình phong kiến phương Bắc thường bắt ta phải cống sừng tê cho bọn họ.
- À, ra thế! Hèn nào mà Ô Mã Nhi có cả một tá cô đầm non Tiểu Nga, mà vẫn khỏe như vâm…
- Ấy là chuyện đồn thổi thôi! - Nguyễn Chế Nghĩa giải thích tiếp.
- Đệ chỉ cần dâng chiếc sừng tê này cho hai Thánh thượng là lập tức được phong quan tước liền - Phạm Ngũ Lão nhắc lại lời nói khi mới vào quán.
- Thánh thượng dùng làm gì? - Nguyễn Chế Nghĩa hỏi lại.
- À, một là để dùng… Hai là để làm cống phẩm. Dù thế nào thì… dù ta có thắng Nguyên Mông cả chục lần đi nữa thì muốn “quốc thái dân an” hàng năm vẫn phải triều cống cho họ. Mà Hốt Tất Liệt trông thấy chiếc sừng tê này của đệ, chắc là mắt phải sáng lên. Nghe nói thời Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, mang về bao nhiêu là đồ quý hiếm. Ấy vậy mà vua Hán Quang Vũ đem vứt hết cho thủ hạ chỉ giữ lại độc chiếc sừng tê mà thôi… Bởi vậy, đệ phải giữ cho khéo, không dễ bị mất trộm lắm đấy, nhất là đất kinh kỳ này…
- Thôi để ngày mai, đệ nộp cho Quốc công Tiết chế!
- Phải! Đúng đấy! Để Quốc công Tiết chế sung vào kho báu vật quốc gia.
- Nhưng đệ không nhận quan tước đâu nhé! Làm trai phải lập công danh ở nơi chiến trường, chứ dựa vào cái sừng tê thì… hèn quá.
- Đúng! Đệ nghĩ như vậy là phải. - Ngũ Lão nói.
- Nghĩ gì? Phải gì? Uống đi! uống đi lúc này mới là phải - Nguyễn Khoái lè nhè đế vào.
Phạm Ngũ Lão ra hiệu cho Nguyễn Chế Nghĩa đừng để ý gì đến lời nói của Nguyễn Khoái, rồi tỉ tê hỏi:
- Thế đệ kể lại trận tao ngộ với Trần Khánh Dư nửa tháng trước đây xem thế nào?
- Vâng! Đấy là trận đấu sinh tử lần đầu đệ giáp mặt. Nếu bản lĩnh kém một ly, một lai thì bữa nay đã không được hầu rượu hai huynh rồi!
Bưng bát rượu chân sâm cầm lên tợp một ngụm, và gắp một cái chân ba ba, định đút vào miệng, nghĩ thế nào, Nguyễn Chế Nghĩa lại đặt vào lòng bát, và trầm ngâm nhớ lại. - Khi đó đệ đi tuần rừng theo lệnh của quan tri châu. Vì mùa thu là mùa sinh sản của thú rừng, cấm săn bắn. Ấy vậy mà ở góc rừng đó, tiếng chó săn sủa, cùng nhiều tiếng huyên náo suốt từ sáng sớm. Khi đệ vào đến cửa rừng cũng là lúc đoàn người đi săn đi ra. Đi đầu là một vị cưỡi ngựa trắng, đội mũ có cắm lông công, trên vai nghễu nghện một con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp to hơn con ngỗng lớn. “Ai cho các người vào săn vào mùa này?” - Đệ hỏi. Đáp lại không phải là tiếng trả lời, mà nhanh như chớp một nhát trường kiếm ngang người đệ. Như người khác chắc chắn là mất mạng rồi. Đệ phải nằm ngửa hết cỡ, lưng sát xuống lưng ngựa, nhưng vẫn cảm thấy hơi lạnh của đường gươm lướt qua mặt. Theo phản xạ, đệ thò tay rút cây thương gài dọc theo thân ngựa. Vừa nhô người lên thì nhận ngay đường gươm chém vật lại. Đệ đưa thương lên gạt. Đường gươm quá mạnh khiến người đệ chúi xuống. Biết là gặp phải cao thủ, đệ giật ngựa lùi lại và trổ thần oai ra đánh trả. Đường thương của đệ khi lên, khi xuống lấp lánh như ánh hoa lê bay trước mặt đối phương. Lúc vờ lộn ra sau, nhưng ngay tức thì xỉa thẳng vào mặt. Có lúc đệ xỉa ngọn thương vào hai bên nách khiến đối phương phải giật ngựa tránh liên hồi… Nhưng đường gươm của đối phương cũng thật uyển chuyển và dũng mãnh. Khi vừa nhằm vào cổ chém xuống, đệ vừa tránh được lập tức lật cánh chém ngược bên mang tai. Đệ càng đánh càng hăng vì lâu lắm không được gặp đối thủ ngang tầm, ngang sức. Quần nhau chừng ngoài năm chục hiệp đối thủ có phần hơi núng, bèn giật ngựa lùi lại và bảo:
- Ngươi là ai mà thương pháp không kém gì Trần Bình Trọng năm xưa?
- Ta là đề hạt ở vùng này! Được lệnh của tri châu đi bắt những kẻ săn trộm như ngươi!
- Không được vô lễ! Đến tri châu của người trông thấy ta ở đây, cũng phải quỳ mọp dưới chân con bạch mã này!
- Vậy thì ngươi là ai?
- Là ai thì ngươi sẽ biết sau! Ta chỉ có một yêu cầu thế này: nếu ngươi về làm thuộc hạ cho ta thì rượu ngon, gái đẹp… Sơn hào hải vị… Tiền, vàng… Sẽ không thiếu thứ gì!
- Về làm thuộc hạ cho ngươi ư? Không bao giờ. Mà ngươi có nằm mơ chuyện đó cũng không xẩy ra… Nhưng sắp tới ta sẽ về kinh, ứng thí làm lính cho Quốc công Tiết chế để phá giặc Nguyên Mông.
- Được! Không uống rượu mời thì… phải uống rượu phạt! Bay đâu. - Hắn ta chỉ huy bọn lâu la chừng dăm chục đứa. - Hãy cùng ta bắt sống thằng này lại! Không bắt được thì giết! Không tha!
Đệ liếc mắt nhìn lên cây dẻ gai ở bìa rừng, trên đó lũ sóc đang chuyền từ cành này sang cành kia, nhằn quả. Thương thay cho chúng nó phải làm vật hy sinh. Đệ bèn lấy cung, lắp một lúc ba mũi tên nhằm về hướng cây dẻ gai. Dây cung nhả ra, ba con sóc đều bị tên xuyên qua đầu rơi xuống. Và ngay lập tức đệ lại lắp ba tên khác, chĩa cung vào ngực quan thầy của bọn chúng quát lớn:
- Đứa nào xông lên! Tính mạng của chủ chúng mày cũng sẽ như các con sóc này!
Tất cả đều thất kinh, im như thóc. Đệ giật ngựa bước lùi mấy bước, rồi rẽ vào đường mòn, phóng mất hút vào rừng… Đến hôm ra thi võ đệ mới rõ người cưỡi ngựa trắng đó chính là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Vị quý tộc ăn chơi khét tiếng ở kinh thành, mà ngay ở chốn “rừng xanh, núi đỏ” cũng nghe danh.
Phạm Ngũ Lão thở dài mà rằng:
- Quý tộc cũng có dăm bẩy loại… Thân phận chúng ta chỉ biết xả thân vì Đại Việt… Sau này yên hàn rồi thì ai về nhà nấy, sống cuộc sống như ngày xưa.
- Anh em nhà các ngươi cứ đa sự mãi! Ăn chả chịu ăn. Uống chả chịu uống. Để mình ta thế này… buồn chết. - Nguyễn Khoái cắt ngang câu chuyện của hai người.
Ba người cùng bưng bát rượu lên, làm động tác như vái nhau rồi đưa bát lên môi.
- Rượu chân sâm cầm thật là tuyệt. Sau này, đại phá xong Nguyên Mông, thi thoảng chúng ta cùng ra đây, nhâm nhi một tối cũng thấy được lắm! - Nguyễn Khoái nói tiếp.
- Nhất định rồi! Đệ sẽ xin mỗi năm mời hiền huynh và đệ ra đây một lần. - Ngũ Lão nói.
- Thế thì quá ít. - Nguyễn Khoái chê. - Phải mỗi tháng một lần. Hoặc ít ra là xuân, hạ, thu, đông… mỗi mùa một lần mới đúng chứ!
- Hiền huynh muốn sao, đệ đây cũng xin chiều đủ. Duy chỉ mỗi ngày một lần thì đệ xin chịu. - Ngũ Lão đáp cả ba cùng khoái chí cười phá lên.
Rạng sáng. No nhưng không ai say. Cả ba cùng đứng lên. Ngũ Lão gọi chủ quán ra thanh toán tiền. Vị đó ở dưới tầng hầm lật đật chạy lên, xoa xoa tay vào nhau nói:
- Tướng quân Đỗ Hành đã đặt cho quán một trăm đồng rồi! vẫn còn thừa ba chục. Khi nào ngài ấy qua. Chúng tôi sẽ đưa lại. Còn năm chục tiền đặt tôi xin được trả lại Hổ hầu.
- Ờ, cái tay Đỗ Hành này cũng được đấy nhỉ! Nếu không có hắn tối qua, không khéo ta ra đấm chết vài thằng oắt con mất dạy đó.
- Hiền huynh chỉ được cái “khẩu xà” thôi! Đệ đã thấy huynh bạt tai đá đít ai bao giờ đâu. - Ngũ Lão nói.
- Ừ, nhưng tối qua ta tiếc quá! Chúng dám bảo chúng ta là gì ấy nhỉ?… À, là lũ muzich… tiếng Nga-la-tư là đồ nhà quê. Mẹ chúng nó chứ! Không có nhà quê… thì lấy đâu ra kinh thành. Không có dân nhà quê bán mặt cho đất, bán lưng cho trời… thì lũ chúng nó cứt cũng chẳng có để mà đổ vào miệng…
Lần đầu tiên Phạm Ngũ Lão thấy Nguyễn Khoái xổ ra một tràng, mà lời lẽ cũng sắc sảo ra trò, bèn đùa:
- Đúng là rượu vào lời ra!
- À, mày lại… muốn bênh chúng nó hả?
- Đệ đùa đấy! Vui nên muốn trêu huynh một chút! Bây giờ huynh thuê thuyền về thủy trại chứ?
- Ừ, còn các đệ?
- Hai đệ thuê xe ngựa về phủ Quốc công Tiết chế! Đang phải ở rể. Đất của cái chức Hổ hầu thì đã dược triều đình cấp rồi. Nhưng chưa có thời gian và tiền bạc để cất dinh thự riêng.
Nguyễn Khoái:
- Huynh cũng được cấp một miếng như đệ nhưng huynh không lấy. Huynh chỉ muốn về quê, có mấy mẫu ruộng, một căn nhà ba gian hai trái. Thích nhất là có cái lò nấu rượu. Còn thanh đao thì treo trên tường. Có giặc đến, triều đình cho gọi là xách đao đi…
- Ôi! Đúng là “bách nhân, bách tính” các cụ nói chẳng có gì sai bao giờ. - Nguyễn Chế Nghĩa nói xen vào.
Ba người chia tay.
Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt - Bùi Việt Sỹ Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt