Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Chương 13
T
rận mưa như trút nước dập tắt đám cháy ở Glastonbury thực ra mới là trận mưa cuối hạ đầu tiên, nên đất đai đã không bị trần trụi lâu. Những ngọn đồi cháy xém và những vết sẹo đen nham nhở trong thung lại thấy xanh mờ trước khi mọi người có thể ra khỏi nhà và nhìn xem những gì còn lại. Dĩ nhiên có một số người không có đủ can đảm làm lại từ đầu mà đã chọn những vùng khác để sống, nơi mà họ tưởng tượng là những đám cháy dữ dội sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng những ai quay trở lại các trang trại cháy trụi của mình thì, nói chung, đều vui mừng. Màu xanh mờ mỗi lúc một tốt tươi, mới đầu từng dòng từng mảnh nhỏ, sau đó trào ra khiến họ thấy trẻ lại và tràn trề hy vọng. Khi họ đóng cái này, cưa cái kia, dồn đàn bò vào những bãi rào thô sơ làm bằng những cây non, tháo chân gà, vịt đang buộc lại với nhau thành từng đám, lòng họ đầy quyết tâm, bởi vì họ đã nhìn thẳng vào đám cháy, nhìn thấy những gì xảy ra để có thể sắp xếp lại cuộc sống của mình. Họ cảm thấy thế.
Bub Quigley đã không sắp xếp cuộc sống của mình. Cuộc sống của cậu ta quá đơn giản. Cậu ta tỉnh dậy, rũ cái ngủ khỏi mắt, nhai những miếng bánh mì to tướng và uống nước. Cậu nhìn những con nòng nọc trong bình. Cậu biết từng mô đất, ngọn cây ở vùng đó. Cậu vừa là chim vừa là kiến. Vì vậy cuộc sống của cậu tiếp tục hình thành theo bản năng, vượt ra ngoài đầu óc mong manh của đứa trẻ. Vì vậy cậu cảm thấy màu xanh lớn lên, màu xanh của cỏ, của lá, trước tất cả mọi người khác và đôi bàn tay dài của cậu thấy ngứa ngáy, rồi cậu dụi mặt vào vai, không thể nào ngồi yên được, mà phải đi trên những con đường dài gập ghềnh, mà những người khác, thậm chí cả trẻ con chắc cũng không nghĩ tới.
Bub đã có mặt ở khu Hải Đảo trước mọi người. Cậu ta xé những lá cây hồ đào đầu tiên nhét vào mồm. Cậu lấy lá cây dương xỉ nâu quệt vào mũi. Rồi cười vang. Thỉnh thoảng để thay đổi, cậu ta chạy xuống đồi, tay chân gần như long khỏi người, hai bàn chân dài nện xuống đất như hai tấm gỗ. Nhưng cậu ta cười vang. Rồi quỳ xuống nhìn vào một hang thỏ trong đó ngoe nguẩy đuôi một con rắn. Hai mắt trẻ con của cậu ta sáng lên trên bộ mặt già trước tuổi, tìm kiếm các thứ.
Bub đi thăm tất cả những nơi cư trú của con người đã bị thiêu cháy và bỏ hoang để xem mình có thể tìm thấy gì. Nhưng chẳng có gì nhiều lắm. Có những thùng sắt và những khung giường. Ở một nơi cậu ta nằm trên khung giường và nhìn qua mái nhà thấy một mảnh trăng lạnh lẽo mọc sớm, cho đến khi khoảng cách đến mặt trăng bắt đầu làm cho cậu ta thấy sợ, rồi cậu ta ném một hộp sắt tây đi, trong đó có để mấy con bọ dừa, lăn lông lốc qua cái sàn nhà đã cháy thành than rồi biến mất.
Ở nhà Armstrong thì nhộn nhịp hơn, Bub cũng đến đây. Cậu ta nhìn những người lao động lấy bay nện gạch và uống trà đen. Bởi vì ông Armstrong đã cho người xây nhà mới, giống y như cái cũ mà ông ta rất tự hào nên không tiếc tiền. Ngôi nhà được làm nên từng bước, khi những người thợ không ngồi dưới nắng, bàn tán về ngựa. Có một người pha trò, mắc mũ vào tượng một người đàn bà khỏa thân, rồi nhảy một điệu nhảy tục tĩu, về sự hy sinh và sở hữu. Bub Quigley cười và vỗ tay. Cậu ta thích mấy trò chơi đùa ầm ĩ mặc dù cậu ta cũng thấy mình mà làm thế thì ngượng lắm. Mọi trò chơi như vậy - những cậu bé lội trong bùn và ném từng nắm bùn vào mông nhau, còn những anh thanh niên đội những mũ thùy mị của các cô gái, đặc biệt nếu đính lông chim, cái anh chàng kỳ dị ôm lấy bức tượng người đàn bà - những điều đó đã mạo hiểm đi vào giấc mơ. Nó làm cho tiếng cười run lên trên cái miệng ướt của Bub Quigley. Cậu ta nhìn sướng mắt.
Những người khác đi đến xem ngôi nhà mới của Glastonbury mặc dù bản thân những người nhà Armstrong không bao giờ đến. Để cho các nhà kiến trúc và thợ xây làm là đủ rồi. Họ sẵn tiền nên chẳng cần ngó ngàng đến quá trình xây dựng. Nhưng có thể họ cũng bị bỏng đôi chút nên sợ không dám đến thăm quang cảnh hãy còn đổ nát. Họ tiếp tục sống ở Sydney hay thăm bạn bè thân thích ở nông thôn, miễn là họ giàu có như nhau.
Mặc dù người ta chưa thấy họ ở Durilgai, nhưng ông Armstrong cũng viết thư cho Stan Parker, kèm theo một món tiền thưởng hậu hĩ vì hành động dũng cảm của anh, kèm theo lời cảm ơn của cô gái sắp trở thành con dâu ông ta. Ông hàng thịt nói là ít nhất ông ta cũng chắc rằng cô gái đó cũng muốn gửi lời cảm ơn, nhưng lúc ấy cô đang đi nghỉ ở một bang khác vì lý do sức khỏe.
Stan Parker thấy hơi ghê tởm trước tấm ngân phiếu nhưng vợ anh, người không trải qua hứng khởi do ngọn lửa, đã tính mọi thứ họ có thể mua. Chị đã kịp thời khuyến dụ anh cùng tận hưởng niềm vui vật chất, nên họ thậm chí còn giữ tấm ngân phiếu một thời gian, để ngắm nghía và để khoe.
Cũng khoảng thời gian này chị O’Dowd đến thăm Amy Parker. Chị đã không chứng kiến đám cháy rừng vì bệnh zona quanh khắp thắt lưng, những nốt mẩn ngứa to bằng đồng xu, bị cả ở những chỗ khác, ngồi cầm tấm ngân phiếu bóng loáng như thể tờ giấy có một sức mạnh bên trong mà chị ta có thể nhận được khi sờ vào.
- Thế nhá, - chị ta nói, tay cuộn tấm phiếu thành một cuộn tròn xinh xắn, để nhìn chữ viết trên đó rõ hơn. - Sức khỏe là sức khỏe, mà tiền bạc là tiền bạc, nhưng tôi muốn biết cái nào giá trị hơn, dù không bao giờ có được với nhà tôi dưới kia. Song tôi thật sự vui mừng, chị Parker ạ, chị gặp vận may đấy, cả về chồng lẫn về tài khoản nhà băng. Nhưng tôi mừng chính là cho chị đấy. Không phải là đố kỵ gì đâu, nhưng có điều là vào địa vị tôi thì tôi mong anh Stan chứ không phải O’Dowd nhà tôi đi cứu các bà khỏi đám lửa, trong khi họ đang mặc quần áo ngủ, hoặc bất cứ cái gì chăng nữa mà cô ta mặc vào dịp đó.
- Chị định nói gì vậy, chị O’Dowd? - chị Parker hỏi.
- Tôi chẳng nói gì cả, - chị O’Dowd nói, - vì tôi có mặt ở đó đâu, mà mắt người khác nhìn thì đâu có tường tận bao giờ. Tôi chỉ nói, chị ạ, rằng tôi vui mừng vì không phải cái ông O’Dowd nhà tôi lờ vờ trong đám cháy, với một tiểu thư quanh cổ mình.
- Chẳng có chuyện lờ vờ đâu, tôi bảo đảm với chị đấy, - chị Parker nói, tỏ vẻ khó chịu. - Có cháy rừng, chị hiểu không? Còn O’Dowd nhà chị, anh ấy cũng chẳng cứu được ai đâu, mà chỉ chúi đầu vào nhà bếp say sưa bí tỉ.
- Bạn bè với nhau mà nói thế này thật chẳng ra làm sao cả. - Chị O’Dowd nói. - Nhưng tôi không muốn chia tay nhau mà vẫn còn hậm hực trong lòng. Còn cái đồ ngạo mạn, ngông nghênh trên đường cái cứ như thể là cát bụi, không kể thời tiết, chỉ để giết thời gian. Nhưng mọi người bảo, - chị ta nói, và có lẽ đây là lý do vì sao chị ta đến, - họ nói rằng mọi việc đều phăng teo cả rồi. Tôi có nhận được thư của một bà có quyền thế. Chị muốn biết, tôi xin nói: đó là bà Frisby, người giúp việc nhà Armstrong một thời gian, bà ta có chồng đang đi biển, thật tội nghiệp, bà ta định xin nghỉ việc rồi lại thôi. Tôi không nhớ tại sao, có thể vì cái bà Armstrong là một mụ nanh ác. À, bà Frisby nói trong thư rằng anh chàng Armstrong, cũng chẳng phải là hạng người tồi tệ gì, xét về mọi mặt, bỗng đâm ra bẳn tính, kể từ khi cô Madeleine bỏ đi. Không ai nói gì cả, phải nhắc cho chị thế. Nhưng ai cũng biết. Madeleine đi một chuyến dài ngày, không phải vì tóc cô ta bị cháy trụi, mà vì cô ta không còn tình cảm gì nữa, bà Frisby nói thế, và có được tí chút tình cảm nào thì đã bị thiêu trụi vào cái đêm cháy rừng ấy. Vì thế anh chàng Tom, phải gánh chịu tất.
Nói xong chị O’Dowd rụt cằm lại, sửa sang đôi môi cho khớp với lợi, rồi bỏ đi. Amy Parker vui mừng. Chị có ý định không gặp lại bạn nữa, dù cho thực tế là cái hôm thứ Năm tuần ấy vì việc chung nhau một góc thịt lợn, chị còn phải gặp.
Nhưng chị Parker không khuyến khích chị O’Dowd nói tỉ mỉ về cái tin mà chị ta đưa ra. Chị nghe tin đó, chỉ im thin thít ngấm ngầm thích thú trong lòng, vì Madeleine, kể từ hôm bị bỏng, bò lê bò càng trên tro bụi và cỏ, đã được trừ tà. Chị không còn thấy cô ta cưỡi ngựa một cách lạnh lùng nữa. Điều này đã thuộc về cái thời ngông cuồng điên loạn rồi. Giờ chị vượt lên trên Madeleine, đối diện với ngôi nhà cháy và đã có thể làm một điều tàn bạo nào đó. Nếu không phải vì chồng mình và vì bản thân đám cháy. Sự im lặng của chồng đã thôi thúc chị không ngừng lao vào ngọn lửa, dù là trong giấc ngủ hay bên vũng lầy, cho đến khi bản thân chị quay cuồng trong đó, che chở bộ tóc của mình, trong lúc chị tìm kiếm một dấu hiệu nào đó bị khói che lấp.
Stan Parker, với vết thương chóng lành, chỉ để lại vài cái sẹo nhỏ, một hôm đã mang tấm ngân phiếu đi Bangalay gửi vào ngân hàng. Chưa bao giờ anh thấy mến thành phố đó, đầy sắt thép và nhà tù màu vàng. Nhưng lần này, đó là thành phố của anh. Anh biết đến những cái tên Thánh của hầu hết những người anh gặp. Anh biết cái lưng và thói quen của họ, biết họ hay thường lui tới quán rượu nào và đến với ai.
Hôm ấy Stan Parker đi tìm kiếm một người tên là Moriarty, người anh đã mượn mấy hào cách đó mấy tuần, và nếu đúng, sẽ tìm thấy người đó ở tại khách sạn Đường sắt Lớn. Vì vậy Stan đã đến đó, vào một hang ổ nhớp nhúa, hôm đó không hiểu sao lại mang vẻ quan trọng, đầy bia rượu, khói và những bộ mặt. Họ đang thảo luận mấy tin quan trọng vừa mới bay đến cái thành phố lòe loẹt đó, và nó đang đe dọa thành phố, khiến cho màu sơn vàng và những lan can bằng sắt trang trí rất cầu kỳ ở những ngôi nhà trở nên bớt sặc sỡ đi.
Những mẩu tin đó đến với Stan Parker dần dần làm anh tê dại đi khi anh chen lấn qua quán rượu, cho đến khi cuối cùng anh đã gặp Moriarty và hỏi:
- Có chuyện gì thế anh?
- Ồ, anh không biết à? - Moriarty nói, vì vừa nắm được tin tức cách đó mấy phút, và vì thế nên có khuynh hướng khinh thường người không biết. - Ồ, chiến tranh vừa nổ ra, ở phía bên kia.
- Đúng đấy - Bob Fuller nói, - chúng ta sẽ cùng lên đường đánh bọn Đức.
- Chẳng việc gì phải hoảng sợ, - một số nói. - Xa lắc xa lơ ấy mà.
Họ lại cạn những cốc bia, nuốt ừng ực và cảm thấy sảng khoái hơn.
- Anh sẽ làm gì Stan? - Có người hỏi.
- Tôi không biết, - anh nói.
Đó là sự thật. Anh cảm thấy chẳng hào hứng gì.
Dù cho có những tin đúng đắn đến với anh, làm cho đầu óc và chân tay anh phấn chấn vì tin tưởng, nói cho anh hay về sự hiện diện của Chúa, làm rạng rỡ gương mặt vợ khi anh đã quên khuấy những đường nét, mang cái lá run rẩy đến mỗi lúc một gần cho tới khi những đường gân và tầm rộng lớn của nó trùm lên mọi thứ, từ mặt trời rực cháy đến bàn tay bị bỏng của mình - dù cho như thế, Stan Parker vẫn thấy kém hào hứng với mọi người. Có một tham vọng bất thành được giao tiếp với họ. Nhưng từ trước đến giờ, anh không làm điều đó.
Và lúc này anh lại nói:
- Tôi không biết.
Đúng là anh không biết, dù cho có thể chẳng chóng thì chầy anh sẽ rõ. Các vấn đề tự chúng sẽ giải quyết, như ngày sẽ ló ra từ đêm tối.
- Đó là một lối thoát, - Moriarty nói, gãi bộ tóc cắt ngắn và đẫm mồ hôi.
Nghề của anh ta là dựng hàng rào, một anh chàng khá tốt bụng, nhưng là người chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải nhớ. Anh ta sống một mình trong túp lều làm bằng vỏ cây, phơi quần áo ngoài bụi. Cách đó mấy năm, vợ anh đã bỏ đi với một tay thầu khoán xén lông cừu và không trở về.
- Mẹ kiếp, - Bob Fuller cười vang, cười như say rượu. Và thực tế đúng là vậy.
Rồi cô gái, đang ngồi đánh cốc và lớp da trắng bóng của cô sặc mùi xà phòng, nói:
- Anh Parker ạ, rồi anh sẽ biết. Trông anh sẽ bảnh trai trong bộ quân phục. Tôi rất khoái những con người cao lớn. Họ thường tốt tính. Cách đây độ vài ba năm tôi có qua lại với anh chàng lùn tịt ở Cobar. Chẳng khác gì đi với hàng rào dây kẽm gai. Đấy, tôi nói rồi, cuối cùng sẽ biết thôi.
Nhưng những gì cô ta nói không quan trọng.
Trong quầy rượu của Khách sạn Đường sắt Lớn ở Bangalay, dẫu cho nhiều người đang nói chuyện, chẳng ai nghe ai mà họ chỉ nghe bản thân mình. Họ phải kể tất cả những gì họ biết, tất cả những gì họ đã làm, vì sợ rằng sự im lặng chẳng thể được gì. Vì vậy họ nói chuyện, và một số đã đánh lộn nhau để chứng minh họ can đảm, một người không thể kìm nổi nỗi khổ cực của mình, nó trào lên, và anh ta nôn mửa tới bất tỉnh. Hôm cái tin ấy đến cùng với con tàu hỏa phì phò ở sân ga bên ngoài, những người tại Khách sạn Đường sắt Lớn cảm thấy rất tạm bợ và ngà ngà say, và mùi những toa tàu khiến cho đám đông cảm thấy họ sắp sửa đi đến một nơi nào đó mà họ đã chờ đợi suốt cả đời, và liệu đấy sẽ là đoạn kết khủng khiếp, hay sẽ là khúc dạo giữa hùng tráng, làm nức lòng người cho bản khải hoàn ca, tất cả đều phụ thuộc vào bản chất của mỗi người.
Stan Parker chuồn sau đó một chút rồi đánh xe về nhà. Khi anh đi xuôi xuống ngọn đồi cuối cùng, nhìn thấy những cành liễu khẳng khiu bên đập nước và những con đường quanh nhà mà đôi bàn chân anh đã đi, anh cho rằng mình phải ra trận. Thậm chí anh thắc mắc không biết mình sẽ giết ai, liệu anh có làm điều đó với một lòng tin rằng thế là cần thiết không. Anh thấy cuộc sống mờ dần trên mặt một người, Ted Moriarty. Hay đấy chính là mặt của anh? Cổ vã mồ hôi, anh đánh xe đi tiếp, nhưng giờ đây sự tạm bợ của chính anh lại mâu thuẫn với sự vĩnh cửu của tất cả cảnh vật ở đó, của ong và cỏ, vo ve và nghiêng ngả.
Song anh vẫn là một anh hùng trong giới hạn máu thịt, và khi về đến nhà, anh nhảy xuống xe, nhanh chóng tháo cương ngựa, rồi cảm thấy thế nào mình cũng được khao bánh pudding tuy rằng để lộ ra điều đó chẳng tao nhã chút nào.
Thế nhưng nghe anh kể, vợ anh vẫn tiếp tục cắt bánh mì.
- Khi nào bố đi, hả bố? - Thằng Ray hỏi, trông nó lúc này đã lớn tướng và háo hức muốn biết mọi chuyện, vì thế nó há hốc miệng nghe, không buồn ăn nữa. - Thế bố sẽ mang các thứ từ mặt trận về cho chúng con chứ?
Nó muốn có một thanh kiếm và một viên đạn lấy được của lính Đức.
- Ăn đi, - mẹ nó nói với nó và cả với chồng. - Làm sao chúng ta biết được đây chẳng phải chuyện bịa ở quán rượu?
Nhưng không phải, Amy Parker biết thế, và vì vậy chị đã quăng quật bát đĩa mạnh hơn thường lệ, vùng vằng quét những thứ rơi vãi, sau đó gọi gà qué để quẳng cho chúng những mảnh vụn đáng ghét đó, rồi chị ngẩng lên và thấy quang cảnh đã hồi sinh sau cơn hoạn nạn khủng khiếp đầu tiên và đã lấy lại lớp bóng nhoáng của thiên nhiên. Chỉ còn chị vẫn đứng run lên ngớ ngẩn, phải giấu giếm con cái, ngồi trên tấm mền bông do chị móc lấy ngay sau khi Ray ra đời, để trên cái giường mà chị chia sẻ cùng chồng. Bên ngoài, những tiếng động của buổi chiều vẫn không thay đổi, vậy mà chị nghe thấy cứ buồn rười rượi.
Sau khi Stan Parker đầu quân, đã đến lúc anh phải đi đến trại, mọi người đứng đợi xe ô tô đến đón anh, vì cả chồng chị O’Dowd cũng đi, và một chàng trai đưa họ đến tận làng, nơi tập trung cả những tân binh khác.
Thế là gia đình Parker đợi trên hiên nhà. Họ đứng không nhúc nhích, như hôm đó là ngày Chủ nhật sau bữa ăn tối.
- Bố có được phát chăn ở trại không? - Cô bé Thelma hỏi.
Những thứ đó chẳng gây hứng thú gì cho cô bé, nhưng có những lúc cô thấy thinh thích. Nó là một đứa trẻ gọn ghẽ, thích rửa tay. Nó sẽ chẳng nhớ bố lắm, tuy nó sẽ khóc.
Đúng lúc ấy thằng Ray kêu lên là nó đã nhìn thấy cỗ xe, mà đúng thế, có cả chị O’Dowd ngồi trên đó, đến để an ủi, chị ta nom đầy vẻ khoa trương.
Đã đến lúc phải vội vàng hồi hộp thu xếp vài thứ hành trang. Chân tay mọi người cứng đờ và ngượng ngập, trừ có anh O’Dowd. Anh ta đã mang theo mấy thứ đi đường và miệng hát một bài ca yêu nước.
- Nghe anh ấy kìa, - chị vợ nói, cái mặt to sưng húp vì khóc, không giấu vào đâu được, nên đành chịu. - Chính chị em chúng mình hát mới phải, nhưng chẳng ai biết hát. Nào, đi thôi, các chàng trai, và chúng ta hãy khóc cho bằng thích, rồi thôi, đã gần đến giờ vắt sữa rồi đấy.
Chiếc xe sẵn sàng làm theo lời chị ta, trong khi đó Stan Parker hôn vợ. Sao chị ta lại cứng đơ trong chiếc áo khoác trắng thế này. Có người nói dạo này chị đẫy ra. Chị không béo, nhưng đầy đặn. Và giờ đây, chị đứng vững vàng, đợi thoát khỏi cái sự kiện lớn lao này, vì nếu đợi lâu thể nào chị cũng lâm vào cảnh đó. Nó cũng chẳng khác gì những cuộc ra đi trước bao nhiêu, những lần đi chữa cháy và chống lụt, lưng những người đàn ông biến dần trên xe. Lần này thì chính thức hơn. Vì vậy chị đứng nín thở.
Mọi người đều đứng cả. Trẻ con không đi giày, vì chúng chỉ mang giày khi đi lễ nhà thờ và đi học. Chị O’Dowd lúc này đã hoàn toàn suy sụp. Còn ông lão Fritz giờ dây đã già lắm, chỉ quanh quẩn trong nhà và tối tối ngồi vá áo trước túp lều. Họ đứng vẫy tay mãi sau khi xe đã đi khuất, họ vẫy tay vì họ chưa nghĩ ra mình sẽ phải làm gì tiếp sau đó. Những bàn tay ve vẩy nhẹ nhàng làm cho họ cảm thấy bớt trống trải.
Stan Parker về nhà một lần vào dịp phép trước khi xuống tàu. Hôm ấy trông anh khác hẳn. Tóc anh cắt ngắn cũn, khắp người sặc mùi vải kaki, thậm chí ngay cả khi anh đi quanh nhà, làm những việc trong bộ quần áo thường. Thỉnh thoảng anh ngồi quấn xà cạp cứ như mình thích nghi thức đó, quấn quấn buộc buộc cho đến khi phủ khắp chân. Hơn bao giờ hết anh hoàn toàn khép kín.
- Chắc anh thích mấy thứ lính tráng lắm, - vợ anh nói, giọng chua chát - Không thể nào hiểu được đàn ông họ thích cái gì, ngay cả người mình biết rõ nhất.
- Thế anh phải làm gì nào? - Stan Parker nói. - Húc đầu vào tường à?
- Họ có cho anh ăn no không, anh Stan? - Chị hỏi.
Dẫu sao đồ ăn thức uống vẫn là cái gì ta có thể sờ mó và đề cập tới. Nếu có một vị giáo sư nào đó hay ông nhà giàu nào đó đến, ta có thể quay cho họ một khoanh thịt bò và cảm thấy an tâm.
- Có bao giờ anh bị đói không? - Chị hỏi. - Họ cho anh ăn gì?
- Thịt hầm, - anh trả lời.
Anh nhìn vào miếng đồng anh vừa đánh bóng sáng loáng giữa ánh đèn như thể một vật quý báu. Vì đó là đêm cuối cùng, và vì sự huyền bí của thói lảng tránh, tự hủy diệt mà anh đã lao vào kể từ khi anh mặc quân phục, khiến chị thấy cô độc, nên chị hỏi:
- Có bao giờ anh cảm thấy lẻ loi khi sống trong lều với hàng lô hàng lốc những tên đực rựa không?
- Làm thế nào mà cảm thấy lẻ loi được, - anh nói một cách tàn bạo, - khi những suy nghĩ của mình gắn liền với những suy nghĩ của anh bạn kế cạnh mình, tất cả đều nhét chung một chỗ? Thậm chí cả trong nhà tiêu.
Anh đứng dậy đi ra ngoài nhà. Đó là một đêm lạnh đầy sao. Anh đi lại cái chỗ cái gò nhỏ bên kia nhà, trên có mấy cây bạch đàn, ánh sao rung rinh trên cành lá. Rồi cả anh cũng thấy lạnh run lên, vỗ đen đét vào da thịt, anh tựa người vào một thân cây, nhưng chẳng tìm được sự nâng đỡ. Nhẽ ra anh phải cầu nguyện, nhưng lúc ấy anh sợ sẽ không được đáp lại, mà cũng chẳng biết lời cầu nào.
Vì vậy anh trở về với vợ, đó là tất cả những điều chắc chắn mà anh có được, và chị đón anh với một lòng tin. Họ quấn chặt lấy nhau như bị nhấn chìm trong bóng tối và ít nhất họ cùng chìm với nhau. Khi đã xuống tận đáy rồi, họ chẳng màng gì nữa.
Sau khi Stan ra đi, cùng với những người tân binh khác, trên chiếc xe công cộng đến tận Bangalay giữa nước mắt và tiếng hoan hô và lá cờ con mà bà Gage, người đã treo lên trên trạm bưu điện, Amy Parker phải mất một lúc mới nhận ra được những gì đã xảy ra. May sao, chị đã không khóc, chị còn đàn bò và con cái. Chị lao ngay vào bất cứ những việc gì cần phải làm, và cứ thế đều đều, hết ngày này qua ngày khác cho đến khi cơ bắp rạn nứt ra trên tấm lưng rộng và khuôn mặt tách biệt của chị gặp chính mình trong gương vào lúc ban đêm với chút ngỡ ngàng.
Chị O’Dowd, nhà có cái cổng chào đã đổ kể từ khi đàn ông ra đi, đã nói rằng mọi việc phụ thuộc vào chị em phụ nữ. Chị vô cùng tử tế với hàng xóm láng giềng, bất luận là việc gì, và sẽ đến ngay nơi nào có khoai tây cần dỡ, hoặc giữ bò cái cho bò đực nhảy. Hoặc mọi người đều đến nhà Quigley để thu hoạch cam hay làm việc lặt vặt. Doll đứng giữa những cọc rào gỗ mà mọi người đã đóng đinh, mỉm cười, đếm, rồi lại mỉm cười với nụ cười khô khốc. Thậm chí cả cậu Bub cũng học làm được mấy thứ đơn giản, nhưng cậu ta bị ám ảnh trước những lời bông đùa về chiến tranh, cậu ta hí lên một tiếng cười giả làm tiếng súng nổ. Có lần cậu ta tuyên bố mình đã chết, và thế cũng chưa phải tệ lắm.
Dẫu sao phụ nữ và trẻ em ở Durilgai sống yên lành và ngay từ đầu đã sáng ngời những đức tính mà họ phấn khởi phát hiện ra trong bản thân họ. Thằng Ray đã bắt đầu vắt sữa. Nó kéo dài đầu vú cứng trong bóng tối mơ màng, đầu ngủ tựa vào cái bụng đầy căng của con bò.
- Ối giời, con mệt lắm, mẹ ơi, - đến đêm Ray nói thế.
Chị hôn thật kêu vào cái miệng đầy đặn của con mình. Bộ mặt nghiêm nghị của Thelma nhô lên bên trên một cái bít tất, con bé trông ít thất vọng hơn và tỏ ra âu yếm hơn, rồi nó cầm lấy cái bít tất vá. Amy Parker thời gian này phải làm nhiều việc như vậy. Chị hãy còn khỏe bởi vì sự yếu đuối của chị chưa bị bộc lộ.
Thế nhưng vào thời gian này mọi người bắt đầu chú ý đến lão Fritz, người đã sống cùng với họ hàng bao năm nay, mệt mỏi và đi rồi lại về, chẻ củi, làm gà vịt, hay tráng nước sôi can sữa, nhổ cỏ quanh những cây hướng dương. Giờ đây lần đầu tiên mọi người đã để ý đến ông lão Fritz. Lão tọp hẳn người kể từ khi có chiến tranh, như thể lão ốm hay bị gì đó. Lão vẫn bổ củi, rồi vào nhà. Lão không còn ngồi bên ngoài, mà ở trong túp lều, cũng không phải gian bên cửa sổ, mà ở gian bên cửa hông, lão ngồi đó, một mớ xương cốt và chút vết tích sót lại của da thịt già nua.
Có lẽ lão Fritz sắp chết, Amy Parker bắt đầu thấy sợ với linh tính đầu tiên.
Nhưng lão Fritz không được phép chết, lão còn phải quằn quại đau đớn lâu. Cặp mắt nhìn xuống của lão biết rõ điều đó.
Mọi người vào đến sân đều cố nhìn lão Fritz của nhà Parker một cái. Nhẽ ra họ phải nạy tung bộ mặt lão và lọc ra những suy tư của lão nếu họ táo tợn hơn. Nhưng vì không thế nên họ tỏ ra ngây thơ hoặc nhíu mày nhìn một cách ngây ngô.
Sau đó, Amy Parker từ nhà máy bơ ở Orwell trở về, nơi họ chở kem đến, đã gặp Ossie Peabody đang cưỡi con ngựa lông bù xù. Ossie dừng lại nói chuyện về thời tiết vì như thế nhã nhặn hơn. Anh ta là người sắc sảo, nói chuyện hợp lý lẽ. Anh ta không đăng lính, dĩ nhiên với lý do bố mẹ già yếu và không biết chết lúc nào mà vợ anh ta lại ốm kể từ khi có tai họa đó. Anh ta sẵn sàng đưa ra những lý do đó và nhiều lý do khác nếu mọi người có hỏi tại sao anh ta không đi, nhưng chẳng ai hỏi vì họ đã quên mất Ossie Peabody. Anh ta là hạng người không đáng nhớ. Đôi mắt anh ta đã mờ đi kể từ những ngày trong sáng xưa khi mọi người cùng nhau đến Wullunya cứu lụt.
- Cái lão già người Đức của chị, chị Amy ạ, - Ossie Peabody nói khi anh ta vào đề, - rất lạ là chị nuôi lão ta trong những ngày này đấy, một tên Đức mà. Tôi nói vậy thôi, vì mọi người thắc mắc, mà Stan lại không có nhà.
Amy Parker ngạc nhiên trước ý nghĩ đó, và đôi mắt chị biểu thị ngây thơ đến mức Ossie Peabody cảm thấy hài lòng. Anh ta đã xâm phạm thành công.
- Tôi mà còn bố thì chẳng bao giờ tôi đuổi ông cụ đi cả. - Amy Parker nói, - tôi chẳng hiểu mấy vấn đề đó. Nhưng bác Fritz là một người rất tốt.
- Dĩ nhiên chuyện này tôi chẳng quyết định được. - Ossie Peabody mỉm cười nói.
- Chẳng ai trong chúng ta quyết định được cả, - Amy Parker nói, giục ngựa đi. - Mà là do bác Fritz.
Nhưng giờ đây chị không tin chắc về cuộc sống của mình.
- Phụ nữ, - chị O’Dowd, người thích trừu tượng hóa trong những phút giây mơ màng, đặc biệt là sau khi uống một chén trà nói, - phụ nữ chỉ là một nửa nếu không có đàn ông. Chính đàn ông là người làm tròn trịa cái hình, ngay cả những người đàn ông mà một số chúng ta đã có đi nữa, họ biết chúng ta nên biết bao nhiêu là vừa, là đúng. Chỉ biết điều gì đó đúng là không đủ, nếu như ta không thêm hoặc bớt một chút gì đó để có được câu trả lời cuối cùng. Chị có hiểu tôi nói gì không, chị Parker?
Nhưng chị Parker không chắc.
- Có nghĩa là lão ấy phải đi, Amy ạ, vì chồng con chúng ta bị lưỡi lê đâm vào bụng, và những đứa trẻ vô tội đã chết vì những tên Đức bẩn thỉu đó, tôi sẽ nhổ vào mặt chúng bất cứ lúc nào, kể cả ngày Chủ nhật.
- Không! - Amy Parker kêu lên.
Nhưng mọi chuyện đã được quyết định.
Đó là một ngày mưa. Ông lão, bộ mặt hiền lành nay hoàn toàn bị tàn phá, đi qua sân chẻ vài thanh củi, bởi vì nếu có thể làm việc chút ít ông sẽ thấy đỡ tê cóng. Và dưới mưa phùn lũ trẻ đứng túm tụm quanh, hò hét, đẩy nhau và nói cho nhau nghe những điều bí mật và để giết thời gian. Bọn trẻ trở nên hung dữ vì buồn chán và mưa. Chúng chỉ muốn đập phá cái gì đó, nhưng chúng không đủ can đảm để đập vỡ kính, hoặc cầm rìu bổ vào nhà. Vì vậy chúng bắt đầu bắt chước cha mẹ huých khuỷu tay và nói chuyện về lão người Đức của gia đình Parker, rồi cười và thì thầm.
Thằng Ray và con bé Thelma đi quanh quẩn, tách khỏi bọn trẻ khác, lấy ngón chân đá bùn và cảm thấy xấu hổ. Ông ấy là một ông lão tốt bụng, bọn chúng yêu ông ấy, biết là thế nhưng chúng cũng bực mình về việc vì ông mà chúng bị sỉ nhục. Trong cơn tự ái bừng bừng bọn chúng còn căm ghét lão hơn bất cứ ai.
Rồi các cậu bé bắt đầu hò hát:
Fritz tên người Đức
Fritz tên mọi Đức
Hãy đợi đến lúc
Lão ta phải cút…
Bọn chúng cười ngặt nghẽo.
Có đứa bé nào đó bắt đầu ném những nắm bùn đỏ nhỏ tí đánh bẹt vào lưng ông già.
Ta chẳng bao giờ
Để lão già Đức
Thằng bé Jackie Holloway hát, một đứa hát thơ vần rất giỏi.
Có đủ thì giờ
Mặc quần cài cúc
Pháo tống ta đặt
Dưới đít lão nào
Pháo nổ một phát
Đưa lão vào lao.
Bọn con gái mặc áo chui, bọn con trai đầu gối củ lạc ghẻ lở cười vang. Cô bé Eileen Britt nấc lên vì cười nhiều quá, cúi người, lấy một nắm bùn to, và cười khúc khích ném đánh bẹt vào giữa tấm lưng của ông lão khi lão quay đi nhặt nhạnh mấy thanh củi nhóm lửa ở trong túp lều gỗ.
Lão quay lại. Người lão trắng bệch trông như tờ giấy. Lão không phản ứng. Người lão không còn một giọt máu. Lão đi về phía lều, chệnh choạng, trông lúc này đến là buồn cười và đáng ghét.
Vài đứa trẻ thấy hối hận hoặc sợ phải đối mặt với lão, nên chúng yên lặng. Còn những đứa kia vẫn tiếp tục la hò.
Tất cả đều đầy phẫn nộ, và Ray Parker đang thở hồng hộc, mồm mở to ra vì kích động hay vì khinh bỉ, cậu ước gì mọi việc đã không xảy ra, và lo rằng điều tồi tệ hơn sẽ đến. Người nó bóng nhẫy mồ hôi và hào hứng khi nó nhặt một hòn đá ném trúng môi lão Fritz. Bọn chúng nghe thấy tiếng hòn đá nện trúng răng ông lão. Rồi máu chảy ứa ra, nhỏ giọt xuống chiếc cằm sạch sẽ của ông lão. Thằng Ray hoảng sợ, nhưng nó đã tự giải thoát cho mình, giờ đây nó có thể căm thù ông lão người Đức mà nó đã yêu, và chắc chắn đứng về phía lũ trẻ.
Lão tiếp tục bước qua sân vào lều, và bọn trẻ giải tán trong im lặng, dưới trời mưa, và không hiểu liệu chúng có nên quên những gì đã xảy ra. Chúng bị giày vò giữa lòng kính trọng đối với ông lão và sự khích động cùng bản chất yêu nước của hành động thằng Ray làm, mà trong đó đứa nào cũng đều tham dự.
Khi Amy Parker đi ra ngoài nhà xem chuyện cãi cọ ầm ĩ ra sao, tuy lúc đó chỉ còn im lặng và mưa. Chị thấy ông già người Đức ngồi trên những túi đựng rơm dùng làm đệm giường.
- Sao, vậy, bác Fritz, - chị hỏi. - Có chuyện gì thế bác? Bác có sao không?
- Không, - bác ta trả lời, - tôi không bị đau nữa. Nhưng tôi phải đi khỏi đây thôi, - bác ta nói, - tôi ở lại đây bây giờ không tốt cho cả hai chúng ta.
- Không, bác không được đi, - chị nói.
Chị đứng, xoay cái nhẫn bất lực, như một cô bé gái đeo nhẫn cưới, sờ vào nó và mơ ước đến ngày trưởng thành chưa đến.
- Không, tôi nhất định phải đi, - lão thở dài.
Chị phân vân không biết nên nói gì để an ủi lão, nhưng chị biết rằng chẳng có gì trong căn buồng gỗ này.
Vậy là hôm sau Amy Parker đánh xe đưa lão Fritz đến Bangalay. Lão mặc một bộ đồ đen nhã nhặn nhưng hơi mỏng, lão có một valy, quanh buộc dây da, và một túi bằng da thú, trong đó nhồi nhét đủ các thứ cồng kềnh hoặc mềm mại. Chị ngồi đánh xe, nhưng con đường là một thành phần tích cực trên chuyến đi đó, họ chỉ việc đi trên đó cho đến khi nó chấm dứt, và con đường đôi lúc cũng làm giảm nỗi đau bằng tính đơn điệu và độ dài của nó.
Tuy nhiên khi họ đến rìa thị trấn, nhìn thấy toàn những hộp sắt tây vứt rải rác và những con dê có buộc dây, chị bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, vì rõ ràng là mọi thứ đều sẽ phải kết thúc.
- Bác muốn tôi đưa bác đi đâu, bác Fritz? - Chị hỏi vung chiếc roi da, lòng bối rối khôn cùng.
- Đi đâu cũng được, - ông già nói. - Tôi xuống được mà. Đâu thì cũng vậy thôi.
- Nhưng phải đến đâu đó chứ, - chị nói, cố giấu đi giọng nói bị lạc hẳn.
Lão không trả lời. Lão vân vê chiếc huy chương trên sợi dây đồng hồ đã bạc màu, sờ vào chỗ chữ khắc do dùng lâu không còn đọc được. Khuôn mặt lão cũng thế, không sao lý giải nổi và đang bước vào một tình trạng thuần khiết mãnh liệt ban sơ, tình trạng bay bổng.
- Thôi được rồi, - lão nói, tay vịn vào thành xe.
Lúc đó xe họ đã đi sâu vào thị trấn và đã bị cuốn hút vào cảnh phù hoa của nó. Họ đến gần chợ. Những người đàn bà vàng ệch da đóng vẩy đang mua vịt. Tiếng bò rống lên tuyệt vọng. Một chiếc xe chòng chành chất đầy bắp cải thành hình kim tự tháp cùn vẹt ở đỉnh.
- Xin cảm ơn chị, - lão thì thầm, còn chị thì không dám nói lên lời.
Sau đó chị nhìn thấy lão đứng trên mặt đường với đống hành lý, chị vội nhảy xuống nắm lấy tay lão.
- Ôi, bác Fritz, - chị khóc, nghe như tiếng chim tuyệt vọng đang bị dao kề cổ.
- Tạm biệt, cô Stan, - lão Fritz nói, rụt tay lại vì lão cũng không biết làm gì khác.
Rồi lão đi sang phố hẻm chị không rõ là phố nào, và chị không còn gặp lại lão nữa.
Chị đứng khóc than cho một thế giới đã bị mất đi. Giờ đây, cơ cấu cuộc sống chị bị lung lay, chị thấy mình đầy đau khổ, đau khổ hơn cả lúc hôn tạm biệt với chồng, người mà đương nhiên chị yêu, bằng tinh thần êm ái và sự hấp dẫn của xác thịt, chị đã yêu và chị sẽ yêu anh. Nhưng chị cũng yêu ông lão người Đức vì lão đã mang cho chị sự thỏa mãn của ánh ban mai, với tiếng lanh canh ầm ĩ của mấy cái xô cứng đầu, vì những giờ uể oải của ban trưa, khi lá cây đung đưa và những con gà mái mơ màng trong cát bụi, vì những giờ buổi tối với gương mặt của nó là một hoa hướng dương tàn lụi. Tất cả những cái đó đã mất rồi.
Vì vậy chị khóc nức nở, nghiêng hẳn người, trông đến buồn cười, trên cái ghế của chiếc xe ngựa, tóc xõa xuống, và những con nhặng nhỏ xanh xanh gần như bâu vĩnh viễn vào chiếc lưng sẫm màu của chị. Khách qua đường đều nhìn chị và không hiểu tại sao chị lại xúc động làm vậy. Có gì đó gần như tục tĩu ở người đàn bà khỏe mạnh khóc sưng cả mắt trong ánh nắng ở nơi công cộng kia.
Một cậu bé mang một chiếc dây thòng lọng, bước đi vững chãi, cười khẩy và hỏi:
- Có chuyện gì vậy bà?
Nhưng khi thấy chị vẫn khóc, nó đâm sợ, nhận ra đây không phải là một cơn đau răng, mà là nỗi đau nó chưa hề thể nghiệm. Vì thế nó đi tiếp và không nhìn lại.
Một lát sau, chị ngồi ngay ngắn, vấn tóc lại xì mũi và rẽ ngựa, vì chị phải lấy lại quyền lực toàn năng trong nhà mình.
Những hòn đá nằm đầy đường đến Durilgai đến là độc ác.
Ở một điểm trên đường chị gặp Bub Quigley và đón nó lên xe. Nó có vẻ hài lòng.
- Giờ thì tôi chỉ có một mình, Bub ạ, - Amy Parker nói.
- A, - nó nói, kinh ngạc nhìn chị, cứ như nó chẳng mong gì khác. Nhưng nó không nhìn thấy mặt chị vì chị ngoảnh đi nhìn về phía đồng quê, hoặc nhìn vào bản thân mình.
- Bác Fritz đi rồi, - đôi vai rụt lại của chị nói.
- Thế ai sẽ bổ củi? - Bub hỏi.
- Ồ, tất cả chúng ta sẽ làm, - chị nói.
- Em không thích bổ củi đâu, - Bub nói, - thà để chị em làm, cho em được tự do.
Cái cậu trai không tuổi này là người duy nhất tự do, Amy Parker nhận ra thế. Nó là người duy nhất được hưởng ơn Chúa ban. Trong giây lát, chị nghĩ rằng mình phải cầu Chúa, nhưng chị đã mất lòng tin hoặc giả đã đặt lòng tin của mình vào sức mạnh và lòng nhân từ của chồng.
- Trông kìa, - Bub nói, chỉ bâng quơ khắp nơi. - Mọi vật đã xanh lại rồi. Chưa bao giờ xanh đến như vậy sau khi cháy rừng. Đây là những cây dương xỉ trong thung. Thỉnh thoảng em nằm ngủ trên đám dương xỉ đấy và chị em nổi nóng vì em không về nhà, nhưng dĩ nhiên em về đúng giờ. Không thể ở đó mãi được, sẽ bị đói ngay.
Đúng vậy, chị nhận ra, bản thân chị hoàn toàn trống trải.
- Em biết có những con cáo non ở trong một bọng cây đấy. Em có một tổ chim.
Lòng chị mở rộng mênh mông, trong một cõi trống trải, nhưng Bub đã lấp đầy chị bằng cảnh núi đồi và thung lũng, những sợi lông tơ của bầy chim, và những cành dương xỉ thơm dịu.
Một lát sau Bub nói:
- Cho em xuống đây chị ơi. Em xuống chỗ lũ cáo. Chính chỗ này đây.
Khi chị cho Bub xuống xe, nó chạy lao xuống dốc, hai bàn chân lạch bạch trên đất, hai cánh tay vung vẩy để giữ cân bằng.
Còn Amy Parker tiếp tục đi, qua miền đất tươi tốt và ngây thơ của nỗi cô đơn sầu muộn trong chị. Cuối con đường các con chị đang đứng đợi chị cố lấy lại sức mạnh mà chúng mong đợi, đàn bò không ngờ vực gì, đàn gia cầm chạy ùa về phía chị, chúng cảm thấy bàn tay chị sẽ chìa ra từ trên cao.
Hình như cuộc sống của chị đã được an bài, và chị vui mừng. Chị vui mừng vì căn nhà dù trông nó mỏng manh hơn trong ánh nắng xế chiều, đứng giữa bụi hồng tơi tả và những khóm trúc đào vững chắc mà chị chẳng ngó ngàng gì đến.