Số lần đọc/download: 991 / 27
Cập nhật: 2017-05-20 09:04:16 +0700
Mười Một
T
rẻ con sống trong hiện tại. Chuyện tốt khi xích mích với chúng là đến mai chúng sẽ quên sạch. Ít nhất là Pat đã như thế hồi bốn tuổi.
“Con muốn ăn sáng món gì nào?” tôi hỏi cu cậu.
Nó ngắm nghía tôi một lúc.
“Mì Ý xanh ạ.”
“Con muốn ăn mì Ý à? Vào bữa sáng?”
“Mì Ý. Vâng ạ.”
“Nhưng - cha không biết làm mì Ý xanh. Con đã ăn thử bao giờ chưa?”
Nó gật đầu. “Ở cửa hàng con con bên kia đường lớn,” nó trả lời. “Với mẹ.”
Chúng tôi sống ở phía xấu của Highbury Corner, cạnh đường Holloway thay vì phố Upper, phía có cửa hàng đồ cũ thay vì cửa hàng đồ cổ, quán rượu thay vì bar, những quán cà phê nhỏ bé tĩnh lặng thay vì những nhà hàng thời thượng. Một vài quán cà phê ở đây yên ắng đến nỗi có không khí như nhà xác, nhưng có một quán rất ngon ở ngay cuối phố nhà tôi, tên là Trevi, nơi đây họ nói tiếng Anh ở ngoài quầy và tiếng Ý trong nhà bếp.
Những người đàn ông vạm vỡ, vui tính đằng sau quầy chào Pat bằng tên.
“Đây là chỗ đấy đấy ạ,” thằng bé nói, ổn định chỗ ngồi bên cửa sổ.
Tôi dõi theo cô chạy bàn ra khỏi nhà bếp và tiến lại bàn chúng tôi. Là cô ấy. Trông cô vẫn mệt mỏi.
“Tôi có thể giúp gì cho hai anh chàng đây?” cô nói, mỉm cười với Pat. Có một chút giọng miền Nam mà tôi không để ý thấy lúc đi cùng Marty.
“Cô có món gì giống như là mì Ý xanh không?”
“Ý anh là mì Ý sốt pesto phải không? Có ngay.”
“Không phải con ăn nó sẽ hơi cay quá à?” tôi hỏi Pat.
“Nó có xanh không ạ?” cu cậu nói.
Tôi gật đầu. “Nó màu xanh.”
“Con ăn cái đó.”
“Thế còn anh?” cô hỏi.
“Tôi cũng vậy,” tôi đáp.
“Anh còn gọi gì nữa không?”
“Thực ra thì tôi đang tự hỏi không biết cô có bao nhiêu chỗ làm.”
Cô thực sự nhìn tôi lần đầu tiên.
“À, tôi nhớ ra anh rồi,” cô nói. “Anh là người đi cùng Marty Mann. Là người bảo gã ta để tôi yên.”
“Tôi cứ tưởng cô không biết anh ta.”
“Tôi đã ở đây được gần một năm rồi. Tất nhiên là tôi biết cái gã khắm bựa đó.” Cô liếc nhìn Pat. “Thứ lỗi cho tôi.”
Cu cậu nhoẻn cười nhìn cô.
“Tôi không được xem ti vi nhiều lắm - làm việc này thì làm sao xem được - nhưng cái mặt xấu xí của gã ta thì lúc nào cũng trên mặt báo. Có vẻ như là chẳng được tích sự gì. Buồn cười thay, hai người là khách hàng cuối cùng của tôi. Paul không thích kiểu của tôi.”
“Ôi, chậc. Nếu có thể an ủi được gì thì xin thông báo là tôi cũng mất việc cùng lúc với cô.”
“Thật à? Mà anh còn không được đổ một đĩa mì Ý lên cái đầu...” Cô nhìn thoáng Pat. “... bé tí nhăn nhúm của Marty. Quay lại vấn đề. Đáng đời gã.”
“Đáng đời thật. Nhưng xin chia buồn vì cô đã mất việc.”
“Có gì đâu. Một cô gái lúc nào mà chẳng tìm được việc bồi bàn khác, phải không?”
Cô ngước lên từ quyển sổ của mình. Đôi mắt của cô cách xa nhau đến mức tôi thấy khó nhìn được chúng cùng một lúc. Chúng màu nâu. Rất to. Cô hướng chúng về phía Pat.
“Ăn cơm với cha à? Mẹ cháu hôm nay đi đâu rồi?”
Pat nhìn tôi lo lắng.
“Mẹ cháu đang ở Tokyo,” tôi nói.
“Đấy là ở Nhật,” Pat nói. “Họ lái cùng bên đường với chúng ta. Nhưng khi bên đó là tối, bên này là sáng.” Tôi ngạc nhiên là thằng bé nhớ nhiều đến thế những gì tôi đã kể với nó. Nó biết gần hết những gì tôi biết về nơi đó.
Cô nhìn tôi với cặp mắt nâu to và tôi nghĩ rằng bằng cách nào đó cô đã biết là cái gia đình nhỏ của chúng tôi đã đổ vỡ và tan tác hết cả. Chuyện đó thật phi lý. Làm sao mà cô biết được?
“Mẹ sắp về rồi ạ,” Pat nói.
Tôi vòng tay quanh người cu cậu.
“Phải rồi,” tôi nói. “Nhưng sẽ chỉ có hai cha con mình trong thời gian tới.”
“Chuyện này khá là lạ, phải không?” cô chạy bàn nói. “Ý tôi là - anh trông con một mình. Không có nhiều người đàn ông làm việc đó.”
“Thì chắc cũng phải có lúc chuyện này xảy ra,” tôi nói.
“Chắc là vậy,” cô nói.
Tôi có thể thấy là giờ thì cô đã thích tôi một chút khi biết rằng tôi đang trông nom Pat. Nhưng tất nhiên cô không biết tôi. Cô không biết một cái gì về tôi cả. Và cô đã nhìn nhầm tôi hoàn toàn.
Cô nhìn thấy một người đàn ông một mình với một đứa trẻ và cô nghĩ rằng chuyện này chắc hẳn có nghĩa là tôi tốt hơn những người đàn ông khác ở một khía cạnh nào đó - hiền hậu hơn, giàu lòng trắc ẩn hơn, khả năng làm một người phụ nữ thất vọng thấp hơn. Giống đực mới, tiến bộ, được lập trình sinh học để gánh vác trách nhiệm trông coi con cái. Như thể tôi đã lên kế hoạch cho cuộc đời tôi diễn ra như thế này vậy.
“Thế cô thì sao?” tôi hỏi cô. “Điều gì đã đưa cô đến London từ... đâu ý nhỉ?”
“Houston,” cô nói. “Houston, Texas. Thứ đưa tôi đến đây là bạn trai của tôi. Bạn trai cũ của tôi. Quê anh ta ở đây.”
“Chỉ vì một gã đàn ông thì có lẽ chuyến đi ấy hơi quá dài nhỉ?”
Cô có vẻ ngạc nhiên thực sự. “Anh nghĩ thế à? Tôi luôn luôn tưởng rằng, nếu ta thật sự yêu một ai đấy, ta sẽ theo họ khắp mọi nơi.”
Thế ra cô thuộc loại lãng mạn.
Ở bên dưới cái vẻ ngoài cứng rắn, sờ-tôi-lần-nữa-thì-anh-sẽ-lãnh-mì-vào-đùi, cô là loại phụ nữ luôn luôn sẵn lòng đảo lộn thế giới của mình vì một người đàn ông mà gã ấy thường là không xứng đáng.
Có lẽ vợ tôi nói đúng. Những kẻ lãng mạn luôn là tệ nhất.
Chiều muộn hôm đó Gina về đến nhà.
Pat và tôi đang ngồi chơi với đồ chơi của cu cậu trên sàn. Không có ai trong hai chúng tôi phản ứng gì với tiếng động cơ diesel kêu bành bạch khi chiếc taxi màu đen đang đỗ lại bên ngoài. Nhưng hai cha con nhìn nhau lúc nghe thấy tiếng lách cách của cái cửa nhỏ, rồi một chiếc chìa khóa đang mở cánh cửa trước, và cuối cùng là tiếng bước chân của cô ở ngoài sảnh. Pat quay mặt ra ngoài cửa.
“Mẹ à?”
“Pat?”
Và tự dưng cô xuất hiện ở đó, mỉm cười nhìn xuống đứa con của chúng tôi, mệt mỏi vì chuyến bay mười hai tiếng từ Narita và kéo theo cái va li cũ của cô mà giờ vẫn còn sót lại tấm đề can rách nát từ kỳ nghỉ xa lắc xa lơ ở Antigua của chúng tôi.
Pat phi vào vòng tay cô và cô ôm chặt nó đến nỗi thằng bé biến mất trong những vết gấp của cái áo khoác hè nhẹ, tất cả người nó biến mất, trừ đỉnh đầu và một nhúm tóc có cùng màu vàng ánh nâu như tóc của mẹ nó. Hai khuôn mặt của họ gần nhau đến mức bạn không thể nhìn ra đâu là Gina, đâu là Pat.
Tôi nhìn họ với một cảm giác còn hơn cả hạnh phúc. Tôi như thể ấm lên trong lòng, tin rằng thế giới của mình đã được phục hồi. Và rồi cô nhìn tôi - không lạnh lùng, không tức giận, chỉ là rất xa vời, như thể cô vẫn đang ở đâu đó xa xôi và sẽ luôn luôn ở đó - và lòng tôi se lại.
Cô không quay lại vì tôi.
Cô quay lại vì Pat.
“Em ổn không?” tôi hỏi cô.
“Hơi mệt,” cô nói. “Một chuyến bay dài. Và khi anh ra đi và trở về trong cùng một ngày thì ngày đó dường như không bao giờ chấm dứt vậy.”
“Đáng lẽ em phải nói với hai cha con là em đang về chứ. Thế thì bọn anh đã đi đón em từ sân bay.”
“Không sao đâu,” cô nói, đẩy thằng bé ra xa một chút để kiểm tra từ đầu đến chân.
Và tôi có thể thấy là cô quay về vì nghĩ rằng tôi không làm nổi việc này. Cô nghĩ rằng tôi không có khả năng một mình trông con khi cô đi mất. Cô nghĩ là tôi không phải một phụ huynh thực sự, không được như cô.
Vẫn giữ Pat, mắt cô nhận ra sự bẩn thỉu tan hoang của phòng khách, căn phòng như thể đang chứng nhận rằng ngay cả người cha tệ hại của cô còn có tiềm năng hơn tôi.
Đồ chơi khắp nơi. Một cái băng Vua sư tử đang bật không ai xem trên ti vi. Hai hộp pizza mang về - một lớn, một nhỏ - từ Mister Milano đang nằm trên sàn. Và quần Pat mặc từ hôm qua đang nằm trên bàn như một cái khăn ăn bị bẩn.
“Trời ơi, nhìn cái đầu bẩn của con này,” Gina rạng rỡ nói. “Chúng ta gội cho nó thật sạch nhé?”
“Vâng ạ!” Pat nói, như thể đó là lời mời đến Disneyland vậy.
Hai mẹ con đi ra phòng tắm và tôi bắt tay vào dọn phòng, lắng nghe tiếng nước chảy hòa với tiếng cười của cả hai.
“Em được một công ty mời vào làm,” cô nói với tôi trong công viên. “Đấy là một công việc tử tế. Làm dịch giả cho một ngân hàng Mỹ. Không, đúng hơn là người phiên dịch. Tiếng Nhật viết của em đã mai một quá rồi nên không dịch văn bản được. Nhưng tiếng Nhật nói của em thì quá ổn cho việc phiên dịch. Em sẽ tham gia các buổi họp, giữ liên lạc với khách hàng, tất cả mấy thứ đó. Và người đang giữ chức vụ này - cô ấy rất tốt, một người Mỹ lai Nhật, em đã gặp cô ấy - sắp nghỉ việc để sinh em bé. Công việc là của em nếu em muốn. Nhưng họ cần biết câu trả lời bây giờ.”
“Đợi đã nào,” tôi nói. “Công việc này là ở Tokyo?”
Cô quay mặt đi khỏi cảnh Pat đang tìm cách với lên những thanh ngang thấp của khung trèo.
“Tất nhiên là ở Tokyo,” cô nói với giọng sắc gọn. Mắt cô trở về đứa con của chúng tôi. “Anh nghĩ em vừa làm gì ở đấy chứ?”
Thật lòng mà nói, tôi tưởng cô đang nghỉ ngơi. Gặp lại vài người bạn cũ ở Nhật mà cô quen từ cái năm nghỉ trước đại học, phi đi phi lại trong cái tàu siêu tốc, thăm quan vài ngôi chùa ở Kyoto, chỉ để rời khỏi mọi thứ một thời gian.
Tôi đã quên là cô muốn lấy lại cuộc sống của mình.
Đấy là việc mà cô làm sau khi dọn về căn hộ của cha mình - gọi vài cuộc gọi quốc tế, nối lại vài mối quan hệ cũ, xem xem cô còn lựa chọn nào không trong tất cả những thứ mà cô đã hy sinh vì tôi.
Tôi đủ hiểu cô để nhận ra là cô thật lòng nghiêm túc về công việc này. Nhưng tôi vẫn chưa thể thực sự tin.
“Có thật là em sẽ nhận một công việc ở Nhật không, Gina?”
“Đáng lẽ ra em phải làm thế bao nhiêu năm trước rồi.”
“Kéo dài bao lâu? Vĩnh viễn?”
“Hợp đồng là một năm. Sau đó thì, để xem thế nào.”
“Thế còn Pat?”
“Pat đi với em. Dĩ nhiên.”
“Pat đi với em? Đến Tokyo?”
“Tất nhiên. Em sẽ không thể để nó ở đây được, phải không?”
“Nhưng em không thể cứ cắt đứt nó khỏi quê hương như thế được,” tôi nói, cố ngăn sự hoảng hốt buột ra cùng giọng nói. “Em sẽ sống ở đâu?”
“Ngân hàng sẽ sắp xếp chuyện đó.”
“Nó sẽ ăn cái gì?”
“Vẫn những thứ mà nó ăn ở đây thôi. Không ai bắt nó ăn sáng bằng canh miso cả. Mình vẫn mua được Coco Pops ở Nhật mà. Anh không phải lo về hai mẹ con đâu, Harry.”
“Anh có lo. Đây là chuyện nghiêm trọng Gina à. Ai sẽ trông nó khi em đi làm? Thế còn đồ của nó thì sao?”
“Đồ của nó?”
“Xe đạp của nó, đồ chơi của nó, băng phim của nó. Tất cả chỗ đồ của nó.”
“Em sẽ gửi sang. Đóng thùng những tài sản của một đứa trẻ bốn tuổi thì khó đến mức nào cơ chứ?”
“Thế còn ông bà nó thì sao? Em định đóng thùng họ gửi sang à? Thế còn bạn nó ở nhà trẻ? Thế còn anh?”
“Anh không chịu nổi khi nghĩ rằng em có một cuộc sống mà không có anh phải không? Anh rõ ràng là không chịu nổi rồi.”
“Không phải chuyện đấy. Nếu đây là thứ em thực sự muốn thì anh mong là mọi thứ sẽ trôi chảy cho em. Và anh biết là em làm được. Nhưng cuộc sống của Pat là ở đây.”
“Cuộc sống của Pat là với em,” cô nói, giọng có chút đanh thép. Nhưng tôi có thể thấy rằng cô bắt đầu hiểu ý tôi.
“Để thằng bé lại với anh,” tôi nói. Thực ra là cầu xin. “Chỉ đến khi em ổn định xong xuôi, được không? Một vài tuần, đôi ba tháng, bao lâu cũng được. Chỉ đến khi em ổn định với công việc và tìm được chỗ để sống. Hãy để nó ở với anh cho đến lúc đó.”
Cô săm soi tôi thận trọng, như thể tôi có lý nhưng không đáng tin.
“Anh không định cướp nó từ em Gina à. Anh biết là mình sẽ không bao giờ làm được chuyện đó. Nhưng anh không thể chịu đựng nổi khi nghĩ rằng nó bị một người lạ nào đó trong căn hộ nhỏ nào đó trông coi trong khi em đang ở văn phòng cố gắng làm công việc mới của mình. Và anh biết là em cũng không chịu nổi chuyện đó.”
Cô nhìn thằng bé của chúng tôi từ từ leo lên đỉnh khung trèo. Nó thận trọng quay ra nhoẻn cười với chúng tôi.
“Em phải chớp lấy cơ hội này,” cô nói. “Em cần biết là mình có khả năng. Là bây giờ hoặc là không bao giờ nữa.”
“Anh hiểu.”
“Em sẽ gọi nó hàng ngày, tất nhiên. Và em sẽ đưa nó đi sớm nhất có thể. Có lẽ anh có thể đưa nó sang.”
“Nghe được đấy.”
“Em yêu Pat. Em yêu con trai mình.”
“Anh biết em yêu nó.”
“Anh thực sự nghĩ là mình có thể trông nom nó một mình trong một thời gian, phải không?”
“Anh có thể xoay xở được. Anh có thể.” Chúng tôi nhìn nhau một hồi lâu. “Chỉ đến khi em ổn định thôi.”
Chúng tôi đưa Pat về nhà và cho thằng bé đi ngủ. Vui và mệt, nó ngủ thiếp đi, lạc trong những giấc mơ mà nó sẽ không nhớ nổi vào buổi sáng hôm sau.
Gina cắn môi dưới.
“Đừng lo,” tôi nói. “Anh sẽ trông nom thằng bé cẩn thận.”
“Chỉ đến khi em ổn định.”
“Chỉ đến khi em ổn định.”
“Em sẽ quay lại đón nó,” Gina nói, với bản thân hơn là với tôi.
Và cuối cùng cô đã quay lại đón nó. Nhưng đến lúc đó thì mọi chuyện đã khác đi đôi chút.
Đến khi Gina quay lại đón Pat thì sẽ không còn quần của ngày hôm qua trên bàn cà phê và hộp pizza Mister Milano trên sàn. Đến khi cô quay lại để đón con trai của chúng tôi, tôi cũng sẽ thành một bậc phụ huynh thực sự.
Đấy là chỗ mà Gina nhầm. Cô tưởng là mình có thể thay đổi còn tôi sẽ luôn như vậy.
Cha mẹ tôi đương đầu với chuyện Gina đi vắng bằng cách cố biến cuộc đời Pat thành một bữa tiệc.
Qua một đêm luật lệ “một lon Coca một ngày” bất di bất dịch của họ đã bị bãi bỏ. Tự dưng khi Pat và tôi xuất hiện ở nhà ông bà thì có bao nhiêu là quà đang chờ đợi cu cậu, như bản đặc biệt Sự trở lại của Jedi (“Cảnh mới, âm thanh mới, hiệu ứng đặc biệt mới”). Càng ngày cả hai càng muốn cu cậu ở lại nhà mình, rõ ràng là vì hy vọng sẽ thay thế khuôn mặt rầu rĩ và những khoảng im lặng u ám của tôi bằng tiếng cười ré lên của họ, tiếng cười gượng gạo đến mức tôi muốn khóc.
Và giờ lúc nào cũng có một trong hai người muốn đi cùng chúng tôi đến cửa nhà trẻ của Pat. Đó là một chuyến xe dài đối với cả hai - đến được chỗ cha con tôi phải mất ít nhất là một tiếng đi ngược chiều đồng hồ quanh M25(1) trong giờ cao điểm - nhưng họ sẵn lòng làm vậy ngày này qua ngày khác.
“Giống một buổi trị liệu đặc biệt thôi mà,” cha tôi nói, rên rỉ khi gập đôi chân già nua vào cái xe sàn thấp của tôi.
Tôi biết họ đang làm gì và tôi yêu họ vì việc đó. Họ đang cố ngăn đứa cháu nội của họ khỏi khóc. Vì họ sợ là nếu nó bắt đầu khóc, nó sẽ không bao giờ ngừng được.
Nhưng cuộc sống của Pat không phải là một bữa tiệc khi không có mẹ nó. Cơ man những món đồ chơi Chiến tranh giữa các vì sao hay lòng tốt cũng không thể biến nó thành một bữa tiệc.
“Hôm nay cháu định làm gì hả Pat?” cha tôi nói, đứa cháu nội ngồi trên đùi ông ở bên ghế hành khách của MGF. “Nặn giun bằng đất Plasticine? Học về Người đưa thư Pat và con mèo lông đen trắng của anh ta? Cái đấy sẽ hay lắm đây!”
Pat không đáp. Thằng bé nhìn chằm chằm đoàn xe cộ tắc cứng buổi sáng sớm, mặt nó nhợt nhạt và xinh xắn, và không một trò đùa giỡn nào từ ông già của tôi có thể làm thằng bé nói một lời. Nó chỉ lên tiếng khi chúng tôi ở trước cửa nhà trẻ Canonbury Cubs.
“Không muốn đi,” nó lẩm bẩm. “Muốn ở nhà.”
“Nhưng không ở nhà được, con yêu,” tôi nói, chuẩn bị dùng cái cách trốn tránh trách nhiệm của người phụ huynh mẫu mực và nói với nó là cha phải đi làm. Nhưng tất nhiên là cha không còn có việc làm nữa. Cha có thể nằm trên giường cả ngày mà vẫn không bị muộn làm.
Một cô giáo đến đưa nó đi, nhìn tôi đầy ý nhị lúc cô nhẹ nhàng nắm lấy tay thằng bé. Đây không phải lần đầu tiên Pat miễn cưỡng rời tôi. Trong tuần lễ sau khi Gina đi mất, nó không muốn để tôi ra ngoài tầm mắt.
Sau khi cha tôi hứa với nó những trò vui không thể tưởng tượng nổi vào cuối ngày, chúng tôi dõi theo Pat đi mất, nắm lấy tay cô giáo, đôi mắt xanh bơi trong nước mắt, môi dưới bắt đầu run run.
Có lẽ nó sẽ đến được tận lớp học nhỏ ấy mà không vỡ òa. Có lẽ họ còn cởi được áo khoác của nó ra. Nhưng đến lúc các con giun bằng đất nặn Plasticine được bày ra thì nó sẽ không chịu nổi, sẽ khóc đến rạc cả người trong lúc những đứa trẻ còn lại nhìn nó chằm chằm hoặc thản nhiên tiếp tục làm những việc trẻ-bốn-tuổi của mình. Chúng tôi sẽ không phải chứng kiến bất kỳ một việc nào.
“Cha còn nhớ hồi con tuổi đấy,” cha tôi nói trong lúc chúng tôi đi bộ ra chỗ xe. “Cha đưa con đến công viên trong tuần giữa Giáng sinh và Năm Mới. Lạnh cóng mông. Con cầm theo cái ván trượt con con. Cha phải kéo lê con trên cái đấy từ nhà đi. Và đến công viên thì hai cha con xem mấy con vịt cố hạ cánh trên mặt hồ đóng băng ấy. Bọn nó cứ bay vào để hạ cánh và - bùm! Trượt cái mông trên băng. Và con thì cứ cười lăn lộn. Cười mãi cười mãi, con ấy. Chắc hẳn là chúng ta đã nhìn chúng hàng tiếng đồng hồ. Con có nhớ lần đó không?”
“Cha à?”
“Gì?”
“Con không biết mình có làm được không, cha ạ.”
“Làm gì?”
“Con không biết liệu một mình con có trông nom Pat được không. Con không biết mình đã sẵn sàng chưa. Con bảo với Gina là con có thể. Nhưng con không biết liệu mình làm được không.”
Ông quay ra nhìn tôi, mắt nảy lửa, và trong một khoảnh khắc tôi tưởng ông chuẩn bị đấm tôi. Ông chưa bao giờ đụng đến một sợi tóc trên người tôi. Nhưng cái gì chả có lần đầu.
“Không biết là có làm được không à?” ông nói. “Không biết là có làm được không à? Con phải làm.”
Ông nói thì dễ. Thời trẻ của ông có thể bị sứt mẻ bởi những cố gắng của quân đội Đức để ám hại ông, nhưng ít nhất là ngày đó bổn phận của một người cha đã được vạch định rõ ràng. Ông luôn biết chính xác người ta kỳ vọng gì ở mình. Cha tôi là một người cha tuyệt vời - và cái này mới đỉnh này - ông còn không phải có mặt để làm một người cha tuyệt vời. Đợi đến khi cha mày về nhà là đủ để tôi phải ngoan. Chỉ cần mẹ tôi nhắc tên cha thôi là lập tức tôi hiểu hết những điều cần biết về việc làm một đứa con ngoan ngoãn. Đợi đến khi cha mày về nhà, bà bảo tôi. Và chỉ nhắc đến cha tôi thôi là đã đủ để làm mọi thứ trên vũ trụ trở về đúng chỗ của chúng.
Giờ thì ta không còn nghe lời dọa đó nhiều lắm nữa. Có bao nhiêu người phụ nữ ngày nay thực sự nói, Đợi đến khi cha mày về nhà? Không nhiều. Vì thời buổi này có một số người cha không bao giờ về nhà. Và có một số người cha ở nhà suốt ngày.
Nhưng tôi thấy là ông nói đúng. Có thể tôi không làm tốt như ông trước đây - tôi không thể tưởng tượng nổi Pat nhìn tôi như tôi nhìn ông già của mình - nhưng tôi phải gắng hết sức.
Và tôi có nhớ mấy con vịt cố gắng hạ cánh trên cái mặt hồ đóng băng đó. Tất nhiên tôi còn nhớ những con vịt. Tôi nhớ rõ chúng.
Ngoài tiền công thấp, giờ làm bất tiện và sự thiếu thốn những quyền lợi căn bản của một nhân viên như bảo hiểm y tế, có lẽ thứ tồi tệ nhất đối với một cô bồi bàn là trong khi làm việc cô phải đối phó với rất nhiều gã dở hơi.
Như một cái tạp dề nhỏ và một cuốn sổ tay, những gã dở hơi là thứ đi kèm với công việc này. Những người đàn ông muốn nói chuyện với cô, những người đàn ông hỏi số của cô, những người đàn ông không chịu để cô yên. Những gã dở hơi, cả một đám rất đông.
Những gã dở hơi từ các công trường, những gã dở hơi từ các văn phòng, những gã dở hơi vận veston, những gã dở hơi mà khe mông được trưng ra phía trên mông quần bò, dở hơi đủ loại - từ những gã nghĩ là mình hài hước, những gã nghĩ mình là món quà của Chúa, những gã nghĩ rằng chỉ vì cô mang cho họ bát xúp thì tức là họ có cơ hội.
Cô đang phục vụ một bàn những gã dở hơi khi tôi ngồi xuống chỗ của mình ở cuối quán cà phê. Một gã dở hơi - một gã dở hơi doanh nhân thay vì một gã dở hơi từ công trường - đang liếc mắt dâm dật nhìn cô trong khi các gã dở hơi bạn của gã ta - một đống những đồ kẻ sọc, keo vuốt tóc và điện thoại di động - cười thán phục sự trơ trẽn dở hơi của gã ta.
“Tên em là gì?”
Cô lắc đầu. “Tại sao anh lại cần biết tên tôi?”
“Tôi đoán chắc là cái gì đó đặc trưng miền Nam, nhỉ? Peggy-Sue? Becky-Lou?”
“Không hề.”
“Billie-Joe? Mary-Beth?”
“Nghe này, anh có định gọi món hay không?”
“Mấy giờ thì em được nghỉ?”
“Anh đã bao giờ hẹn hò một cô chạy bàn chưa?”
“Chưa.”
“Các cô chạy bàn nghỉ muộn.”
“Em thích làm chạy bàn à? Em có thích làm giám đốc dịch vụ trong ngành cung cấp thực phẩm không?”
Câu đó nhận được tiếng cười rất to từ tất cả những gã dở hơi nghĩ rằng trông mình thật sành điệu khi nói chuyện linh tinh trên điện thoại di động giữa một cái nhà hàng đông người.
“Đừng có nhạo tôi.”
“Anh có nhạo em đâu.”
“Giờ thì dài, tiền lương thì thấp. Làm chạy bàn là như thế đấy. Và rất nhiều những gã ẩm ương. Nhưng nói chuyện về các anh như thế là đủ rồi.” Cô lia cái thực đơn lên bàn. “Các anh cứ nghĩ đi nhé.”
Gã doanh nhân dở hơi đỏ mặt và cười, cố tỏ ra ta đây nam nhi lúc cô đi khỏi. Những tên bạn dở hơi của gã vẫn đang cười nhưng không còn hả hê như trước nữa.
Cô qua chỗ tôi. Mà tôi vẫn còn chưa biết tên cô.
“Cu cậu của anh hôm nay đâu rồi?”
“Thằng bé đang ở nhà trẻ.” Tôi chìa tay ra. “Harry Silver.”
Cô nhìn tôi một giây rồi mỉm cười. Tôi chưa từng nhìn thấy một nụ cười như thế. Khuôn mặt của cô làm cả căn phòng bừng lên. Nó sáng lóa.
“Cyd Mason,” cô nói, bắt tay tôi. Đó là một cái bắt tay rất nhẹ nhàng. Chỉ có đàn ông mới cố bẻ gãy xương bạn khi bạn bắt tay họ. Chỉ có mấy gã dở hơi.
“Hân hạnh được gặp anh, Harry.”
“Giống như trong Sid Vicious?”
“Giống như trong Cyd Charisse. Chắc anh còn chưa nghe thấy Cyd Charisse bao giờ, phải không?”
“Cô ấy khiêu vũ với Fred Astaire ở Paris trong Tất lụa. Cô ấy có mái tóc cắt như cô bây giờ. Tên kiểu cắt này là gì nhỉ?”
“Tỉa Tàu.”
“Tỉa Tàu, phải không? Ừ, Cyd Charisse. Tôi có biết cô ấy. Có lẽ cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất thế giới.”
“Đấy chính là Cyd.” Cô bị ấn tượng. Tôi có thể nhìn thấy. “Mẹ tôi cuồng mấy bộ phim cũ của hãng MGM đấy.”
Tôi đã nhìn thấy một thoáng thời thơ ấu của cô, nhìn thấy cô hồi mười tuổi đang ngồi trước ti vi trong một căn hộ con con nào đó, điều hòa bật to hết cỡ và mẹ cô đang nghẹn ngào lúc Fred xoay Cyd qua Tả Ngạn. Thảo nào mà cô lớn lên với một cái nhìn méo mó về lãng mạn. Thảo nào cô đi theo một gã dở hơi nào đó đến London.
“Tôi giới thiệu cho anh những món đặc biệt nhé?” cô nói.
Cô rất tốt bụng và tôi cảm thấy muốn trò chuyện với cô về Houston và nhạc kịch MGM và chuyện đã xảy ra giữa cô và người đàn ông đã đưa cô đến London. Thay vì vậy, tôi dán mắt vào đĩa mì Ý của mình và giữ cho miệng mình ngậm lại.
Vì tôi không muốn ai trong hai chúng tôi bắt đầu nghĩ rằng tôi chỉ là một gã dở hơi khác.
Gina đã đi mất và cô ở khắp mọi nơi. Căn nhà đầy rẫy những đĩa CD mà tôi sẽ không bao giờ nghe (nhạc soul ủ rũ về tình yêu đã mất và tìm lại được), những quyển sách tôi sẽ không bao giờ đọc (những phụ nữ vật lộn kiếm tìm bản thân mình trong một thế giới toàn những gã đàn ông thối tha) và quần áo tôi sẽ không bao giờ mặc (đồ lót sexy hiệu M&S).
Và Nhật Bản. Rất nhiều sách về Nhật Bản. Tất cả những cuốn kinh điển mà cô giục tôi đọc - Mưa đen, Samurai hồng, Gen chân trần, Ký ức về lụa và rơm - và một bản Xứ tuyết cũ rách nát mà tôi từng đọc, câu chuyện tình mà cô nói tôi phải đọc nếu tôi muốn hiểu.
Đồ của Gina, chúng cắn nát tim tôi mỗi lần tôi nhìn thấy.
Chúng phải biến mất.
Tôi thấy tội lỗi vì vứt chúng đi, nhưng nếu có ai bỏ bạn, họ thực sự nên cầm theo đồ của mình. Vì mỗi lần tôi nhìn thấy một trong những đĩa Luther Vandross hay tiểu thuyết của Margaret Atwood hay sách về Hiroshima của cô, tôi lại thấy bao nhiêu nỗi buồn nghẹn ngào dâng trào trong lòng mình. Và cuối cùng thì tôi không thể chịu đựng được nữa.
Gina, tôi nghĩ, với giấc mơ về tình yêu bất tử và sự độc lập khó đạt được, Gina người có thể sẵn lòng dung nạp những suy nghĩ đanh thép, hậu nữ quyền của Naomi Wolf và những lời yêu thương ngọt ngào của Whitney Houston.
Đấy đúng là Gina của tôi.
Thế nên tôi phải làm, nhét tất cả những thứ cô để lại vào các túi rác. Túi đầu tiên nhanh chóng đầy - người phụ nữ này không bao giờ vứt cái gì đi sao? - nên tôi quay lại vào bếp và lấy cả một cuộn túi lót thùng rác loại dày.
Khi tôi đã bỏ xong tất cả những cuốn sách bìa mềm của cô, giá sách trông như một cái miệng đầy răng sứt.
Vứt quần áo của cô đi dễ hơn rất nhiều vì không phải xếp loại gì cả. Không lâu sau phía của cô trong tủ đồ đã trống không ngoại trừ băng phiến và mắc treo áo khoác.
Mới thế mà tôi đã thấy đỡ hơn rồi.
Bắt đầu toát mồ hôi như tắm, tôi lượn lờ quanh nhà lau đi những gì còn sót lại cho thấy sự hiện diện của cô. Có áp phích về Nhật Bản từ những ngày cô còn độc thân. Một bức tranh cô mua trong kỳ nghỉ của chúng tôi tới Antigua lúc Pat còn là một em bé. Một cái dao cạo hồng ở mép bồn tắm. Vài băng phim Củng Lợi. Và một tấm ảnh chụp ngày cưới của chúng tôi, trong đó cô trông như cô gái xinh đẹp nhất trần đời còn tôi cười như một gã đần độn, hạnh phúc, không bao giờ tin nổi mình lại may mắn đến thế.
Giờ thì tất cả chỉ là rác rưởi.
Cuối cùng, tôi nhìn vào giỏ đồ giặt. Giữa đồ ngủ Chiến tranh giữa các vì sao của Pat và quần Calvin đã phai màu của tôi là cái áo phông Gap cũ mà Gina thích mặc khi ngủ. Tôi ngồi ở chân cầu thang tay cầm cái áo phông một hồi lâu, tự hỏi cô tối nay mặc gì khi đi ngủ. Và rồi tôi ném nó vào cái túi rác cuối cùng.
Thật kỳ lạ là ta có thể loại bỏ mọi dấu vết của cuộc đời một con người khỏi một ngôi nhà nhanh đến mức đấy. Mất quá nhiều thời gian để lưu lại dấu ấn của mình lên một căn nhà, và quá ít thời gian để xóa nó đi.
Tôi dành thêm vài tiếng nữa để lôi tất cả ra khỏi các túi rác và cẩn thận cho lại quần áo, đĩa CD, sách, áp phích và mọi thứ khác lại hệt như cũ.
Vì tôi nhớ cô. Tôi nhớ cô như điên.
Và tôi muốn tất cả đồ của cô vẫn y nguyên như cô đã để lại, sẵn sàng đợi chờ nhỡ có lúc nào cô muốn quay về nhà.