Nguyên tác: The Broken Wings
Số lần đọc/download: 2162 / 23
Cập nhật: 2016-02-29 12:15:22 +0700
Chương 10: Giải Thoát
S
elma đã chung sống với chồng nàng được năm năm trời mà vẫn chưa có con để thắt chặt mối liên hệ tinh thần giữa nàng và người chồng và hòa giải hai linh hồn đố kỵ.
Ở mọi nơi, người đàn bà hiếm muộn đều bị miệt thị bởi đa số đàn ông đều khát vọng có con nối giòng.
Một người đàn ông khỏe mạnh coi người vợ không con như kẻ thù; y oán ghét nàng, ruồng bỏ nàng, và cầu mong cho nàng chết đi. Công tử Bey thuộc loại người này; so sánh theo vật chất, y giống như cục đất, cứng như thép, và tham lam như cái huyệt. Cái khát vọng có con để nối dõi tông đường đã khiến y oán ghét Selma dù nàng đẹp và hiền thục.
Một cái cây sinh trong hang hốc không kết trái; và Selma, người đàn bà sống trong xó tối cuộc đời không sinh con cái...
Con họa mi không làm tổ trong lồng, hầu tránh số phận tù đày cho lũ chim con... Selma là một tù nhân khốn đốn nên Trời dạy rằng nàng không nên có một tù nhân khác chia sớt kiếp nàng. Những đóa hoa đồng nội là đàn con sinh do lòng ưu ái của Trời và tình yêu thiên nhiên; và con cái loài người là những đóa hoa kết tinh của tình yêu thương...
Vị thần Yêu Thương chẳng bao giờ ngự trong ngôi nhà tráng lệ của Selma ở ngoại thành Beirut; dầu vậy mỗi tối nàng vẫn quỳ gối cầu xin Trời một mụn con để làm nguồn an ủi... Nàng cầu hết ngày này sang tháng khác cho đến khi Trời đáp lại...
Cái cây trong hang rồi cũng được đơm hoa kết trái. Con họa mi trong lồng khởi công xây tổ bằng những sợi lông cánh. Selma dang đôi tay xiềng xích lên trời để nhận lãnh món quà quý báu, không gì trên đời có thể làm nàng vui sướng hơn là thành người mẹ thai nghén...
Nàng bồn chồn chờ đợi, đếm từng ngày và mong đến lúc điệu nhạc tuyệt diệu của Trời - tiếng đứa con - ngân vang trong tai...
Qua làn nước mắt, Selma bắt đầu trông thấy rạng đông của một tương lai sáng sủa hơn...
Đất trời đang tiết xuân khi Selma nằm trên chiếc giường cực nhọc đớn đau của sản phụ, nơi sự sống dằng co với Tử thần. Bác sĩ và bà mụ đã sẵn sàng trao cho trần thế một người khách mới. Đến nửa đêm Selma bắt đầu rên la không ngớt... tiếng khóc của sự sống tách ra từ cuộc đời... tiếng khóc của triền miên trong bầu trời hư vô... tiếng khóc của một sức mọn trước cái vô tình của bao sức lớn lao... Tiếng khóc của nàng Selma đáng thương đang nằm xuống trong tuyệt vọng dưới chân sự sống và thần chết.
Lúc rạng đông Selma cho ra đời một bé trai. Khi mở mắt nàng thấy những nét mặt tươi cười quanh phòng, đoạn nàng nhìn lại và thấy sự sống đang vật nhau cùng thần chết bên giường. Selma nhắm mắt khóc, và lần đầu nàng nói: "Ô, con trai của tôi". Bà mụ quấn tã cho hài nhi và đặt nó nằm cạnh mẹ, nhưng người y sĩ cứ đăm chiêu nhìn Selma và lắc đầu buồn bã.
Những tiếng hân hoan đánh thức hàng xóm dậy, họ chạy sang chúc tụng người cha từ nay có kẻ nối dõi, nhưng người y sĩ vẫn đăm đăm nhìn mẹ con Selma và lắc đầu...
Gia nhân vội vã đi báo tin mừng cho công tử Bey, nhưng người y sĩ lặng nhìn mẹ con Selma, mặt lộ đầy thất vọng.
Khi mặt trời lên Selma cho con bú; nó mở mắt lần đầu nhìn mẹ; đoạn nó run lẩy bẩy khép mắt lần cuối. Người y sĩ ẵm đứa trẻ trong tay Selma, những giọt nước mắt lăn trên má ông, và ông thì thầm một mình: "Người khách đi rồi".
Đứa trẻ ra đi trong lúc những người láng giềng đang mải chia vui cùng người cha ngoài phòng khách; Selma nhìn bác sĩ khẩn khoản: "Xin đưa con tôi cho tôi, để tôi ôm ấp nó".
Mặc dù đứa trẻ đã chết, tiếng ly cốc va chạm cứ lớn dần ngoài phòng khách...
Đứa bé ra đời lúc tinh sương, và chết lúc mặt trời lên...
Nó sinh ra như một tư tưởng, rồi chết đi như một tiếng thở dài, và biến mất như một cái bóng mờ.
Nó không sống để an ủi vỗ về mẹ nó.
Cuộc đời nó bắt đầu lúc đêm tối hầu tàn và chấm dứt lúc ban ngày mới chớm, như một giọt sương rơi từ mắt đêm tối và khô đi khi gặp ánh ban mai.
Một viên ngọc trai thủy triều đánh lên bãi cát, rồi lại trở về lòng biển thẳm khi con nước rút đi...
Một bông huệ từ nụ đời vừa mới nở đã bị ngay gót chân Tử thần chà đạp.
Một người khách quý xuất hiện soi sáng trái tim Selma và ra đi giết chết hồn nàng.
Đó là kiếp người, kiếp nước, kiếp trời và kiếp trăng sao.
Và Selma nhìn người y sĩ rồi kêu lên: "Đưa con tôi cho tôi ẵm nó, đưa con tôi cho tôi để tôi cho bú".
Người y sĩ gục đầu. Ông nghẹn ngào nói: "Thưa bà cháu bé đã đi rồi, xin bà bình tĩnh".
Selma bật khóc thảm thiết khi nghe bác sĩ báo tin dữ. Nàng im lặng một hồi lâu rồi mỉm cười sung sướng... Gương mặt nàng chợt sáng lên như vừa giác ngộ điều gì, và nàng bình thản nói: "Xin đưa con tôi cho tôi; đem nó lại gần tôi để tôi thấy dù nó đã lìa đời".
Người y sĩ bồng xác đứa trẻ đặt vào tay Selma. Nàng ôm lấy nó đoạn quay mặt vào tường và nói với cái xác không hồn: "Con ơi, con đến đây để đưa mẹ đi xa; con đến đây để chỉ cho mẹ đường quay về bến. Mẹ đây, con ơi; hãy dắt mẹ đi, chúng ta giã biệt cái hang tăm tối này".
Một phút sau, ánh nắng xuyên qua màn cửa sổ và đọng trên hai cái xác bất động trên giường, chiếc giường được vẻ trang nghiêm của im lặng giữ gìn và đôi cánh Tử thần che phủ. Người y sĩ rời khỏi căn phòng, nước mắt lưng tròng, và khi ông ra đến phòng khách rộng lớn, thì tiệc mừng đã đổi thành tang lễ, nhưng Công tử Bey Galib không hề thốt một lời, hoặc nhỏ một giọt lệ. Y vẫn đứng bất động như một pho tượng, ly rượu trên tay.
*
Ngày hôm sau, Selma được khâm liệm trong chiếc áo cưới màu trắng rồi được nhập quan. Áo liệm của đứa trẻ là tấm lụa bà mụ đã quấn cho nó lúc ra đời; quan tài của nó là đôi cánh tay người mẹ, huyệt chôn nó là ngực người mẹ. Hai cái xác nằm chung trong một cỗ áo quan, và tôi kính cẩn bước đi trong đám đông đưa tiễn Selma và con nàng về nơi an nghỉ.
Đến nghĩa trang, Giám mục Galib bắt đầu đọc kinh trong khi các linh mục khác cầu nguyện, và gương mặt ủ rũ của họ phảng phất một màn u tối và trống rỗng.
Lúc hạ huyệt, một người đi đưa đám thì thầm: "Lần đầu tiên trong đời tôi thấy hai cái xác nằm chung một quan tài". Người khác nói: "Dường như thế đứa nhỏ đến để giải thoát mẹ nó khỏi tay người chồng bất nhân".
Người thứ ba nói: "Kìa, nhìn công tử Bey: y đang ngước mắt nhìn trời, cặp mắt như bằng thủy tinh; thật chẳng có vẻ gì là một người mất cả vợ lẫn con trong một ngày cả". Người thứ tư thêm: "Chú ông ta, ông Giám mục ngày mai sẽ kén cho ông ta một người vợ khác, giầu có và khỏe mạnh hơn".
Ông Giám mục cùng các linh mục tiếp tục đọc kinh cho đến khi bọn phu đào huyệt đắp xong nấm mồ rồi nhưng người đưa đám từng người một tiến lại chỗ hai chú cháu ông Giám mục ân cần và kính cẩn chia buồn; còn tôi đứng chơ vơ một góc, chẳng ai an ủi, tựa hồ Selma và con nàng không nghĩa lý gì đối với tôi cả.
Những người tiễn đưa rời nghĩa trang; người phu đào huyệt đứng bên nấm mồ mới, tay cầm sẻng.
Tôi lại bên ông ta gạn hỏi: "Bác có nhớ mộ của viên ngoại Karamy ở đâu không?"
Ông nhìn tôi đăm đăm một lúc rồi chỉ vào mộ Selma nói: "Ngay chỗ này; tôi đã đặt con gái ông ấy phía trên, và trên ngực nàng là đứa bé và trên cùng tôi lấy sẻng này đắp đất lên".
Tôi liền nói: "Trong huyệt này bác đã chôn cả trái tim tôi".
Khi người phu đã khuất sau rặng bạch dương, tôi không còn tự chủ được nữa; tôi gục xuống mồ Seima và nức nở khóc.