Tôi biết giá trị của thành công: cống hiến, làm việc chăm chỉ, và sự hy sinh không cần bù đắp cho những việc bạn muốn nó xảy ra.

Frank Lloyd Wright

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 201 / 19
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:02 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13
RÔNG CHỊ CÓ VẺ muốn đi thuyền một chuyến đấy. - Mac McLeod đứng trên hiên nhà tôi vào sáng Chủ nhật, mỉm cười chỉ bằng ánh mắt.
- Tôi tự biết mình muốn ngủ thêm ba tiếng nữa, - tôi càu nhàu.
- Xin lỗi. Cả tuần chị không đến Bailey nên tôi tính chạy qua xem chị thế nào.
- Mãi đêm thứ Hai tôi mới về. Từ bấy đến giờ cố lết trở lại vòng xoay cũ.
Anh bật cười trước điệu bộ cà khịa của tôi.
- Thôi nào, chị thay đồ đi. Chúng ta chỉ chạy lên mạn Bainbridge rồi về thôi. Cứ thả mình theo dòng chảy, tâm trạng của chị sẽ khá hơn. Ít nhất có tác dụng với tôi.
Chúng tôi mua cà phê ở chợ, đi bộ dọc First Avenue, qua mấy cửa hàng bán băng đĩa phim người lớn, sách cũ, thảm phương Đông với giá rẻ-như-cho, qua những người vô gia cư áo quần lấm lem, ngủ chập chờn trên các bậc thềm. Anh kể cho tôi biết biệt danh của tất cả các tòa nhà chọc trời. Tòa Washington Mutual là Tua Vít Bốn Cạnh, Fourth & Blanchard là Darth Vader. First Interstate là Ống Hút Bụi, Century Square là Lăn Khử Mùi.
Trời lạnh khi ra đến mép nước. Cầm cốc cà phê trong tay thật dễ chịu. Ở cầu tàu Colman, chúng tôi lên chiếc Spokane với vài hành khách khác, và đứng dựa vào lan can khi con tàu rời đi. Gió vẫn cuộn lên những đỉnh sóng trắng, nhưng mây đã rạn ra và mặt trời thò những ngón tay dài xuống nghịch nước.
Chúng tôi đứng ở mạn đuôi tàu, tránh gió buốt trong một góc kín ở boong hành khách. Con tàu rung rung khi động cơ hoạt động, mũi thuyền rẽ nước và để lại một dải bọt trắng chạy ngược lại phía cấu tàu. Tôi bám vào lan can.
- Kể chuyện cho tôi nghe đi.
- Về gì? - Mac hỏi.
- Gì cũng được. Chắc anh đã nghe nhiều chuyện thú vị khi ở chỗ làm.
Anh khẽ cười khô khan.
- Thế là trắng trợn vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Vậy kể về anh đi. Chuyện Gillian nhé.
Một con chim mòng biển chao cánh qua, ngơ ngáo nhìn chúng tôi.
- Tôi nghĩ chuyện đó không...
- Đi mà, làm tôi xao lãng là được.
- Thôi được. - Anh kéo mũ sụp xuống trán. - Khi ấy tôi đang vẫy xe xin đi nhờ từ Auckland đến Wellington. Một người đàn ông đi chiếc Land Rover cà tàng đã cho tôi lên xe. Ông ấy nhìn tôi rồi hỏi tôi có muốn kiếm chút đỉnh không. Thực ra lúc ấy tôi cũng đã hết đạn dự trữ, nên mừng như được mùa. Ông là chủ một trang trại nuôi cừu và họ đang vào mùa xén lông cừu. Chẳng rõ vì sao một lán bị bắt cháy, và lửa lan sang nơi khác. Nhà chủ trại và những người làm công thông thường không thể bỏ ngang vụ xén lông để xây dọn lại, cho nên họ tìm người giúp việc xây dựng, đổi lại sẽ được bao ăn ở và thêm chút thù lao. Tôi tính sẽ ở lại làm một, hai tuần rồi đi tiếp. Thế là tối hôm ấy chúng tôi cùng ngồi ở một bàn dài ăn tối, khoảng tám đến mười người, và một cô tre trẻ đến giúp mẹ dọn bàn. Đó là con gái người đàn ông đã cho tôi đi nhờ.
- Trông cô ấy thế nào?
- Không xinh. Thực ra không hẳn là kiểu chị coi là xinh đẹp. Tóc nâu, mắt xanh lam. Cao. Tay chân dài. Cô ấy có vóc dáng của những người lớn lên cùng công việc lao động vất vả... - Anh mỉm cười. - Nếu chị nhìn, cô ấy sẽ nhìn ngay lại, trông như cô ấy muốn hiểu về chị. Thoạt đầu tôi không chú ý nhiều đến cô ấy. Hàng ngày cô ấy đều ở đó, phụ mẹ việc nọ việc kia. Rồi một hôm cô ấy không đến và tôi nhận ra mình tìm kiếm cô ấy ở mỗi bữa ăn. Cô ấy đi mất một tuần, và trở lại vào buổi sáng tôi rời đi. Thực ra, tôi đang đi ra xe thì một chiếc ô-tô dừng lại và cô ấy bước ra. Chúng tôi chỉ đứng nhìn nhau trên đường đi. Cô ấy mỉm cười. Tôi quay lưng, trở lại lán thợ và dỡ hành lý ra. Cuối cùng tôi ở lại đó thêm sáu tháng nữa.
- Chúa ơi, lãng mạn thật. - Tôi nắm lấy lan can, ngả người về sau. - Vậy chuyện gì xảy ra tiếp theo?
Anh quay lại, lưng dựa vào cột kim loại có neo một trong các thuyền cứu sinh. Qua vai anh, núi Rainier thò đỉnh đầu đội tuyết qua một vòng mây trắng.
- Chẳng gì cả. Cô ấy muốn làm đám cưới, sinh con, nuôi cừu. Tôi không muốn, vậy tôi ra đi.
Gió kéo một dải tóc vắt ngang mặt tôi, anh cài nó lại ra sau tai tôi, cẩn thận không chạm vào mặt tôi.
o O o
Chúng tôi xuống tàu tại bến Winslow, mua kem ở một quầy lưu động trong khu đỗ xe. Chúng tôi đứng đó, rét run và cười ha hả vì lạnh mà vẫn muốn ăn kem. Anh hỏi tôi thích vị kem nào.
- Rocky Road, - tôi đáp không lưỡng lự, cũng không cần suy nghĩ.
Tôi vụt nhớ lại vô cùng sống động, mẹ và tôi đứng dưới vòm bạch đàn cạnh cửa hàng tạp hóa Sebastian nhỏ xíu bên đường cao tốc số 1 ở San Simeon. Hai mẹ con ăn kem ốc quế Rocky Road còn bố chụp ảnh chúng tôi. Rặng đồi vàng óng và những ngọn tháp của lâu đài Hearst làm nến ở phía sau. Tôi thấy cái nóng tháng Tám dập dờn trên mặt đường, và nghe mùi bạch đàn hăng hăng ngai ngái.
- Chị sao thế? - Mac nhìn tôi.
Tôi ngoảnh mặt ra bến tàu.
- Chắc tàu sắp rời đi rồi.
o O o
Đi qua cửa quay ở Colman Street, cuối cùng anh nói:
- Vậy đám cưới thế nào?
Một tiếng thổn thức không nén nổi, và thế là nhà máy nước xả van. Già đi là như thế này đây.
- Như thế dễ chịu hơn, phải không?
Anh vòng một tay quanh tôi và để tôi khóc tèm lem cái áo sơ-mi vải flannel dặm lông, có mùi như những cây thông của anh. Anh vỗ nhẹ lên lưng tôi một chút, nhưng rất thận trọng, như thể người tôi dính đầy thứ gì đó và anh không muốn bị dây sang anh.
Mac đưa tôi khăn tay của anh, không phải thứ lanh trắng tinh là gấp phẳng phiu David thường mang, mà là một chiếc to sụ màu xanh da trời. Trong khi tôi cố lau mặt và nén cơn nấc cụt, anh nắm khuỷu tay tôi và lái tôi ra thang máy.
- Mình đi bộ quay lại chợ nhé.
Trên đường đi, tôi rút ruột kể hết. Tôi kể với anh từng tiểu tiết tủn mủn nhất, từng sắc thái tởm lợm của cả cuối tuần đó. Rằng mẹ con tôi châm chích nhau, tôi say khướt, lên giọng té tát với Gary và quẳng mấy thùng đồ của Howard cho lao cầu thang không phanh, hạ cánh ngổn ngang trên sàn.
Tôi nói những điều mà chính tôi chưa từng ý thức được, cho đến khi miệng cứ tự động nói ra. Chẳng hạn, tôi nghĩ tổ chức tiệc cưới trong ngôi nhà bố mẹ tôi từng chung sống thì có khác gì tát thẳng vào mặt bố tôi đâu. Tôi kể với Mac rằng David đã quyết định cho tôi thôi việc, tôi có cố giở mĩ nhân kế ra cũng không ăn thua. Tôi kể về CM và màn tạm biệt nhau tối hôm qua của bọn tôi. Mac chỉ đi bên tôi, hai tay đút trong túi áo khoác jeans, gót đôi ủng chăn bò dận từng nhịp trầm trầm theo mỗi bước chân. Anh không thốt ra lời nào, âm thanh nào biểu lộ thông cảm, bất bình hay tức giận. Tôi chợt nhận ra đó chính là lý do vì sao tôi có thể kể tất cả câu chuyện cho anh chứ không phải với CM. Hẳn là CM sẽ cực kỳ thấu hiểu và nổi cơn tam bành một cách rất chính đáng, sẵn sàng bay ngay đến Los Angeles và đá một cú trời giáng vào háng David. Còn Mac chỉ để yên cho tôi xả ra.
Kể xong hết cũng đã gần năm giờ, tôi hỏi Mac xem anh có muốn đi ăn pizza hay món Thái không, tôi mời.
- Tôi muốn đi chứ, - anh đáp, - nhưng tối nay tôi có chút việc phải xoay rồi, nên xin phép chị nhé.
Đàn ông. Thế quái nào anh không thể nói thẳng phắt rằng anh đã có một cuộc hẹn hò tối nay? Và tôi quan tâm gì chứ? Tôi mời chỉ vì anh đã sắm vai anh bảo mẫu cả chiều nay thôi.
o O o
Về đến nhà, tôi ngồi xuống và gọi điện ngay cho CM. Một giọng nam nghe điện thoại, “Xin chào”, tôi tưởng mình đã gọi nhầm số. Rồi trí nhớ và nhận thức va vào nhau trong đầu tôi. Đó là anh Neal. Đây là cuối tuần có buổi xê-mi-na của anh.
- Ồ, Wyn đấy à, chào em, - anh hồ hởi nói. - CM ngay đây, đợi một phút nhé, cô ấy đang lau tay.
Chắc CM đã nấu bữa tối và dọn rửa bát đĩa trong khi Neal ngồi trên cái mông xương xẩu của anh ta, đọc luận thuyết nào đó chẳng mấy ai quan tâm và hiểu nổi về tác động tâm lý học xã hội của xước măng rô.
- Tôi quên mất đây là cuối tuần đặc biệt, - tôi nói khi CM nhấc ống nghe.
- Có gì đâu. - Giọng CM vẫn như mọi ngày. - Bồ thế nào?
- Tôi bình thường. Chỉ gọi để xin lỗi bồ tối hôm trước tôi đã lên cơn vô lý, nhưng...
- Không sao đâu mà, - CM quả quyết. - Tôi sẽ gọi lại sau rồi mình nói chuyện nhé.
Đây có lẽ là cuộc nói chuyện ngắn nhất giữa CM và tôi.
o O o
Chiều thứ Hai, nó ở đó khi tôi mở hộp thư báo, cái phong bì màu trắng với địa chỉ người gửi là một hãng luật ở Beverly Hills.
- Mi đây rồi, - tôi nói với nó. - Ta đang chờ mi đây.
Một trong những ích lợi lớn khi sống một mình. Có thể nói chuyện với đồ vật vô tri mà không sợ bị người khác nhòm ngó.
Tôi xé mở phong bì, lướt qua vài trang bản hùng ca pháp lý. Xem ra luật chơi là thế này, nếu một người nói hôn nhân tan vỡ, thì nó vỡ. Bất kể người còn lại nói gì. Có vẻ không công bằng lắm. Chúng tôi đều phải nói “Tôi đồng ý” để kết hôn, nhưng giờ chỉ cần anh ấy nói “Tôi không đồng ý”.
Đội quân màu xám vô diện gồm các nhà lập pháp, thẩm phán, luật sư và nhân viên tư pháp, những người, bằng trí tuệ vô hạn định của mình, đã tạo ra hệ thống tư pháp của chúng ta, và rõ ràng đã quyết định rằng ta sẽ không muốn ràng buộc một người với mình khi người đó không muốn bị ràng buộc. Cho nên không còn cần phải chứng minh bệnh thần kinh, hoặc lạm dụng chất kích thích, hoặc không chung thủy, hoặc không có khả năng nuôi dưỡng, hoặc bỏ rơi con cái. Tất cả những gì cần làm là nói “Tôi không đồng ý”, và bắt đầu chia tài sản. Đại khái là triệt tiêu những phần vui nhất. Không còn phải thư đi từ lại, không cần khởi kiện bên thứ ba, không cần hồ sơ bệnh án hoặc xác nhận chuyên môn của các bác sĩ tâm lý có tên tuổi. Chỉ cần “Tôi không đồng ý”.
Tôi gấp tập giấy, cất lại vào phong bì.
o O o
Mỗi buổi chiều khi tỉnh dậy, tôi đều nghĩ phải gọi điện cho Elizabeth. Nhưng tôi biết một khi làm như vậy, đó sẽ là phát đại bác khơi mào trận lở tuyết. Toàn bộ thế giới của tôi sẽ trở thành mớ hỗn độn những phế vật, trượt dốc không phanh và không thể đảo ngược được. Không biết tôi đã chây ì trì hoãn bao lâu, nhưng khi tôi vẫn còn dùng dằng, thì chị ấy gọi điện cho tôi.
- Chào chị Wynter, tôi Elizabeth Gooden đây.
Tôi không thể ngăn nổi. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là bố từng kể với tôi, cá mập có thể lần theo những xung động rất nhỏ của một con cá bị thương đang quẫy đập bất thường trong nước. Rồi tôi thấy tự hổ thẹn. Elizabeth chỉ đang cố giúp tôi thôi.
Tôi chưa kịp nói rằng đã nhận được giấy tờ gửi đến, Elizabeth đã thông báo:
- Giám định viên của chúng tôi tìm thấy đăng ký đặt phòng tại mấy khách sạn khá đắt đỏ ở Cancun, Scottdale, và San Francisco. Tôi sẽ gửi chị ngày tháng, và chị xác nhận cho tôi xem chị có đi cùng chồng chị chuyến nào không.
- Tôi có thể nói với chị ngay là từ ít nhất ba năm trở lại đây, tôi không hề đến Mexico.
- Thú vị thật. Cancun là chuyến gần đây nhất.
Tôi cắn môi.
- Khi nào?
- Để tôi xem, chuyến đó... tháng Mười hai năm ngoái. Từ mười lăm đến hai mươi tháng Mười hai.
Giống như bị cái khăn bông ướt sũng quật trúng mặt. Sinh nhật tôi. Cuộc họp với khách hàng quan trọng anh cần dự.
- Và đặt phòng cho... hai người ư?
- Ông và bà Franklin.
Nỗi đau nội tại bị đột biến thành cơn thịnh nộ nóng chảy, tràn ra và lấp kín từng khe mạch nhỏ trong cơ thể tôi. Chắn chắn nó sẽ tứa ra khỏi tôi, như một sản phụ đang vỡ ối.
- Wynter? Chị ổn cả không?
- Vâng.
Không chỉ vì anh đã nói dối, lặp đi lặp lại và kéo dài hàng tháng trời, mà vì tôi đã tin anh. Từ rất lâu trước lúc lẽ ra tôi cần đặt câu hỏi. Tôi đã nguyện ngây thơ. Tôi đã ngu ngốc.
Tôi nhớ mấy năm trước đã đọc tin một phụ nữ ở Malibu giải quyết cuộc li hôn dằng dai bằng cách xả đạn liên hồi vào chồng và bạn gái của anh ta khi cả hai đang ngủ. Tôi vẫn luôn tự hỏi điều gì đã dẫn cô ấy đến thời khắc quyết định đó. Giọt nước cuối cùng là gì? Cảm giác bẽ bàng chăng? Hay đó là cơn bốc đồng bột phát? Anh biết sao không Jack? Tôi sẽ không chịu đựng đống nồng nặc của anh thêm một phút nào nữa. Và lao ra khỏi cửa với khẩu súng ngắn của cô ấy.
Lúc này đây tôi đặc biệt tò mò vì, trong khi ý định lập tức trở nên rõ ràng, tôi không nhớ mình đã từng đắn đo cân nhắc vấn đề. Không có đấu tranh tư tưởng, không vạch hai cột “Nên” và “Không nên” trên giấy. Dường như cũng không có bất cứ cứu viện nào. Khi bị buộc phải chiến đấu, ta sẽ dùng bất cứ vũ khí gì có trong tay.
Tôi nói với Elizabeth rằng tôi đã nhận được các giấy tờ từ luật sư của David. Chị hỏi tôi có quay lại Los Angeles không.
- Tôi chưa lên kế hoạch. Vậy có vấn đề gì không?
- Như thế mọi chuyện sẽ hơi phức tạp hơn một chút, nhưng chúng ta có thể thu xếp được. Ở trên đó có gì mà chị thích thế?
- Có bạn thân nhất của tôi. Và không có mẹ tôi.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy Elizabeth bật cười thực sự.
- Tôi lại tưởng là do thời tiết.
Chắc tôi bắt đầu suy nghĩ giống một người gốc gác Tây Bắc rồi, vì tôi thấy khó chịu khi mọi người luôn ca cẩm về thời tiết vùng này. Khi không thấy tôi nói gì, Elizabeth quay trở lại với công việc.
- Được rồi, chị Wynter, sau đây là những gì tôi muốn chị làm. Hãy đọc các giấy tờ, ký những chỗ được yêu cầu ký. Nó khá rõ ràng, nhưng nếu chị có thắc mắc gì thì cứ gọi điện cho tôi. Nếu tôi không ở đây thì Charlene có thể giúp chị. Hãy sao tất cả lại và bắt đầu hồ sơ của chị. Rồi lập tức gửi bản gốc cho tôi, sau đó tôi sẽ gửi cho chị một phiếu trả lời để điền vào. Và hãy nhớ, chị gửi lại cho tôi sớm chừng nào thì tôi càng có thể...
- Toàn bộ quá trình mất khoảng bao lâu? Theo kịch bản xấu nhất.
- Mọi thứ phụ thuộc vào mức độ hợp tác của chồng chị và luật sư của anh ta. Tôi hi vọng bằng giờ sang năm chúng ta có thể khép vụ này lại, nhưng cũng có thể mất hai hoặc ba năm. Lâu hơn nếu chúng ta phải ra hầu tòa.
- Elizabeth, tôi muốn kéo vụ việc ra càng lâu càng tốt.
Chị hầu như không lưỡng lự.
- Chị biết đấy, tôi nghĩ chúng ta có thể giải quyết khá nhanh gọn, và vẫn vét sạch của anh ta - xét trên khía cạnh tài chính. Nhưng càng kéo dài, thì càng còn ít tiền cho chị cũng như cho anh ta.
- Vấn đề không phải là tiền. Tôi muốn anh ấy ý thức được rõ ràng cái giá phải trả để cưới được cô ta. Tôi muốn anh ấy có một thời gian dài thong thả quyết định xem cô ta có đáng với cái giá ấy không.
- Wynter, có một câu nói thế này: “Người phụ nữ tìm kiếm sự trả thù đào hai lỗ huyệt, một cho nạn nhân và một cho chính cô ấy”.
- Tôi vui lòng chấp nhận khả năng đó.
- Tôi thường không làm việc kiểu này.
- Tôi biết. Thế nên tôi mới nói thẳng với chị từ đầu. Tôi mong được làm việc với chị, và thà trả tiền cho chị còn hơn trả cho người khác. Nhưng nếu chị không muốn giải quyết vụ này, tôi sẽ tôn trọng quyết định của chị.
Nghe rõ một tiếng thở dài.
- Thôi được. Nhưng cũng có giới hạn phạm vi tôi có thể làm được đến đâu.
o O o
Đêm qua khi đi làm, đầu óc còn mải chắp nối lại những gì đã nói với Elizabeth, tôi quên mang theo cái vỏ áo gối đựng đầy quần áo bẩn, nên chiều nay phải đến Launderland. Bọn trẻ chạy nhặng xung quanh như thể đây là công viên thênh thang, hò hét và làm sánh Cokes ra sàn. Các bà mẹ ngồi mải miết đọc những cuốn tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, hoặc cân đối sổ chi tiêu, hoặc phác họa hình tiếp theo sẽ xăm lên mình.
Và Mac, nghẹo đầu bên cuốn sổ, không màng đến cuộc đại loạn đang diễn ra quanh anh.
Tôi chia quần áo thành ba đống, cẩn thận đong bột giặt, và thả tiền xu vào. Rồi tôi ngồi xuống cái ghế nhựa đúc màu da cam ở cạnh anh.
Anh lập tức gấp sổ lại.
- Bí mật hạt nhân hả?
- Linh tinh thôi.
Mặt tôi nóng lên. Hình như anh không có bất cứ hứng thú nào nói chuyện với tôi. Liệu có phải tôi đã ảo tưởng quá nhiều không?
Chúng tôi cùng ăn một bữa tối, có một buổi chiều đi tàu. Điều đó có nghĩa là gì?
Tôi lấy cuốn Những lá thư từ trái đất của Mark Twain ra.
- Cuốn này hay, - anh nói.
- Anh đọc rồi à? - Tôi không muốn tỏ ra ngạc nhiên.
Anh cười thành tiếng.
- Đọc rồi. Ngay sau khi kết thúc Đội cổ vũ đồng tính có máu ma cà rồng.
- Tôi không có ý... - Giọng tôi nghe còn cứng hơn cả bìa các-tông. Tôi mở sách, giở lướt qua phần lời giới thiệu tới trang đầu, khi Chúa Trời đang ngồi suy tưởng trên ngai.
- Tôi chưa từng đến California, - anh nói. - Ở đó thế nào?
Tôi nhìn anh, thoạt đầu liếc từ đuôi mắt, rồi quay sang nhìn thẳng.
- Không giống những nơi khác.
- Chẳng có nơi nào giống nhau cả, - anh nói. - Thậm chí đến cái hố bụi bặm chán òm nhất, trơ vơ giữa thảo nguyên, cũng khác tất cả những cái hố bụi bặm chán òm khác.
Tôi gập sách lại.
- Đó là một vùng rộng lớn. Nhiều nơi tôi chưa đi hết.
- Kể cho tôi những gì chị biết đi.
- Hầu hết là Los Angeles. Dải bờ biển ở giữa. High Sierra.
Anh hơi xoay người trên ghế.
- Thực ra, có một lần tôi đã đến nam California, sân bay Los Angeles. Có vẻ màu nâu là chủ đạo. Dải bờ biển thế nào?
Tôi giãn người ra trên ghế. Ký ức trở về.
- Mùi dễ chịu lắm, sương, bạch đàn. Những ngọn đồi vàng rực suốt mùa hè, xanh ngắt vào đông, khi trời mưa. Đó là nơi William Randolph Hearst xây lâu đài... - Tôi nhìn cuốn sách đặt trong lòng. - Lúc nào đó anh nên đến đi. Ai rồi cũng sẽ đến California thôi.
- Hầu hết đến San Francisco và Los Angeles.
- Thế cũng tốt. Để họ đừng đến chỗ của tôi.
- Chỗ của chị ở đâu?
- Bãi biển Pismo.
- Ở đó có gì?
- Cồn cát. Những cồn cát khổng lồ. Bố tôi kể Cecil B. DeMille đã cho hàng ngàn công nhân xây dựng một thành phố Ai Cập ở đó để làm phim Mười điều răn năm 1923. Những bức tường cao hàng chục mét, thậm chí cả một đại lộ hai bên có tượng nhân sư và pha-ra-ông. Rồi khi đóng máy, đoàn làm phim để tất cả lại, và bây giờ tất cả vẫn nằm đâu đó dưới cát. Tôi từng ao ước một ngày nào đó sẽ đứng trên đỉnh cát, gieo mình xuống và chìm vào một thế giới khác.
- Giống như đứng trên đỉnh của đại dương, - anh nói khẽ.
Anh đứng dậy và bắt đầu lôi quần áo ra khỏi máy giặt, jeans xanh, áo sơ-mi vải flannel, và bị tất sẫm màu cùng với khăn bông và quần áo trắng. Đàn ông mà. Tống tất cả vào cái máy sấy gần nhất và không quay đầu lại, anh nói:
- Đúng vậy, tôi không quan tâm nếu đồ lót bị phai màu cháo lòng hay bít tất bị dính xơ từ khăn bông.
- Tôi có nói gì đâu.
- Chị không cần nói gì cả.
Tôi mở lại cuốn sách ra.
o O o
Máy sấy dừng, Mac kéo đống đồ khô ra, nhét vào túi vải thô màu xanh quân đội, và thích thú quan sát tôi gấp từng thứ, xếp cẩn thận vào cái vỏ áo gối. Tôi quay sang chào tạm biệt, nhưng anh nói:
- Chị có cần đưa về không? Tôi sẽ cố gắng không phát thải quá nhiều flo-rơ các-bon trên đường từ đây về nhà chị.
- Là hi-đrô các-bon chứ.
Anh lẳng cái túi vải thô ra thùng xe ở phía sau, túi của tôi ở ghế phía trước. Sau hai lần khởi động bất thành, chiếc bán tải khò khè sống lại, và chúng tôi nặng nhọc lăn bánh trên phố, trong trời chiều u ám, cùng Crosby, Stills và Nash trong radio.
Mac vặn âm lượng to lên. Hơi thở của tôi loang những vòng hơi nhỏ trên kính cửa sổ. Khiến tôi nhớ đến bộ phim nào đó, người ta giữ cái gương trước miệng một người đàn ông để xem anh ta còn sống không. Chắc tôi qua được bài kiểm tra này. Mac đang nói gì đó với tôi.
- Xin lỗi anh, tôi vừa ngủ gật.
- Tối nay chị có đến Bailey không?
- Tôi hơi mệt thế nào ấy.
- Thế nghĩa là “không”?
Khi anh rẽ vào Fourth, một dải đèn nhấp nhánh đập vào mắt tôi.
- Không thể tin được, họ còn treo đèn Giáng sinh ở đây.
Anh nhìn theo ánh mắt tôi.
- Có những người không nỡ bỏ các thứ đi.
Tôi khoanh tay.
- Thuần túy lười thì có.
- Đôi khi đó là một và như nhau cả thôi.
Chúng tôi dừng trước tòa nhà lớn kiểu Victoria màu xám. Anh muốn tắt máy nhưng máy không chịu tắt.
- Chị vào trong nhà này lần nào chưa? - Anh hỏi.
- Cửa nào cũng khóa. Tôi chắc chắn người ta không muốn ai lảng vảng quanh đây...
Anh bật cười.
- Người ta biết cách giúp chị hòa đồng với hàng xóm gớm nhỉ. Tay trái tôi giữ cái vỏ áo gối, còn tay phải lần tìm tay nắm cửa.
- Cảm ơn anh đã cho tôi đi nhờ.
- Wyn... - Mắt anh rất hay thay đổi màu sắc, như mặt biển vào một ngày nhiều mây. Lúc này mống mắt vốn nhạt màu đang óng lên như hổ phách. -Tôi biết mọi chuyện với chị lúc này có lẽ hơi loạn xị... - Ngón tay anh gõ gõ lên đầu cần sang số. - Nếu chị cần một người bạn, thì tôi ở quanh đây.
Hội chứng Tim Graebel.
- Anh tử tế với tôi quá.
- Không, tôi nói rất thật, chỉ là một người bạn. Không trông đợi gì.
Tôi nhìn gương mặt anh. Vì điều gì, tôi không biết nữa.
- Được rồi, - tôi nói với Mac. - Cảm ơn anh.
o O o
Hai tuần và một ngày sau đám cưới, điện thoại nhà tôi reo lúc chín giờ sáng và tôi biết từ trước khi nhấc ống nghe, rằng đó là mẹ.
- Chào con yêu, con đang không ngủ đấy chứ? Mẹ không thể nào nhớ được khi nào con ngủ buổi sáng, khi nào vào buổi tối. Mẹ và bác Richard đã về nhà từ đêm qua.
- Con đã dậy rồi. Hawaii thế nào ạ? - Chắc phép giao tiếp thông thường là hỏi thăm mẹ về kỳ trăng mật.
- Đẹp như mơ. Mẹ và bác đã có một khoảng thời gian tuyệt vời.
- Mẹ ríu rít bằng giọng hạnh phúc cực độ.
- Ơ... mẹ ạ, mấy cái thùng...
- Mẹ có thấy. Con có chắc là muốn vứt hết ảnh đi không? Cả thiếp mừng đám cưới của con nữa?
- Con chắc ạ. Nhưng con đang nói thùng khác. Mấy cái có đồ của bác Richard...
- Con đừng lo, bác đang dọn đồ ra khỏi phòng con. Lần tới con về thăm nhà sẽ thấy mọi thứ y nguyên như trước.
- Ý con là mấy cái thùng... ở sảnh.
- Ở sảnh à? - Mẹ ngừng một chút. - Mẹ có thấy thùng nào ở sảnh đâu.
Tôi gần như nghe được giọng nam trầm mượt mà của Rod Serling: “Wynter Morrison tưởng mình đã đi một chuyến đến nhà mẹ đẻ. Nhưng thực ra cô ấy đã tới... Vùng Chạng Vạng”.
- Ô... Chắc... con định để mấy thùng của David ở đó nhưng rồi lại quên mất.
- Con có thực sự chắc chắn rằng muốn vứt hết đi không?
- Hôm sau đám cưới anh ấy có đến. Nói với con là anh ấy sẽ cưới Kelley. Con đã nhận được giấy tờ từ luật sư.
Mẹ thở giật một hơi.
- Ôi, con của mẹ, mẹ rất tiếc. Cái thằng quạ tha ấy! Cái thằng...
Tôi bật cười.
- Mẹ, mẹ đừng phí hơi sức như thế. Con có luật sư tốt. Con sẽ lo liệu ổn thỏa.
- Không phải chỉ chuyện tiền nong, mà cái thằng... Tốt nhất nó nên hi vọng không bao giờ gặp lại mẹ. Cứ chống mắt lên xem Barbie sẽ té ngửa ra cô ả chỉ là đồ chơi theo tháng thôi. Nó sẽ quen đường cũ đá cô ả đi cho coi, rồi xem.
o O o
- Trông cô gớm thế, - Linda nói. - Lại ốm à?
Tôi nhìn bà trân trối.
- Không thể nào mà tôi lại ốm được, vì tôi đã ốm bao giờ đâu. Tôi chỉ bị khó chịu, thế thôi.
Linda khụt khịt.
- Chẳng có gì mà cô phải khó chịu cả.
Tôi với lên giá ở phía trên bồn rửa, lấy chồng bát nhôm xuống.
- Thế hóa ra là có à?
Tôi xỏ tay vào đôi găng dày cui, kéo chồng khay nướng từ trong lò ra - thợ làm ca sáng đã bỏ khay vào đó cho khô - đặt lên giá để nguội.
- Cô sẽ không làm bánh lâu nữa đâu, - Linda vẫn dai dẳng. – Chồng cô sẽ sớm lảng vảng mò đến thôi. Tin lời tôi đi, đàn ông đều như vậy.
Tôi mường tượng ra cảnh David bò tới, đánh hơi chân tôi.
- Anh ta mò đến thật và đã đệ đơn li hôn, - tôi phản pháo.
Linda ngoác miệng cười, trưng ra hàm răng nham nhở.
- Cô vẫn có thể dìm cuộc đời hắn xuống địa ngục, kể cả khi cô không lấy ai khác. Tôi đã làm thế đấy. - Một nốt nhạc tự hào ngân lên trong giọng nói của Linda.
- Chính xác thì chị đã làm thế nào?
- Ồ, nhiều cách lắm, cô bé ạ. Thiếu gì cách. Cô phải có luật sư và họ sẽ mách cô đủ các cách. Chi phí nuôi con này, thăm hỏi nữa.
- Tôi không có con.
- Thế thì có tiền cấp dưỡng. Mỗi lần lão được tăng lương, tôi lại ủn lão đến tòa. - Nét mặt Linda giãn ra vì tự hài lòng.
- Nhưng anh ta say khướt, lại còn đánh chị. Tôi tưởng chị không muốn dính dáng gì đến anh ta?
- Tất nhiên là đời nào tôi lại muốn. - Bà đảo mắt như thể tôi là con ngốc. - Nhưng tôi muốn lão phải thật thảm hại. Và tôi đã làm được. Từ giờ phút tôi đá lão ra khỏi nhà, lão chưa bao giờ được yên thân.
- Nhưng cả chị cũng vậy, - tôi nhận xét.
Linda cười bằng vẻ hài lòng u ám.
- Cũng đáng, từng phút một.
o O o
Điện thoại gọi đến hiệu bánh trong khoảng từ nửa đêm đến sáu giờ sáng phần nhiều luôn là nhầm số. Thỉnh thoảng, đối phó với những gã lè nhè hoặc bệnh hoạn muốn biết chúng tôi mặc đồ lót gì, Linda để một cái còi cảnh sát ở ngay cạnh điện thoại, “tốt nhất là cứ choang thủng màng nhĩ bọn đó ra, cô bé ạ”. Tôi luôn lo rằng gã biến thái nào đó sẽ kiện hiệu bánh vì những chấn thương đã khiến hắn không thể tiếp tục hành nghề, nhưng có lẽ đó là lô-gíc kiểu California chăng.
Khi Linda trả lời điện thoại lúc khoảng mười hai rưỡi đêm, tôi chuẩn bị tinh thần sắp nghe còi rít đến nơi, nhưng bà vẫn giữ nguyên nét mặt khinh bỉ thường ngày và chìa ống nghe ra cho tôi. Dạ dày tôi rơi tõm xuống. Có ba khả năng. Mẹ tôi ốm nặng. CM bị tai nạn giao thông. Nhà tôi đang cháy.
Thay vì thế, một giọng nam reo lên:
- Wyn! Không thể tin được. Tôi gọi đến từng hiệu bánh ở Seattle. Suýt nữa nghĩ rằng em đã được đưa vào chương trình bảo vệ nhân chứng.
- Ai ở đầu dây thế ạ?
- Gary Travers. Tôi đến Edgewater công tác vài ngày. Không biết tôi có thể mời em ăn tối vào tối mai không?
Tôi chần chừ, nhớ lại lần cuối cùng và duy nhất chúng tôi gặp nhau. Có lẽ anh mời ăn tối vì muốn thả thạch tín vào súp của tôi.
- Trừ khi em vẫn còn cáu tôi, - anh nói thêm.
Trong phòng lúc này không một tiếng động. Từ góc mắt, tôi thấy Linda đi lại rón rén. Bà hơi run run vì tập trung cao độ, như con cún dựng đứng hai tai lên và động đậy cặp ria.
- Tất nhiên là không ạ. Bữa tối như vậy sẽ rất vui.
- Vậy tối mai nhé? Khoảng bảy giờ được không?
- Được ạ. - Tôi hướng dẫn anh đường đến nhà tôi, đặt máy và quay lại tiếp tục quét dầu ăn vào khay nướng bánh mì nho khô-quế. Linda trông như nổi quặm đến nơi.
- Thằng cha cũ đấy à?
- Không.
Yên lặng, trừ tiếng cọ chổi phết dầu và nhịp quay đều đặn của máy trộn Hobart.
- Không nói chuyện riêng qua điện thoại khi đang làm việc, cô biết rồi đấy.
Tôi mỉm cười.
- Xin lỗi chị. Bình thường tôi không nghe điện thoại thế đâu, nhưng đó là anh trai tôi.
- Anh trai á?
- Anh ấy ở San Francisco và đến đây công tác. Chúng tôi chưa gặp nhau kể từ khi bố mẹ chúng tôi làm đám cưới...
- Từ khi bố mẹ cô làm đám cưới sao?
- Cho nên chúng tôi định mai ăn tối cùng nhau. Cập nhật tình hình gia đình. - Tôi đẩy cái khay đã phết dầu qua bàn, lấy cuốn sổ đen ra và giả vờ đọc công thức làm bánh mì phô mai.
Canlis là kiểu nhà hàng mà bố tôi hẳn sẽ thích. Treo mình trên hồ Union ở phía nam cầu Aurora, nó gợi cho người ta cảm giác đang ở trong một món đồ trang trí cây thông Giáng sinh, tĩnh tại trong bóng tối, ánh đèn đường bên dưới huyền ảo hắt lên, ngỡ như ánh nến hoặc những vì sao. Thời gian dường như cũng ngưng đọng tại đây, một bar kiểu cổ với những tảng thịt đỏ được săn về và rượu cabernet hảo hạng. Nhân viên phục vụ đều mặc kimono, và tôi không khỏi ngạc nhiên thấy họ đi lại uyển chuyển, trông như đang lướt chứ không phải bước đi.
Đến sớm hơn giờ đã đặt nên chúng tôi ngồi ở quầy, nghe piano, uống rượu vodka martini và quan sát các doanh nhân và khách hàng, những người có vẻ chiếm phần đông đám thực khách. Tôi không thực sự nghiện vodka, nhưng rất thích cảm giác có một dải nóng rực trôi xuống. Và thích ô-liu đi kèm món rượu này.
Sau vài ngụm, tôi đã đủ gan để hỏi:
- Em phải biết việc này. Điều gì đã xảy ra với mấy thùng đồ của bố anh mà em đã quẳng xuống cầu thang?
Gary đã cắt tóc một lần từ hôm đám cưới, trông anh chững chạc hơn, một cách dễ chịu, bớt giống người tị nạn trong chương trình Gia đình Partridge.
- Tôi đóng thùng lại và đẩy vào phòng làm việc.
- Anh đi cả quãng đường quay lại nhà ấy chỉ để làm thế thôi sao?
Anh nhún vai, thoáng xấu hổ.
- Tôi nghĩ sẽ thoải mái hơn cho tất cả mọi người nếu đôi vợ chồng mới cưới về nhà và không thấy có đống bừa bộn nào cả.
- Anh chu đáo quá. Cũng may em quá say, chỉ đẩy được vài thùng chứ không lao nổi cả đám. Em thấy mình như con điên.
- Đừng nghĩ vậy. Tôi hiểu tại sao mọi chuyện lại diễn ra như thế. - Anh hơi nhoài người về phía tồi, gạt một lọn tóc nâu dày khỏi trán và mỉm cười. - Bây giờ đến lượt tôi. Tại sao hôm ấy em lại giới thiệu tôi là “con trai của Howard”?
Tôi nuốt chửng miếng ớt nhồi trong quả ô-liu, suýt nữa thì nghẹn.
- Em thấy bố anh là một quý ông lịch lãm, thực ra bác làm em nhớ đến... anh có đọc tiểu thuyết Suối nguồn không nhỉ?
Gary cười phá ra, làm đôi ngồi bên trái anh bị giật mình.
- Người đàn ông như được đúc tạc ra từ đá, những tòa sắt thép. Hoặc ngược lại. Chỉ có điều Howard Roark tóc đỏ rực như lửa.
- Em luôn nghĩ đó là một lỗi nhầm lẫn.
- Ừ, những người đàn ông đá tảng không nên có mái đầu cà rốt.
- Anh uống cạn ly và từ chối được rót thêm. - Vậy nói cho anh biết nào, Wynter, em làm gì ở đây?
- Làm bánh mì ạ. - Tôi lắc đá trong ly của mình.
- Đó không phải là điều anh muốn hỏi.
Đến đây, cô phục vụ tới dẫn chúng tôi vào bàn. Chúng tôi yên vị và anh gọi rượu vang. Khi không còn ai qua lại xung quanh, anh nói:
- Quay lại câu hỏi của anh.
Tôi nhìn anh qua cuốn thực đơn.
- Gary, với bà mẹ như em biết, em khá chắc chắn rằng anh đã được nghe kể về cuộc đời em nhiều hơn những gì anh muốn biết.
Anh dành cho tôi một nụ cười mơ màng.
- Anh đã nghe một số chuyện, nhưng không có gì liên quan đến những điều anh muốn biết về em.
- Nói ngắn gọn, em đang ly thân và chồng em mới đệ đơn li hôn. Còn anh thì sao? Anh sống ở San Francisco nhỉ?
- Cụ thể là ở Larkspur, hạt Marin. Và đừng nghĩ rằng anh không nhận ra thời kỳ quá độ đầy êm thấm. Anh đã li hôn. Ngày mai là tròn một năm. Nhưng bọn anh là bạn tốt.
- Một cách giải quyết rất Marin.
- Có lẽ thế. Nhưng bọn anh có hai đứa con, nên mọi chuyện cũng dễ hơn.
- Bọn nhóc mấy tuổi rổi ạ?
- Con giai tám tuổi. Tên là Andrew. Bé gái Katie lên mười.
- Anh không phải là kiến trúc sư chứ?
- Anh đỗ xe ô-tô.
- Ở đâu ạ?
Anh cười rộng miệng.
- Anh có một công ty nhỏ. Dịch vụ đưa ô-tô của những người đi dự sự kiện hay các công việc khác ra bãi đỗ.
- Vậy anh làm gì ở đây?
- Phát triển thị trường. Khoảng sáu tháng nay anh đang theo mấy khách hàng ở đây. Thành phố Seattle này vui tính thật. Người ta không thích dân từ nơi khác lắm.
- Đặc biệt là người California. - Tôi mỉm cười.
- Anh cũng thấy thế. Nhưng có vẻ rồi một vài người trong số họ cũng sẽ gật đầu. Khoảng hai, ba tuần một lần anh lại ở đây, sắm vai kẻ đeo bám khách hàng.
Cô phục vụ mặc kimono quay lại để chúng tôi gọi món. Sau khi cô ấy rời đi, tôi xếp bộ đồ ăn bạc trên bàn, sao cho tay cầm gần chạm mép bàn.
- Wyn này. - Không có lựa chọn nào khác ngoài ngước lên nhìn anh. - Anh xin lỗi nếu làm em không thoải mái. Đó hoàn toàn không phải là chủ ý của anh. - Đôi mắt nâu ánh vàng của anh trông dịu dàng như mắt cún con.
- Không đâu ạ. - Ngón tay tôi bật qua bật lại sợi dây đeo ví cầm tay. - Chỉ là em... không quen. Em muốn nói là, thậm chí em còn chưa li hôn. Tất cả cảm giác đều lạ lùng.
Anh chạm nhẹ lên bàn tay tôi bằng hai ngón tay anh, rồi rút lại.
- Hãy tin rằng anh hiểu chính xác những gì em muốn nói. Chính anh cũng mới trải qua tất cả. Nhưng đồng thời...
- Thưa ông? - Người phục vụ giới thiệu rượu vang theo một nghi thức cầu kỳ, và chúng tôi phải qua đủ các bước ngửi-và-nếm rượu. Gary chuyên tâm vào từng bước, tập trung, không vội vã, nhưng không hề để đứt mạch suy nghĩ.
- Nhưng đồng thời, anh phải nói rằng em rất thu hút anh. - Yên lặng một chút. - Có lẽ ở cách em chỉ huy anh vào bếp hôm đó.
Rất nhiều căng thẳng bay biến khi tôi bật cười.
- Đó là vai bà-chủ-lâu-đài rất Hancock Park của em.
- Và em sắm vai rất đạt.
- Không đến mức quá đạt, em hi vọng thế.
o O o
Bữa tối dễ chịu, nói chuyện vừa phải, không quá sâu, dù sự chủ động có mục đích của Gary khiến tôi muốn dè chừng. Đây không phải là người đàn ông khoáng đạt hành động. Đến khi xong bữa, tôi đủ thoải mái để nhận lời uống một ly brandy bên quầy bar.
Anh nói về bọn trẻ nhà anh, anh và vợ cũ thay nhau chăm sóc.
- Hai người sắp xếp thế nào ạ?
- Bọn trẻ ở với anh một tuần, rồi với Erica một tuần.
- Nghe có vẻ khổ thân bọn trẻ con, phải đi đi lại lại. Còn học hành thì sao ạ?
- Chúng nó học trường tư nên không có vấn đề gì. - Trong đầu tôi đang tính chi phí học trường tư tại Marin cho hai đứa trẻ. - Anh và cô ấy bố trí phòng trẻ con ở hai nhà giống nhau hết mức có thể, để chúng nó không cảm thấy khó chịu. Tủ quần áo giống hệt nhau ở cả hai nơi. Cố gắng để bọn trẻ không bị xáo trộn gì.
- Còn anh và chị ấy thì sao?
Những nếp nhăn quanh mắt và miệng anh không hằn chỉ vì bật cười.
- Anh và cô ấy xoay xở dễ hơn bọn trẻ. Nhưng cũng vất vả. Không thể phủ nhận điều đó được. Thỉnh thoảng khi lái xe dọc bờ vịnh, anh đã nghĩ hay là cả hai ở chung một ngôi nhà lớn nhỉ. Hoặc mua hai căn hộ ở cùng một khu hay gì đó tương tự. Nhưng có lẽ những phương án ấy cũng có vấn đề riêng của nó.
o O o
Chúng tôi chầm chậm bước trên lối đi rải đá dăm.
- Em rất vui vì anh đã gọi điện, và rất mừng được gặp anh.
- Em có vui đến mức muốn gặp lại vào thứ Sáu không?
- Gary...
- Quá thúc bách phải không? Đó là thói quen xấu của anh.
- Không, không phải như vậy. Chỉ là em... lúc này mọi thứ với em còn ngổn ngang quá.
- Anh hiểu.
Tôi lấy chìa khóa trong ví ra và cắm vào ổ khóa bu-lông chìm. Tuyệt đối ý thức được rằng anh đang đứng ngay sau lưng tôi, gần hơn mức cần thiết, gần hơn tôi muốn, nhưng nhiệt tỏa ra từ cơ thể anh đang hút lấy tôi. Tôi muốn dựa vào anh. Tôi biết lúc này nếu tôi quay lại, anh sẽ hôn tôi. Và tôi quay lại, và anh đặt môi xuống.
- Không quá tệ phải không? - Bàn tay anh vẫn ôm lấy mặt tôi. Đôi mắt anh sầu, nhưng dịu dàng. Nếu tôi có chết đuối, ít nhất cũng là cái chết dễ chịu.
- Em không biết. Có lẽ mình nên thử lại lần nữa.
Nhận ra rằng đã lâu rồi mới có người hôn tôi như vậy, khao khát thức dậy như một kẻ đột nhập, phản bội sự phòng vệ của tôi. Cảm giác râm ran loang trên da thịt, va chạm ngọt ngào của mũi và cằm, sự mềm mại của làn mi, sự ấm áp nhẵn nhụi của bờ má mới cạo.
Tôi nuối tiếc dứt môi ra.
- Em phải chuẩn bị đi làm. - Cuối cùng tôi nói. Phải vào tắm nước lạnh. - Mấy giờ nhỉ?
Anh nhìn đồng hồ đeo tay.
- Mười rưỡi.
- Em muốn nói là thứ Sáu. Em nên gặp anh lúc mấy giờ?
Bánh Mì Cô Đơn Bánh Mì Cô Đơn - Judith Ryan Hendricks Bánh Mì Cô Đơn