People have a hard time letting go of their suffering. Out of a fear of the unknown, they prefer suffering that is familiar.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Daley
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Hands Of A Stranger
Dịch giả: Nguyễn Đắc Lộ
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 169 / 14
Cập nhật: 2020-06-07 21:40:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
oe đã lên đường theo dõi Johnson với hy vọng phá vụ án nhanh chóng. Chàng tin rằng Johnson là kẻ tấn công vợ chàng. Chàng được trang bị địa chỉ được biết cuối cùng của kẻ tình nghi, cuộc thăm viếng xã giao tại khách sạn trên đường số 40, và ngày sinh của hắn lấy từ mẫu an sinh xã hội mà hắn đã ký. Ngày sinh là vấn đề quan trọng. Đấy là một điểm tốt. Có lẽ đủ để tách riêng tên Johnson này với hàng trăm tên Johnson khác mà hồ sơ tội phạm có lưu ở tầng dưới, và ngay khi tờ giấy vàng và ảnh căn cước của tên Johnson này được đưa đến, Joe sẽ biết chàng đang đối phó với loại người nào và hắn trông ra sao. Sự tự tin sẽ gia tăng và chàng sẽ đến địa chỉ của hắn và bắt hắn.
Nhưng phòng Hồ sơ tội phạm đã không gởi đến gì cả, điều chứng tỏ Johnson là một người trong trắng, có lẽ thế. Nếu không thì họ đang có hồ sơ của hắn ở tầng dưới, dưới một cái tên khác.
Điều ấy làm cho vấn đề đâm ra khó khăn hơn. Dù sao Joe vẫn lên đường theo dõi hắn và chàng buộc phải đi một mình, điều này lại làm vấn đề ấy xét về mặt tình cảm còn khó hơn nữa. Các điều tra viên hầu như luôn luôn được phái đi từng cặp và lý do chính là các người đi cặp với nhau hỗ trợ nhau về mặt tâm lý. Kẻ thù nguy hiểm nhất của bất kỳ cuộc điều tra nào không phải là những nguy hiểm vật chất nhưng là sự thiếu niềm tin, và Joe biết rõ điều này. Một cuộc săn người nhìn ở một số mặt nào đó là một kinh nghiệm tôn giáo, tương tự như việc tìm kiếm Thiên Chúa và một nhân viên điều tra nào không tin tưởng thì chẳng bao lâu sẽ bỏ cuộc trong tuyệt vọng. Hắn sẽ chẳng tìm ra được gì cả. Hai người thì có cơ may nhiều hơn.
Nhưng Joe đi một mình. Lúc ấy chàng tin vào lời kể của vợ chàng và không hề thắc mắc hoặc xem xét nó kỹ.
Địa chỉ của Johnson tương ứng với một dãy nhà bốn tầng trong hàng dãy nhà tại một con đường phụ tại Harlem. Joe lái xe qua và nhìn chăm chú. Rồi chàng lái qua một lần thứ nhì. Có những bao rác chất trên vỉa hè, và rác rưởi rơi vãi rắc giữa các chiếc xe đậu. Cuối cùng chàng lái xe đến đại lộ Lenox, đậu tại một trạm xe buýt và đặt thẻ cảnh sát của chàng ở kính chắn gió.
Harlem đã có lúc là một trong những khu vực đẹp nhất ở New York. Bây giờ nó là một vùng đất thù địch, và Joe Hearn, trong lúc đi vào, ý thức về điều này vào hôm nay hơn phần lớn những ngày khác. Harlem là một phần cuộc sống của chàng, một phần công việc của chàng, nhưng trong quá khứ, chàng chỉ làm việc ở đấy chung với một nhóm và luôn luôn với sự vô tư lạnh lùng của người cảnh sát nhà nghề. Hôm nay khác hẳn. Chàng đơn độc. Chàng có một người vợ bị hoen ố ở nhà và tâm trạng của chàng lẫn lộn vừa đau thương, vừa phẫn nộ. Chàng có một ý nghĩ phạm thượng, một nhân viên cảnh sát trong cuộc viễn chinh thập tự.
Những ngôi nhà đá nâu Harlem này đã bắt đầu như là những căn phố trang nghiêm. Bậc cấp cẩm thạch, cửa gỗ sồi. Nhưng chàng lại bước qua những bậc cấp vỡ lởm chởm như những chiếc răng, những cánh cửa đầy hình vẽ. Những người đàn ông lực lưỡng đứng trên các vỉa hè thành từng nhóm. Những người đàn ông to lớn, bắp thịt căng phồng. Những người đàn ông ăn không ngồi rồi. Đa số, chàng thấy như thế, đều mang vũ khí. Những người mang vũ khí mặc sơ mi phủ ngoài. Chàng nhìn chăm chú vào đường thắt lưng của họ, nếp gấp trên vạt áo họ. Trong ba phần tư của một khu nhà, chàng đếm được sáu khẩu súng. Những khuôn mặt đen đúa đăm đăm nhìn chàng, nhận ra ngay chàng là một nhân viên cảnh sát. Chàng biết họ nhận ra bằng cách nào. Việc chàng trừng mắt nhìn lại họ chứng tỏ rằng chàng không sợ hãi, nghĩa là chàng có vũ trang. Và một người da trắng có vũ trang là một nhân viên cảnh sát.
Tòa án tối cao đã phán quyết rằng chàng không được chạm đến họ. Cuộc truy lùng và bắt giam này bất hợp pháp. Thiếu lý do cần thiết. Kinh nghiệm hai mươi năm của chàng chẳng ích gì cả. Cái nhìn của chàng không đủ năng lực. Chàng kích thích mình với giòng tư tưởng này và làm chết ngạt cơn giận của chàng. Chàng đến đây không phải để đấu súng nhưng là để tìm bắt gã đàn ông đã hãm hiếp vợ chàng.
Chàng đi ngang qua những người đàn bà nói chuyện phiếm qua những khung cửa sổ, ở những hiên không có mái che trước nhà họ, vì đời sống xã hội Harlem phần lớn là ở ngoài trời. Nhưng khi chàng đi dọc theo vỉa hè, những người đàn bà cũng rơi vào im lặng. Các câu chuyện chỉ tiếp tục sau khi viên cảnh sát, tức là chàng đấy, đã đi qua thôi. Cơn giận của chàng nhạt đi. Mình không hiểu những người này, chàng tự cảnh cáo. Họ không chịu nói chuyện với mình đâu. Hơn nữa, mình không thể gỡ những gì đã buộc đâu. Mình không muốn biết về vụ cưỡng hiếp Mary nhiều hơn điều mình đã biết đâu. Bắt Johnson rồi mình sẽ hối hận đấy. Nhưng sự bó buộc phải điều tra vẫn còn. Một cuộc điều tra đặt ra thủ tục và người chiến sĩ thập tự quân bám vào đấy vì chàng thật đau đớn. Chàng không dừng lại được. Trong đầu chàng có quá nhiều điều phẫn nộ, quá nhiều câu hôi. Một cuộc điều tra qui định cho chàng mỗi lần một câu hỏi thôi. Điều ấy có hiệu quả là kìm được những xúc động của chàng để chàng trở thành xa lạ với sự đau khổ của Mary cũng như của riêng chàng, vấn đề bắt Johnson trở thành ý nghĩ duy nhất của chàng.
Chàng bước lên hiên nhà Johnson hai bậc một và chen qua một cánh cửa sồi đã được khoét ra và vào một hành lang hẹp đối diện với một chiếc cầu thang còn hẹp hơn. Hành lang bốc lên mùi lẫn lộn của bếp núc và phân người. Các thùng thơ treo trên một bức tường. Chẳng có thùng nào có tên cả. Đa số đã bị cạy ra nhiều lần - chắc chắn là người ta lấy cắp các phiếu xã hội của nhau. Lúc bình thường Joe cho mình là một người đàn ông rộng lượng. Hôm nay chàng thù ghét tất cả các người này. Chàng đập vào một cánh cửa ở tầng một. Chàng nghe sự di chuyển bên trong, nhưng cửa không mở.
“Cảnh sát, mở cửa ra.”
“Ông muốn gì?” Giọng một người đàn bà lên tiếng.
“Willie Johnson. Phòng nào?”
Cánh cửa mở hé ra và Joe chìa tấm thẻ của chàng. Người đàn bà rất trẻ, có lẽ chưa đầy hai mươi, nhưng chàng đếm thấy năm đứa bé chập chững nơi sàn nhà chật chội sau lưng nàng. Chàng chẳng có cảm tình gì đối với nàng hoặc lũ trẻ cả. Những đứa bé chập chững có nước da nâu không đều. Khác cha ư?
“Sau tầng ba,” người thiếu phụ bảo. “Ông ấy không có ở đấy đâu. Đã đi hồi sáng. Mang mấy chiếc thùng ra xe và đi mất.”
Trên tầng ba, cửa trông có vẻ chắc chắn. Khi Joe gõ cửa, âm thanh bên trong nghe trống không.
“Có nhà không, Johnson?”
Cánh cửa bị khóa. Chàng lắc tay nắm một lần thứ hai. Bây giờ, thủ tục bình thường là xin tòa án một tờ trát. Điều ấy mất thời gian và có thể tờ trát không bao giờ được cấp cả. Mình muốn đi bao xa đây? Joe tự hỏi. Nếu mình phá cửa vào đấy là đột nhập. Đấy là tội ác. Nếu mình bị bắt mình sẽ ở tù đấy.
Sau khi lùi lại nửa bước, chàng ấn vai vào cửa. Chàng tung cửa một lần thứ nhì. Lần thứ ba gỗ vỡ ra và cánh cửa bắn lui lại chạm vào bức tường phía sau nó.
Joe đứng đấy thở hơi mạnh. Bây giờ mình đã phạm tội đấy, chàng tự nhủ. Mình là một tội phạm đấy. Chúc mừng.
Bên trong là một tấm nệm đặt trên sàn nhà và một chiếc ghế nhựa. Những tấm ảnh khỏa thân dán lên tường bằng băng keo và Joe nhìn kỹ lưỡng. Khỏa thân da đen. Nền nhà bừa bãi với vỏ trái cây, lon bia rỗng, báo cũ. Chẳng có gì nhiều để lục soát cả và Joe tìm thấy tất cả những gì chàng định tìm trên một ngăn của chiếc tủ duy nhất trong phòng: hai cặp còng tay. Chàng nhặt lên và giữ lấy. Chàng tìm đúng người ấy. Chàng đang theo dõi đúng hướng. Nhưng sao lại là hai cặp? Những chiếc còng tay nêu lên nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời, nhưng chàng bỏ ngay những câu hỏi này.
Ra ngoài vỉa hè, chàng nhìn quanh để tìm một phòng điện thoại. Ở góc đường là một phòng kiểu mới nhất nên chàng đi về hướng đấy. Vì được bỏ trống hoác từ lưng chừng trở xuống, nó không còn được bọn đê tiện ở Harlem dùng làm phòng ngủ hoặc nhà xí nữa. Hơn nữa, các hộp tiền kiểu mới đều đã được tăng cường và bây giờ có những sợi dây cáp dẻo quấn các ống nghe vào những cái hộp. Tuy vậy, hình như có ai đã nện búa vào chiếc hộp này nên nó đã bị hư. Joe cười sặc sụa.
Cách đấy hai khu nhà, sau khi tìm được một chiếc điện thoại còn dùng được, chàng quay số văn phòng chàng và ra lệnh cho Phó thanh tra Pearson phải sáu điều tra viên và một toán chuyên viên dấu tay đến Harlem ngay.
“Trưởng ngành điều tra đã đến tìm ông”, Pearson nói với giọng nóng nảy, “Và bà phụ tá chưởng lý quận ấy đã gọi ông hai lần đấy.”
Joe chặn ông lại. “Chỉ cần gởi cho tôi các người ấy thôi”. Và chàng gác máy.
Tuy nhiên cuộc trao đổi đã buộc chàng phải cân nhắc một số thực tế. Chàng đã vạch ra một cuộc điều tra nhỏ, bí mật và nhanh chóng. Một nhân viên điều tra đơn độc, chính là chàng. Kết quả có thể kiểm soát được nếu may mắn.
Nhưng chàng đã phải cần đến các chuyên viên dấu tay và thêm người. Đấy là một thực tế, cần phải có sáu nhân viên điều tra để nghiên cứu vùng phụ cận của Johnson, phương án khi đã được chọn chắc chắn sẽ dẫn đến những phương án khác. Sẽ phải mất thời gian và sáu người sẽ không đủ. Thực tế thứ hai là việc Joe còn phải điều khiển đơn vị ma túy nữa. Chàng phải điều khiển hoặc ít ra phải giả vờ điều khiển nó. Nếu chàng bỏ tất cả thì giờ của chàng ngoài văn phòng, có lẽ chàng sẽ bị sa thải. Nghề nghiệp và cuộc điều tra của chàng sẽ chấm dứt cùng một lúc.
Thực tế thứ ba là Pearson. Mặc dù Joe có thể lén lút sử dụng thêm các nhân viên điều tra từ các vụ án khác và cho họ biết hầu như chẳng có gì cả, chàng sẽ không có khả năng làm cho Pearson không biết về cuộc điều tra lâu mấy, và chàng không thể dựa vào lòng trung thành của ông ta được. Điều ấy khiến Pearson trở thành nguy hiểm. Chàng không còn có thể liều lĩnh mất thời gian để nhẹ nhàng đưa Pearson đặt vào chỗ khác nữa. Mình phải tống cả hắn đi nhanh, chàng nghĩ như thế.
Chàng đợi các chuyên viên dấu tay trong phòng Johnson. Họ mở cặp và chai lọ của họ. Họ có hai người. Họ tùy tiện và chậm rãi về việc ấy. Các nhân viên điều tra pháp lý, Joe đã lưu ý, không bao giờ vội cả. Bằng chứng sẽ chẳng mất đi đâu cả.
“Ông đã vào đây bằng cách nào thế?”. Một người trong bọn hỏi trong lúc nói chuyện. Anh đang quỳ làm việc quanh tay nắm cửa. “Ông có trát hoặc thứ gì chứ?”
“Cửa mở.”
Người chuyên viên liếc lên khung cửa vỡ, rồi cười với Joe. “Những cái cửa Harlem này chẳng có cái nào tốt mấy, có bao giờ ông lưu ý không?”
Hai chuyên viên để lại những lớp bụi vung vãi khắp trên các cửa cái và cửa sổ, trên các bức tường gần công tắc đèn rồi ra đi. Lúc ấy sáu nhân viên điều tra đã có mặt trên đường phố. Họ tìm một người đàn ông tên Johnson, Joe cho họ biết, hoặc bất kỳ ai biết Johnson và có thể chỉ cho họ theo một hướng rõ ràng nào đấy. Đêm đến. Chàng vẫn cho họ rung chuông cửa và đích thân ở lại tại nơi đó, để hướng dẫn họ, để báo cho họ một ít về mục đích duy nhất của chàng, sự sốt ruột của chàng về sự tiến triển của họ. Gần đến nửa đêm chàng mới cho họ đi - với lệnh phải trình diện chàng cũng ở góc đường ấy vào sáng hôm sau. Lúc chàng lái xe về nhà, chàng bỗng nhận ra họ sẽ đưa biên lai giờ phụ trội đêm nay và đây lại là một thực tế nữa - chàng sẽ bị bắt buộc phải ký vào đó và biên lai sẽ phải được Cirillo duyệt. Là một sĩ quan trẻ có nhiều tham vọng, Joe đã học cách ký tên vào càng ít giấy tờ càng tốt. Bây giờ chàng sẽ làm điều trái ngược. Nhưng chàng vứt bỏ nhận thức ấy đi.
Sáng hôm sau, các chuyên viên điện thoại gọi về với số B của Johnson và đến trưa Joe cầm được ảnh căn cước và lý lịch của hắn trong tay. Johnson này là một biệt danh hoặc có lẽ những cái tên khác có trong danh sách này đều là biệt danh cả. Các lần hắn bị bắt giam tính từ tuổi mười lăm: chôm đồ ở cửa hàng, chứa chấp tội phạm, hành hung, trộm cắp…
Khi chàng nhìn lên, phó thanh tra Pearson đang đứng ở ngưỡng cửa. “Bà phụ tá chưởng lý quận ấy lại vừa gọi đến đấy.”
Joe bắt đầu bỏ đồ vào chiếc cặp da của chàng: báo cáo DD-5, giác thư của các chỉ huy trưởng thuộc hạ, một hộp đạn, một dùi cui. Tấm ảnh và tờ lý lịch của Johnson cũng vào đấy. Chàng cũng nhét vào đó tờ giấy ghi tất cả những cú điện thoại gọi đến, sau khi suy nghĩ. Pearson, sau khi đến gần bàn giấy của chàng, cố gắng gây sự chú ý của chàng bằng các câu hỏi về vấn đề tái tổ chức Đơn vị ma túy đã dự tính. Đây phải là nhiệm vụ ưu tiên số một của Joe. Xếp Cirillo mong đợi chàng sẵn sàng một kế hoạch để trình lên ủy viên cảnh sát trong thời hạn một tuần. “Tôi phải đi đây”, Joe cắt ngang. “Tôi không biết tôi sẽ đi đâu hoặc lúc nào tôi sẽ về nữa.”
Chàng tăng số nhân viên điều tra từ sáu đến mười, rồi mười hai, tất cả đều lén lấy từ các vụ án khác. Họ để lại sau lưng một loạt các giám thị oán trách, đa số là các viên trung úy. Chẳng ai biết vụ án này như thế nào cả. Nó trở thành một điều bí ẩn trong một điều bí ẩn. Các sĩ quan bắt đầu bước vào văn phòng Joe, chận chàng lại ở hành lang. Để tránh các câu hỏi của họ, chàng bắt đầu tránh xa hoàn toàn bộ tư lệnh. Một ít dấu vết của Johnson lộ ra. Mẹ hắn có lẽ đang sống tại miền Nam Carolina. Hắn có một người cô ở đâu đấy quanh vùng New Jersey. Người ta bảo rằng một người bạn gái của hắn đang sống tại Bedford Stuyvesant, khu da den của Brooklyn. Joe chia lực lượng ra.
Sáu nhân viên điều tra ở lại Harlem. Sáu người khác đến Brooklyn để nói chuyện với người bạn gái của hắn, nếu họ có thể tìm ra được nàng. Hai nhân viên điều tra nữa, vẫn lén lấy từ một vụ án khác, Joe phái đi New Jersey để tìm ra người cô. Họ biến đi chưa đầy một ngày. Người cô, nếu bà ta là người cô của Johnson, đã chết được sáu tháng.
Trời đã tối lúc hai người này báo cáo lại. Bàn giấy của Joe lại đầy những giấy ghi các cú điện thoại mà chàng đã không trả lời. Thay vì trả họ lại nhiệm vụ cũ, Joe ra lệnh mới cho họ. Họ phải bắt đầu phỏng vấn các chị phục vụ giặt giũ và những nhân viên khác của khách sạn tại đường 40. Họ phải thực hiện các cuộc phỏng vấn này sau giờ làm việc tại bất cứ nơi đâu mà các đối tượng ở. Chủ khách sạn không được cho biết. Theo bản năng, bây giờ Joe định giấu cuộc điều tra - cố gắng giấu - với mọi người.
Tại Bedford Stuyvesant, các nhân viên điều tra của chàng tìm ra căn hộ của cô bạn gái Johnson nên một người trong bọn phấn khởi, gọi điện cho Joe biết rằng, theo các người láng giềng, ngay lúc này Johnson đang ẩn náu tại đấy.
Sự mô tả tỏ ra có ít nhiều phù hợp. Có vẻ như là Johnson. Nhân viên điều tra bên kia đầu dây chắc rằng đấy là Johnson.
“Chúng tôi có vào đấy bắt hắn không, thưa Thanh tra?”
Chàng bảo họ đợi đấy và vội vượt qua cầu Brooklyn. Màng lưới dây cáp của nó lướt qua mắt chàng. Giòng nước bên dưới lóng lánh như crôm. Những con đường phố Brooklyn đông đúc. Chàng cứ mãi ra lệnh cho nhân viên điều tra ngay trên tay lái xe càng lúc càng chạy nhanh thêm. Mỗi lần xe cộ dày dặc, chàng chạm vào cần hoạt động còi hụ. Các nhân viên điều tra thường không tin được, chàng tự cảnh cáo và cố gắng điềm tĩnh. Tin tức họ nhận được thường không đáng tin. Các nhân viên điều tra là những người sống trên thần kinh của họ. Họ tự để mình trở nên kích động quá dễ dàng. Các nhân viên điều tra có khuynh hướng tin rằng mỗi vụ án sẽ bị phá trong năm phút kế tiếp, y như Joe đang tin bây giờ.
Tài xế của chàng dừng xe lại trong một con đường nhà ổ chuột y như Harlem. Có treo nhiều phương tiện cấp cứu phòng hỏa hơn, nhiều rác rưởi không được dọn dẹp hơn - ở lề đường là những đống bao nhựa đầy tràn, nhiều bao vỡ ra và bốc mùi. Những người da đen đứng quanh với những khuôn mặt khít lại và lặng lẽ nhìn chàng. Các nhân viên điều tra đứng thành một nhóm chờ chàng. Joe đến chỗ họ. “Bây giờ chúng ta sẽ vào”, chàng lên tiếng.
Chàng không có trát; Vì lần này có nhiều người, chàng buộc phải gõ cửa. Một người da đen mở cửa, người mà có lẽ ứng với sự mô tả về Johnson, ít ra lớn hơn Johnson mười lăm tuổi và nặng hơn năm mươi cân. Lúc Joe lịch sự xin phép được nhìn qua căn phòng, người đàn ông chấp thuận. Chỉ có ba phòng. Sự quan sát của Joe mất chưa đầy ba mươi giây. Tất cả ba phòng đều trống rỗng.
Lúc ấy đã chiều rồi. Từ một phòng điện thoại ở một góc đường, Joe gọi điện thoại cho Phó thanh tra Pearson, vì trong sự tuyệt vọng của chàng, chàng đã quyết định đưa người đến Nam Carolina để tìm phỏng vấn mẹ Johnson. Hãy tìm thêm hai nhân viên điều tra nữa, chàng ra lệnh. Các biên lai sẽ phải ký và Joe biết điều này. Đó là một chi phí lớn và do đó, còn là một sự liều lĩnh, nhưng chàng cảm thấy phải chấp nhận. Các nhân viên điều tra sẽ phải gặp tại văn phòng của chàng trong hai giờ nữa, chàng cho Pearson biết Họ sẽ cần vé phi cơ đi Nam Carolina và Pearson phải đích thân ký các biên nhận. Joe gác máy.
Lúc chàng đến bộ tư lệnh, hai điều tra viên đang đợi trong phòng trước và các biên nhận đã nằm sẵn trên bàn giấy của Joe nhưng chưa ký. Chàng đứng nhìn xuống các tờ biên nhận ấy.
Lúc ấy đã hơn sáu giờ chiều và lẽ ra Pearson đã kết thúc ngày làm việc và đi mất. Nhưng ông ta lại đứng bên kia bàn giấy và đôi mắt không ngước lên khỏi các tờ biên nhận. Như ông ta đang nghiên cứu mấy tờ giấy ấy ở tư thế ngược, trong lúc chờ đợi bất kỳ phản ứng nào từ vị chỉ huy của mình.
“Tôi đã bảo ông ký rồi mà.”
“Vâng, thưa ngài,” Pearson đáp. Ông ta có vẻ khúm núm.
Nếu ông ta không định ký, Joe nghĩ, vậy tại sao ông ta không về nhà nhỉ? Tại sao lại để mình bắt được ông ta ở đây đêm nay khi mà ngày mai có lẽ mình sẽ bình tĩnh lại nhỉ?
Pearson lên tiếng, “Tôi chỉ nghĩ - nếu ngài không về kịp, tất nhiên tôi sẽ phải ký.”
Joe nhìn thấy sự sợ hãi trên khuôn mặt ông ta. Sợ sự trả đũa cuối cùng của chế độ quan liêu nếu ông ta ký, sợ chỉ huy trưởng của mình nếu ông không ký.
“Tôi đợi quanh quẩn cho chắc”, Pearson bảo.
Bất kỳ thuộc cấp nào khác có lẽ đã về nhà rồi, Joe nghĩ, chắc chắn bất kỳ ai. Chàng không biết phải tự vệ cách nào ngay cả như thế. Lúc chàng giận dữ ký vào các biên nhận, chàng bảo: “Đưa các nhân viên điều tra ấy vào đây”. Hãy sa thải hắn, Joe tự ra lệnh cho mình. Hãy sa thải hắn ngay bây giờ, “Ông ra đợi bên ngoài đi.”
Sau khi đến cửa, Pearson quay lại và do dự nói, “Trưởng ngành điều tra tìm ông gần suốt buổi chiều đấy. Tôi đã ngăn ông ấy lại tối đa. Ông ấy nhắn ông phải gọi điện cho ông ấy tại nhà đấy.”
“Tôi đã bảo ông ra đợi bên ngoài mà.”
Lúc ấy các nhân viên điều tra bước vào, và Joe trao cho họ các biên nhận. Khi chàng đã ra chỉ thị và cho họ đi, chàng với tay lấy điện thoại, quay số cho Cirillo.
Trưởng ngành điều tra đang nhai thứ gì đấy. Hiển nhiên là Joe đã cắt ngang bữa ăn tối của ông. Giọng ông nghe hầu như yếu ớt. Vào lúc này, ông đang cố gắng giấu sự bực dọc của mình. Nhưng rõ ràng là có uy quyền trong ấy. “Vừa rồi mỗi lần tôi tìm ông, ông đều không có mặt tại văn phòng cả đấy”, ông bắt đầu.
Joe thận trọng lên tiếng. “Không có trong văn phòng, có lẽ thế. Nhưng không mất liên lạc đâu.”
“Hình như chẳng có ai biết ông ở đâu cả”. Giọng nói nhẹ rắn lại, trở thành một lời tố cáo. “Vậy tại sao thế nhỉ?”
Joe thấy một cách để đổ tội cho Pearson. Chàng có thể kêu rằng vị tham mưu trưởng của chàng đã không chịu liên lạc thường xuyên với chàng và xin được chuyển ông ta đi. Có lẽ điều này sẽ đổi được nỗi bất bình của Cirillo, và tống cổ Pearson luôn một thể.
“Tôi đã rất bận rộn”, Joe do dự đáp. Bây giờ chàng có thể xin một viên trung úy mà chàng đã dự kiến, người có thể được chàng tin tưởng để bảo vệ lưng chàng cho đến lúc chàng xếp đặt xong cuộc sống của chàng ngăn nắp trở lại.
“Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi đấy.”
Nhưng chàng có thể hình dung được Pearson đang chờ ngoài cửa đợi bất kỳ biểu hiện giận dữ nào của Joe có thể tiếp theo và điều ấy làm chàng do dự lâu hơn.
“Tôi sẽ lưu ý ban tham mưu của tôi để điều ấy không xảy ra nữa.”
“Ông làm điều ấy đấy”, Cirillo nhai một lúc, bất kỳ thứ gì đang có trong miệng ông, rồi bảo, “Vậy vụ án mà ông đang tiến hành là vụ gì thế?”
Giọng lè nhè đã trở lại. Tuy vậy, lối hỏi này phải được chặn lại ngay. “Tôi hy vọng”, Joe quả quyết, “có thể trình ông một báo cáo đầy đủ chi tiết chẳng bao lâu nữa mà thôi”. Ngay cả các vị trưởng ngành điều tra cũng kiểm soát được đấy. Nếu bạn biết cách.
“Về việc ông đã vào một khách sạn tại đường 40 phải không?”
Joe suy nghĩ. Làm sao ông ta biết điều ấy nhỉ? Chàng lên tiếng. “Một trong số những người tình nghi bị trông thấy đến đấy.”
Cirillo rơi vào im lặng, chắc chắn đang lựa lời.
Ông có thể đòi hỏi một bản phúc trình đầy đủ, ngay lúc này qua điện thoại hoặc yêu cầu một phần. Ông có thể nói đại khái như thế này: chỉ cần cho tôi một câu ngụ ý thôi. Nhưng nếu ông ta làm một trong hai điều này, cả ông lẫn Joe đều thấy hình như ông đang xin xỏ tin tức ở một thuộc cấp. Một sự mất mặt. Ông không chịu làm thế, Joe tin như vậy. Chàng tính đến điều ấy.
“Hãy để tôi khuyên ông một lời”, Cirillo nói sau một lúc, và Joe biết chàng đã được an toàn, ít ra là cũng tạm thời. “Nhiệm vụ của ông là điều khiển, ông không phải đi ra hoạt động ở bên ngoài, ông không phải chạy lông dông ngoài đường để theo đuổi người ta. Đấy là lý do tại sao ông đã có sáu trăm nhân viên đấy”. Mặc dù Cirillo có vẻ như đã hết nhai, bữa ăn tối của ông chắc vẫn còn đấy, hầu như trong tầm tay. “Ông hiểu không?”
Hãy đổ tội cho Pearson, Joe tự ra lệnh cho mình. Chậm một phút thì quá trễ đấy. Mình sẽ mất thời cơ.
Nhưng ở địa vị Pearson, Joe cũng sẽ chẳng ký những biên nhận ấy và chàng biết như thế. Chấp nhận điều ấy đi, chàng nghĩ. Hơn nữa, hắn có chờ mình mà. Có lẽ hắn sẽ ký nếu cần đấy. Hắn không thách thức mình đâu.
Joe bảo Cirillo rằng chàng hiểu rõ. Vừa rồi tình hình “hơi bất thường một chút”, chàng bảo.
“Bất thường là một câu không đúng sự thật đấy”. Giọng nói của Cirillo đanh lại. “Lần sau tôi tìm ông, tôi muốn ông có mặt ở đấy.”
Đến đó cuộc nói chuyện chấm dứt. Joe ngồi lại bàn giấy ngẫm nghĩ một lúc. Chàng nghĩ về mình và việc nghề nghiệp mình đột ngột để lộ nhược điểm và chàng nghĩ về việc chàng thất bại trong việc tố cáo Pearson với Cirillo. Mình vẫn còn có thể sa thải hắn được, chàng tự nhủ. Hãy sa thải hắn bây giờ đi. Mình sẽ không còn cơ hội nào khác đâu.
Chàng đi ra phòng trước. Pearson đứng bật dậy ngay. Lần này Joe lưu ý đến mái tóc bạc của ông, những nếp nhăn trên khuôn mặt ông, sự sợ hãi của ông.
Pearson nhìn lại mình với vẻ thiểu não của một người chắc chắn rằng mình đã vừa mất việc. Joe nghĩ như thế.
Joe lắc đầu như thể để xua điều ấy đi. “Tôi xin lỗi là đã quở trách ông”, chàng lên tiếng. Vấn đề chỉ vì cuộc sống riêng tư của chàng bị tan vỡ từng mảnh không phải là lý do để tiêu diệt người khác.
Chàng sẽ không làm điều ấy. “Khuya rồi đấy. Hãy về nhà đi. Sáng ra tôi sẽ gặp ông lại.”
Một lúc sau, Joe tự lái xe về nhà. Chàng nằm trằn trọc gần suốt đêm. Chàng nằm cạnh vợ. Trong người chàng chẳng có sự ham muốn nào cả và chàng tin rằng Mary không muốn chàng chạm đến nàng. Đêm nay, như mọi lần gần đây, nàng nằm nghiêng quay mặt vào tường.
Vụ án bị đình trệ. Chàng phải tìm phương cách để tiến hành lại. Chàng cân nhắc đến việc đưa một vài tấm ảnh, của Johnson chẳng hạn, cho những người ở khách sạn tại đường 40. Có lẽ chàng cũng sẽ đưa ra tấm ảnh của Mary nữa, chàng sẽ quan sát phản ứng của họ. Điều ấy sẽ làm cho chàng có dịp chất vấn họ lại. Có lẽ một người trong bọn họ sẽ nhận ra vợ chàng. Có lẽ một người trong bọn họ sẽ mô tả được gã đàn ông cùng đi với nàng vào trong đó. Chàng vẫn thức, ray rứt với ý nghĩ này cho đến lúc giọng nói của Mary thình lình từ bóng tối cất lên với chàng.
“Yêu cầu anh đừng động đậy nữa.”
Thế là chàng cố gắng nằm im tiếp tục trầm ngâm và không ngủ.
Judith nghỉ một buổi chiều để đi cắt tóc và uốn lại. Nàng ngồi dưới một máy sấy hơn một giờ lật lướt qua các tạp chí trang trí và thời trang. Mặc dầu có tiếng về giá trị chữa bệnh của chúng, chúng không làm nàng quan tâm. Nàng đã để lại cho Katz số điện thoại của thẩm mỹ viện, trong lúc nàng trả tiền nàng được gọi đến máy điện thoại. Nàng cảm thấy một cảm giác hài lòng hơn sự linh tính thường lệ. Cảm giác ấy xuất hiện tức khắc và rất mạnh. Vì một lý do nào đấy nàng tưởng tượng ra cú điện thoại là của Joe, cuối cùng đã cố gắng bắt liên lạc với nàng, hơn của ông Katz với loại khẩn cấp văn phòng rất thường cắt ngang những giờ rảnh rỗi của nàng. Kết quả là nàng lên tiếng “a lô” hơi hồi hộp vào trong ống nói.
Nhưng thật ra đấy là ông Katz. Ông bảo nàng phải về văn phòng ngay, vì một vụ án quan trọng và tế nhị vừa xảy ra, đòi hỏi sự chú ý của nàng.
Hai giờ trước, nàng được biết khi nàng đến đấy, một tiếp viên hàng không của hãng Air Lingus, hàng không Ái Nhĩ Lan, đã bị cưỡng hiếp trong phòng vệ sinh của phụ nữ cạnh quán cà phê tại khách sạn Summit ở góc đại lộ Lexington và đường 51. Người phụ nữ trẻ, cùng với số còn lại của phi hành đoàn, đã ngồi trong quán cà phê sau một bữa ăn trưa trễ. Tất cả đều mặc đồng phục và họ đang đợi chiếc xe buýt nhỏ đến để đưa họ lên phi cơ, bỗng cô tiếp viên hàng không liếc xuống và thấy chiếc bít tất dài màu xanh nhạt của nàng tuột xuống. Nàng xin phép viên phi công, để lên phòng nàng sửa lại nhưng ông ta đã vừa ký trả phòng. “Hãy dùng phòng vệ sinh đi”, ông ta khuyên nàng, “có một cái ngay phòng kế cận đấy”. Nhưng ông ta giục nàng phải nhanh lên vì chiếc xe buýt sẽ đến đấy bất kỳ phút nào. Các nhân viên phi hành đoàn đều ngồi cả với những chiếc xắc đựng đồ nghỉ đêm ở chân họ. Người nữ tiếp viên hàng không nhặt chiếc xắc da và đi dọc hành lang vào phòng vệ sinh phụ nữ có vẻ còn trống. Nàng bước vào phòng đầu tiên trong dãy và kẻ tấn công, cao một thước chín, và vừa mãn hạn tù, đã ở sẵn đó và chộp lấy nàng. Một tay hắn bụm miệng nàng lại. Tay kia hắn đè nàng xuống chậu vệ sinh và cưỡng hiếp nàng từ phía sau.
Những chi tiết này và những chi tiết khác Judith có được từ một sĩ quan bắt giữ, một nhân viên cảnh sát trẻ tên Foley, vì tên hiếp dâm đã chạy thoát ra lúc một nhân viên an ninh khách sạn đang đi ngang qua hành lang ấy. Người bảo vệ đuổi theo hắn ra ngoài đường và hầu như rơi vào trong tay của chàng Foley, ngẫu nhiên đang tuần tiễu vị trí ấy vào lúc ấy.
Sau khi đánh điện xin giúp đỡ và chuyển giao phạm nhân, Foley chạy lại và tìm thấy người tiếp viên hàng không nửa mê nửa tỉnh trên sàn nhà. Từ đấy trở đi chàng làm mọi việc theo sách vở, thực hiện thật đúng công tác cảnh sát, điều mà theo kinh nghiệm của Judith, ít có với bất kỳ nhân viên cảnh sát nào, càng ít hơn nữa đối với một nhân viên còn trẻ, và trong lúc phỏng vấn chàng, nàng xúc động với vẻ khâm phục vì cả sự nhẹ nhàng của chàng đối với người phụ nữ trẻ lẫn tính cẩn thận với kẻ tình nghi. Chàng nhanh chóng đưa người phụ nữ trẻ đến bệnh viện, đã chờ nàng ở đấy và đã đi với các chứng từ của cả các bác sĩ và nạn nhân. Khi về lại bót cảnh sát, chàng đã cởi đồ lục soát tù nhân. Quần lót của hắn, có lẽ có vết tinh dịch khô, chàng đã đưa nạn nhân theo chàng đến văn phòng Judith và bây giờ nàng đang chờ bên ngoài.
“Một điều khác”, Foley lên tiếng, “là phi hành đoàn đã bay và bỏ nàng lại. Họ đã ở trên không. Nàng ở đây đơn độc và không được khỏe.”
Trước kia Judith đã nói chuyện với những nạn nhân bị chấn thương, dù ít khi với một người suy nhược như cô gái này. Nàng có tên là Bridget Mc Namara, hai mươi hai tuổi và khá đẹp. Nàng có mái tóc màu đỏ, một làn da mịn Ái Nhĩ Lan và vẫn còn mặc bộ đồng phục màu xanh xốc xếch của nàng. Nàng ngồi xuống chiếc ghế bên kia bàn giấy, bắt đầu khóc và không dừng lại được. Thời gian qua đi. Bên ngoài trời tối sẫm lại.
Judith cho chàng sĩ quan Foley về nhà nhưng giữ ông Katz lại để trả lời điện thoại và tìm cà phê trong lúc nàng cố gắng vỗ về Bridget Mc Namara. Nhưng cô gái, vừa mới kết hôn, không khuyên giải được. Nàng vẫn cứ khóc rằng chồng nàng sẽ không quan tâm đến nàng nữa, sẽ không bao giờ thông cảm. Nàng định làm gì nhỉ? Đã quá giờ ăn tối và nàng vẫn cứ khóc. Nàng cũng chẳng nhìn thấy kẻ tấn công nàng, và hắn cũng thế, vì hắn đã đè mặt nàng trong chậu vệ sinh mãi đến nỗi nàng chắc chắn rằng nàng sẽ phải chết đuối và suốt thời gian bị hãm hiếp nàng đã cầu nguyện Đức Mẹ cứu mạng nàng. Tên hiếp dâm mang một chiếc nhẫn nổi to tướng và chiếc nhẫn nằm trong miệng nàng dưới chậu vệ sinh. Đấy không phải là lỗi của nàng nhưng chồng nàng sẽ không bao giờ chạm đến nàng nữa. Nếu Judith nghĩ khác đi, thì nàng không hiểu được những người đàn ông Ái Nhĩ Lan. Judith có thể tin điều ấy. Nàng chỉ biết những người nàng đã gặp ở đây, những người ở Ái Nhĩ Lan lai ba, bốn thế hệ.
Những người sinh ra và được giáo dục tại New York. Nhưng nàng đã trông thấy rất nhiều cuộc hôn nhân bị đổ vỡ vì cưỡng hiếp, dù là Ái Nhĩ Lan hay không, vì các ông chồng - đàn ông nói chung - thường không chịu trách nhiệm về điều thân thể họ hoặc tâm trí họ sẽ làm.
Vấn đề đặt ra là cho người phụ nữ trẻ này ngủ qua đêm ở đâu. “Cô có ai quen có thể đến không, bất kỳ ai cô có thể gọi không?”
Bridget không có ai. Nàng đã có một chỗ để ngủ, vì hãng hàng không có dành lại cho nàng phòng thường xuyên của nàng tại khách sạn Summit và đã cho người liên lạc để đưa nàng đến đấy. Ông ta đã đợi bên ngoài với ông Katz một hai giờ đầu. Bây giờ ông ta đã đi mất, ngay cả ông Katz cũng thế, và khách sạn Summit không còn thành vấn đề nữa. Đối với Judith, đấy là một sự xúc phạm vì chẳng có ai chịu nghĩ đến vấn đề đưa cô gái này lại đấy cả.
“Thôi được”, nàng bảo, “Cô sẽ về nhà với tôi”. Trong căn hộ của nàng, Judith chuẩn bị bữa ăn tối và cố gắng ép Bridget ăn. Nàng ngồi thức với cô gái gần suốt đêm, đôi lúc cầm tay cô, dọn cho cô nhiều tách trà, cuối cùng cho cô đi ngủ trong phòng dự trữ với một ngọn đèn ngủ. Dù rằng đã nhiều năm Judith sống rất gần với những vụ hiếp dâm, nhưng nàng vẫn chưa bao giờ gần như vụ án này cả.
Nàng ở lại với cô suốt ngày hôm sau, sau khi gọi điện hủy bỏ tất cả các cuộc hẹn, vì không thể bỏ cô gái một mình được. Judith đưa nàng đến bảo tàng viện lịch sử Tự Nhiên đối diện bên kia đường với những phòng nàng và cố gắng làm cô gái quan tâm đến những con khủng long; và đến cửa hàng Bloomingdale để mua cho cô một ít nước hoa; và hai lần đưa cô đến phòng tắm, vì với ý nghĩ vào phòng vệ sinh phụ nữ một mình là Bridget bắt đầu run rẩy. Nàng run như một người bị cóng lạnh.
Judith gởi xe nàng trong một ga ra ở góc đường 27 và Broadway. Lúc hai giờ, nàng lấy xe ra và đưa Bridget đến phi trường, vì hãng hàng không định đưa chồng cô đến trong chuyến bay ngày ấy để đưa cô về nhà. Nhưng trong phòng quá cảnh, lúc chiếc phi cơ được loan báo đến, Bridget bắt đầu khóc lại và cô van Judith nói giúp với chồng. “Hãy bảo anh ấy rằng tôi chẳng làm gì được cả”, nàng khóc. “Hãy bảo anh ấy rằng đây không phải là lỗi của tôi đi.”
Người chồng vì không có hộ chiếu, không được phép ra ngoài khu vực hải quan. Judith vào trong đấy nói chuyện với anh ta. Anh ta độ ba mươi, một người đàn ông to lớn, một cầu thủ bóng đá nhà nghề và anh ta không có vẻ gì là nghe một lời nào của nàng cả. Anh ta cứ mở ra rồi nắm chặt nắm tay lại trong lúc lầm bầm chửi rủa viên phi công ngày hôm qua, người đã bay đi và bỏ vợ anh ta lại.
Cuối cùng, Judith đưa Bridget vào phòng đợi. Cô vừa chạy vừa khóc vào vòng tay của chồng và anh ta ôm nàng lại. Khuôn mặt anh ta dữ tợn và trên vai cô, anh ta vẫn còn chửi rủa.
Nàng để họ lại đấy với nhau, ra khỏi phi cảng, băng qua đường đến nơi đậu xe, vào trong xe nàng, ngồi sau tay lái và bỗng thấy mình đang khóc. Nàng không dừng lại được. Nàng càng cố gắng, nàng càng khóc to hơn. Vì Bridget và chồng cô ta, có lẽ thế. Hoặc có lẽ vì chính nàng. Mình có thể tiếp tục đau khổ như thế này giùm người khác được bao lâu nữa?
Nàng nghĩ thế. Và rồi: Tại sao mình phải quá cô đơn như thế nhỉ? Cuối cùng tiếng khóc của nàng dừng lại. Nàng lau mặt vào tay áo và lái xe về nhà.
Nàng có nhiều bạn bè khắp thành phố và chiều hôm ấy nàng điện thoại cho nhiều người mà nàng nghĩ có thể đến vì nàng cần đi chơi với họ. Nhưng họ đều có gia đình cả, và không đến được vì một lời báo ngắn ngủi như thế.
Người bạn thân nhất của nàng từ bao năm vừa kết hôn mới tháng trước và đã di chuyển đến Washington rồi - hôn nhân là trạng thái tự nhiên, hình như thế.
Còn lại Leonard hay cha mẹ nàng, những người đang sống ở ngoại ô và tất nhiên sẽ hài lòng khi gặp nàng. Nhưng Leonard không phải là người nàng cần đêm nay, và nàng đã quá lớn tuổi để tìm an ủi nơi gối mẹ nàng. Ngoài ra, sẽ có rất nhiều lời khuyên không mong muốn đi kèm với điều ấy. Thế là nàng đặt ống nghe lại vào giá và bỏ cuộc, sau đó ra khỏi nhà, đến Đại Lộ Columbus, rồi xuống phố dọc theo một vỉa hè đông người đi dạo và những chiếc bàn nhà hàng đẩy ra gần đến lề đường. Đại Lộ Avenue trong ít năm qua đã trở thành những nhà hàng sát vách nhau phục vụ mọi loại thức ăn các dân tộc có thể tưởng tượng được, phần lớn đều có những bực thềm và người ta ăn uống ngoài trời vào những đêm ấm trời như đêm nay.
Nàng ngồi xuống bên ngoài một nhà hàng Nhật ở chiếc bàn nhỏ trong góc và cảm thấy bị bao bọc bằng một lan can.
Nàng gọi món sushi và trà Nhật và nhìn người qua lại, họ cũng thuộc mọi dân tộc, mọi lứa tuổi, mọi phái, kể cả những kẻ không thể xác định được.
Họ đến bằng cách đi bộ, bằng tấm trượt, họ khóa xe đạp vào các máy đo thời gian đậu, gỡ những chiếc kẹp ở mắt cá chân và những ống nghe Walkman ở trên đầu ra và vào bên trong để ăn uống một cách tao nhã dù ít dù nhiều. Những người mặc những bộ đồ buôn bán đi ngang qua nàng ôm những bao tạp hóa; những kẻ nhàn rỗi từng cặp nhún nhảy và những cặp đồng tính luyến ái dạo qua, mái tóc bóng loáng của họ giống như bắt ánh sáng. Một người đàn ông có xâm hình mặc một chiếc áo lót đi qua rất nhanh và một bà già có mái tóc nhuộm màu cam bước qua từ từ và không ngớt lẩm bẩm một mình. Trên đường, xe cộ cũng đi qua, dòng thác một chiều không ngừng nghỉ của những chiếc ô tô và taxi, xe buýt, xe kéo đang nặng nề trên đường đi tới một nơi nào đấy, ngay cả vào giờ đêm này; và khói từ dòng xe vây phủ chung quanh, xộc vào mũi nàng với mùi nước tương thơm phức đã đặt sẵn ở đấy.
Nàng trả tiền và bước ra khỏi thềm. Trong lúc về nhà, nàng ghé lại một quầy kem lạnh để mua một chóp kem va-ni và nàng nhấm nháp món này trong đoạn đường còn lại; cái lạnh giá trở nên ấm và trơn trong miệng nàng, và bằng cách nào đấy, động tác này - việc ăn một chóp kem lạnh - có vẻ như giải khuây nàng như đôi khi nó đã làm lúc nàng còn bé.
Nằm trên giường trong bóng tối, nàng bắt đầu lại nghĩ đến vụ án ấy. Khi nàng phá được nó, nàng chắc như thế, các tít báo có lẽ sẽ đề cập đến nó như là “Các cuộc cưỡng hiếp có băng video”. Sẽ có nhiều tựa đề, nàng tin như thế, và nàng có thể hối lộ Joe với ý nghĩ ấy, nếu chàng có gọi đến. Bản thân nàng không cần hoặc thích những tựa đề, nhưng chúng có thể giúp cho nghiệp vụ của Joe. Nhưng lúc nào chàng sẽ gọi đến nhỉ? Nàng đã nhắn khắp nơi. Tại sao chàng không gọi nhỉ?
Rồi nàng bắt đầu hình dung đôi tay chàng mà nàng nghĩ là thật đẹp, những sợi lông quăn đẹp đẽ trên lưng những ngón tay dài. Đầu óc nàng đầy những tưởng tượng khêu gợi. Nàng thấy mình đang tắm với chàng. Đôi tay ấy xoa xà phòng khắp người nàng, rồi lấy nước dội bọt xà phòng xuống thân thể ướt át của nàng.
Điều ấy rất sống động. Nàng bỗng giận mình và nhảy khỏi giường, đi ra cửa sổ đứng. Nàng nhìn ra thành phố ban tối và tự buộc mình nghĩ đến Bridget và chồng cô mà độ giờ này phi cơ của họ có lẽ sẽ đáp xuống Dublin.
Ngay sau đấy, tim nàng thôi đập mạnh. Nàng điềm tĩnh lại và trở vào giường. Lần này nàng kiểm soát kỹ đầu óc nàng, và cuối cùng ngủ thiếp đi.
Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt - Robert Daley Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt