Nguyên tác: Brave New World
Số lần đọc/download: 0 / 116
Cập nhật: 2023-07-16 17:10:04 +0700
Chương 11
S
au cái hoạt cảnh trong Phòng Thụ tinh, tất cả các đẳng cấp cao ở London thèm muốn phát điên được trông thấy cái sinh linh dễ thương đã quỳ trước Giám đốc Lò ấp – hay đúng hơn là cựu Giám đốc, vì con người tội nghiệp ấy đã từ chức ngay sau đó và không bao giờ đặt chân đến Trung tâm lần nữa – đã khuỵu xuống và gọi lão ta: “Cha ơi” (câu chuyện đùa quá hay nên khó có thể là thật). Linda, ngược lại, không có mảy may tác động gì, không ai có mong muốn nhỏ nhất nhìn Linda. Nói một ai đó là mẹ, đó là kể một chuyện tiếu lâm, là một sự khiêu dâm. Hơn nữa bà ta không phải là một người hoang dã thực thụ, đã được ấp ra từ một cái chai và được đào luyện như bất kỳ ai khác: bởi vậy không thể có những ý tưởng thật độc đáo. Cuối cùng, và đây là lý do mạnh nhất cho những ai không muốn nhìn thấy Linda tội nghiệp – đó là ngoại hình của bà ta. Béo bệu, không còn tuổi trẻ, răng xấu, nước da hoen ố, và gương mặt thì (Ford ơi!) – đơn giản bạn không thể nhìn bà ta mà không phát ốm, vâng, thật sự phát bệnh.
Bởi vậy người ta đã quyết định tốt nhất là không nhìn Linda. Và Linda, về phần mình, không có ý muốn nhìn họ. Đối với bà ta, trở về nền văn minh là trở về với soma, và cái khả năng nằm trên giường mà hưởng thụ hết ngày nghỉ này đến ngày vui khác, không bao giờ phải thấy lại một cơn đau đầu hay buồn nôn, không bao giờ có cái cảm giác như sau khi chơi ma túy mescalin, cái cảm giác như thể đã làm điều gì phản xã hội đáng hổ thẹn đến mức không bao giờ dám ngẩng đầu lên nữa. Soma không bao giờ chơi khăm ta như thế. Trạng thái nghỉ ngơi vui chơi mà soma mang lại là hoàn hảo và, nếu sáng hôm sau có cảm giác không vừa ý, thì cái cảm giác ấy không phải là thực chất, mà chỉ là do so sánh với trạng thái nghỉ ngơi quá vui tươi mà thôi. Cách khắc phục là làm cho cuộc vui tiếp diễn mãi. Bà ta tham lam gào thét đòi những liều lượng lớn hơn, thường xuyên hơn nữa. Bác sĩ Shaw lúc đầu bác bỏ, sau để cho bà ta muốn bao nhiêu có bấy nhiêu. Bà ta nhét đến hai mươi gram một ngày.
“Nó sẽ kết liễu bà ta trong vòng một hai tháng” – bác sĩ nói riêng với Bernard. “Rồi có ngày trung tâm hô hấp sẽ bị liệt. Không thở được nữa. Kết thúc. Và thế cũng là tốt. Nếu chúng ta có thể làm trẻ lại thì sẽ là chuyện khác. Nhưng chúng ta không thể.”
Thật ngạc nhiên, như mọi người nghĩ (vì nhờ soma – nghỉ ngơi vui chơi, Linda cảm thấy thoải mái tiện lợi nhất), John phản đối.
“Các ngài cho bà ấy nhiều thế để rút ngắn cuộc đời bà ấy đi phải không?”
“Theo một nghĩa thì đúng đấy!” – Bác sĩ Shaw xác nhận – “Nhưng theo một nghĩa khác thì chúng tôi đang thật sự kéo dài cuộc sống của bà ấy”. Người trai trẻ nhìn trân, không hiểu. “Soma có thể làm người ta mất đi một số năm trong thời gian” – bác sĩ tiếp tục – “nhưng hãy nghĩ về độ dài khổng lồ, không thể đo lường được nó có thể cho người ta sống ngoài thời gian. Mọi thứ ảo giác vui chơi do soma gây ra là một mẩu của những gì mà tổ tiên chúng ta thường gọi là vĩnh cửu”.
John bắt đầu hiểu. “Vĩnh cửu là trong môi và mắt chúng ta” 1 – anh lẩm bẩm.
“Hả?”
“Không có gì.”
“Tất nhiên” – bác sĩ Shaw tiếp tục – “anh không thể để cho người ta đi nói huyên thiên về vĩnh cửu khi người ta có một việc gì nghiêm túc để làm. Nhưng khi bà ấy không có bất cứ công việc gì nghiêm túc...”
“Dù sao” – John khăng khăng – “tôi không tin điều đó là đúng”.
Bác sĩ nhún vai. “Được. Tất nhiên. Nếu anh muốn để bà ấy kêu la suốt ngày đêm.”
Cuối cùng John buộc phải nhượng bộ. Linda có soma của bà. Từ đó trở đi bà ta ở lì trong căn phòng nhỏ của bà, trên tầng ba mươi bảy của tòa cao ốc của Bernard, nằm trên giường, radio và tivi lúc nào cũng mở, và vòi nước hoắc hương nhỏ giọt, những viên soma trong tầm tay với của bà ta, bà ta vẫn ở đó nhưng không hề hiện diện, lúc nào cũng đi xa, xa vô cùng; đi vui chơi, vui chơi trong một thế giới khác, nơi âm nhạc của radio là một mê lộ của những màu sắc âm vang, một mê lộ trượt, run, nó dẫn (bằng những đoạn uốn lượn không tránh khỏi đẹp đẽ làm sao) đến một trung tâm sáng rực của niềm tin tuyệt đối, nơi những hình ảnh nhảy múa của tivi là những diễn viên Fili 2 (gợi tình) ca hát ngọt ngào khôn tả, nơi những giọt hoắc hương hơn cả hương thơm, nó là mặt trời, là một triệu chiếc kèn saxophone, là Popé đang làm tình, hơn thế nhiều, hơn không sánh nổi, và không bao giờ kết thúc.
“Không, chúng tôi không thể làm trẻ lại. Nhưng tôi vui mừng” – bác sĩ Shaw kết luận – “là đã có cơ hội này để thấy một thí dụ về tình trạng lão suy ở người. Rất cám ơn anh đã cho gọi tôi”. Ông ta nồng nhiệt bắt tay Bernard.
Bởi vậy lúc này tất cả mọi người chạy theo John. Và vì chỉ có thông qua Bernard, người bảo vệ tin cậy, mà người ta có thể gặp John, Bernard bây giờ lần đầu tiên trong đời, thấy mình không chỉ được đối xử bình thường, mà còn là một nhân vật có tầm quan trọng đặc biệt. Không còn những câu chuyện về rượu trong chất Giả-máu của gã nữa, không còn ai chế giễu bộ dạng của gã nữa. Henry Foster từ bỏ cung cách cũ mà thân thiện với gã, Benito Hoover làm quà cho gã bằng sáu hộp kẹo cao su hormone tình dục; Phó Phòng Thụ tinh đi ra và gần như chầu chực khúm núm để được mời đến một trong những bữa tiệc của Bernard. Còn về phụ nữ, Bernard chỉ cần gợi ý có thể có một giấy mời cho họ, thì gã muốn bất cứ thứ gì ở họ cũng được.
“Bernard mời tớ đến gặp người Hoang dã vào Thứ tư tuần sau” – Fanny tuyên bố một cách đắc thắng.
“Tớ rất vui” – Lenina nói – “Và bây giờ cậu phải thừa nhận cậu đã nghĩ sai về Bernard. Cậu không thấy anh ta thật sự khá là ngọt ngào à?”
Fanny gật. “Và tớ phải nói là tớ đã ngạc nhiên một cách thích thú” – cô nói.
Trưởng dây chuyền đóng chai, Giám đốc Tiền định, ba Phó Chánh Thụ tinh, Giáo sư Cảm giác học trong trường Đại học Điều chế Cảm xúc, Trưởng Ca đoàn Cộng đồng Westminster, Giám sát Bokanovsky-hóa, danh sách những khách mời danh giá của Bernard là vô tận.
“Tuần trước tôi có sáu cô gái” – gã nói riêng với Helmholtz Watson – “Một vào Thứ hai, hai vào Thứ ba, hai vào Thứ sáu, và một vào Thứ bảy. Và nếu tôi đã có thời gian hay thiên hướng, có ít nhất một tá nữa, chỉ có điều họ quá lo âu...”
Helmholtz nghe gã ba hoa với sự im lặng âu sầu và chê trách khiến Bernard mếch lòng.
“Cậu ghen tị” – gã nói.
Helmholtz lắc đầu. “Tôi hơi buồn, thế thôi” – anh trả lời.
Bernard bực tức bỏ đi. “Không bao giờ” – gã tự nhủ – “Không bao giơ? mi?nh no?i chuy??n v??i tay Helmholtz na?y n??a?.
̀ mình nói chuyện với tay Helmholtz này nữa”.
Ngày tháng trôi đi. Thành công rầm rộ đến trên đầu Bernard, trong quá trình hòa giải hoàn toàn gã với một thế giới (như một chất làm say có thể làm) mà đến lúc đó gã thấy hoàn toàn bất mãn. Chừng nào mà nó ghi nhận gã là quan trọng, thì trật tự của mọi việc là tốt. Tuy nhiên, hòa giải bằng thành công của gã, gã vẫn không muốn từ bỏ cái đặc quyền phê phán trật tự ấy. Vì hành động phê phán làm tăng cảm giác của gã về tầm quan trọng, làm cho gã cảm thấy lớn hơn. Hơn nữa, gã thật sự tin rằng có những sự vật để phê phán. (Đồng thời, gã cũng thật sự thích thành công và có những cô gái mà gã muốn). Trước những người lúc này vì người Hoang dã mà đến nịnh bợ gã, Bernard phun ra một lối phỉ báng phi chính thống. Người ta lễ phép nghe gã. Nhưng sau lưng gã người ta lắc đầu: “Anh chàng trẻ tuổi này rồi kết cục chẳng ra gì”. Họ nói lên lời tiên tri chắc chắn, vì bản thân họ vào đúng lúc đã được thấy cái kết cục chẳng ra gì.
“Anh ta sẽ chẳng tìm ra một người Hoang dã khác để giúp anh ta thoát lần thứ hai” – họ nói. Nhưng lúc này đang có người Hoang dã thứ nhất; nên họ lễ phép. Và bởi vì họ lễ phép, nên Bernard cảm thấy mình thật vĩ đại – vĩ đại và đồng thời thấy mình bay bổng, nhẹ hơn không khí.
“Nhẹ hơn không khí” – Bernard chỉ tay lên trời nói.
Giống như một viên ngọc trai ở trên trời, cao, cao trên đầu họ, quả khinh khí cầu có dây buộc của Phòng Khí tượng hồng rực lên dưới nắng.
“... Người Hoang dã đó” – Bernard chỉ thị – “phải được giới thiệu tất cả mọi khía cạnh của đời sống văn minh...”
Lúc này anh đang được giới thiệu một quang cảnh nhìn từ trên cao của nó, từ sân trực thăng của Tháp Charing-T. Xếp Ga trực thăng và nhà Khí tượng học Thường trực đang làm công việc hướng dẫn. Nhưng chính Bernard là người nói nhiều nhất. Say sưa, gã đang xử sự như thể ít nhất, gã là ngài Kiểm soát Thế giới đến thăm. Nhẹ hơn không khí.
Quả Tên lửa Xanh Bombay từ trên trời đáp xuống. Các hành khách bước xuống. Tám cậu đồng sinh Dravidian giống nhau như đúc trong những bộ kaki ló ra từ tám lỗ cửa cabin – những tiếp viên hàng không.
“Một ngàn hai trăm năm mươi kilômét một giờ” – Xếp Ga nói một cách khoa trương – “Ngài thấy thế nào, ngài Hoang dã?”
John nghĩ nó thật tuyệt. “Còn nữa” – ông ta nói – “Ariel có thể bay một vòng quanh quả đất trong bốn mươi phút. 3 ”
Bernard viết báo cáo cho ngài Mustapha Mond. “Có điều lạ là người Hoang dã ít tỏ ra sửng sốt hay kinh hãi trước những phát minh của thế giới văn minh. Có lẽ chắc chắn một phần là do người đàn bà tên Linda, m. 4 cậu ta, đã nói.”
(Mustapha Mond cau mày. “Cái thằng ngu này nghĩ mình câu nệ đến mức không muốn nhìn cái từ ấy viết ra đầy đủ hay sao.”)
“Phần nào sự quan tâm của cậu ta tập trung vào cái mà cậu gọi là “linh hồn”, mà cậu cứ khăng khăng coi như một thực thể độc lập với môi trường vật lý, trong khi, tôi cố gắng chỉ ra cho cậu ta thấy...”
Ngài Kiểm soát bỏ qua mấy đoạn kế tiếp và sắp sửa lật sang trang để tìm một cái gì cụ thể thú vị hơn, thì mắt ngài bắt gặp ngay một loạt câu hết sức lạ thường. “... Mặc dù tôi phải thú nhận” – ngài đọc – “rằng tôi đồng ý với người Hoang dã trong việc thấy cái tính ấu trĩ quá dễ dàng của nền văn minh, hay như cậu ta diễn tả, không đắt lắm, và tôi muốn nhân dịp này xin lưu ý Ngài đến...”
Sự tức giận của Mustapha Mond ngay lập tức chuyển thành vui vẻ. Cái ý tưởng tay này đang long trọng lên lớp cho ngài – cho chính ngài – về trật tự xã hội thật quá lố bịch. Ngài muốn phát điên. “Mình phải cho nó một bài học”. Dù sao, lúc này, bài học vẫn chưa được cho.
Đó là một nhà máy nhỏ sản xuất những bộ đèn cho trực thăng, một chi nhánh của Tập đoàn Thiết bị Điện lực. Họ được đón tiếp ngay trên nóc nhà (vì bức thư giới thiệu của ngài Kiểm soát có hiệu lực như phép màu) bởi vị Chánh Kỹ thuật và vị Quản lý Yếu tố con người. Họ bước xuống thang vào nhà máy.
“Mỗi quá trình” – vị Quản lý Yếu tố Con người giải thích – “được tiến hành càng xa càng tốt, bằng một Nhóm Bokanovsky duy nhất”.
Và, thật thế, tám mươi ba Delta đen, đầu ngắn và hầu như không mũi đang làm công việc ép-lạnh. Năm mươi sáu máy kẹp và tiện bốn-trục đang được thao tác bởi năm mươi sáu Gamma mũi khoằm lanh lợi. Một trăm linh bảy Epsilon Xê-nê-gan được điều kiện hóa bằng nhiệt đang làm việc trong xưởng đúc. Ba mươi ba Delta nữ, đầu dài, tóc hung, khung xương chậu hẹp, tất cả cao 1 mét 69 cộng trừ 20 milimét, đang làm đinh vít. Trong phòng lắp ráp, các máy phát điện một chiều đang được hòa bởi hai nhóm Gamma Cộng lùn tịt. Hai chiếc bàn làm việc thấp kê đối diện nhau, giữa chúng là một băng tải chở những chi tiết rời; bốn mươi bảy chiếc đầu tóc hoe đối với bốn mươi bảy chiếc đầu tóc hung. Bốn mươi bảy mũi tẹt bên bốn mươi bảy mũi khoằm, bốn mươi bảy cằm thụt bên bốn mươi bảy cằm đưa. Những cơ cấu đã hoàn thành được kiểm tra bởi mười tám cô gái tóc quăn nâu vàng giống nhau như đúc trong Gamma xanh cây; đóng vào thùng nhựa bởi ba mươi tư đàn ông Delta Trừ chân ngắn, thuận tay trái; và xếp lên xe tải bởi sáu mươi ba Epsilon dớ dại mắt xanh, tóc nâu vàng nhạt và tàn nhang.
“Ôi thế giới mới tươi đẹp...” Với tính ác trong trí nhớ, người Hoang dã thấy mình đang lặp lại những lời của Miranda. 5 “Ôi thế giới mới tươi đẹp, với những con người như thế này trong đó.”
“Và tôi bảo đảm với anh” – vị Quản lý Yếu tố Con người kết luận, khi họ rời nhà máy – “chúng tôi không có bất kỳ rắc rối nào với các công nhân của chúng tôi. Chúng tôi luôn luôn tìm thấy...”
Nhưng bỗng nhiên người Hoang dã vùng ra khỏi những người cùng đi và nôn oẹ dữ dội, sau một bụi nguyệt quế, như thể đất cứng bỗng thành một chiếc trực thăng trong lỗ hổng không khí.
Bernard viết: “Người Hoang dã từ chối dùng soma và dường như rất đau buồn vì người đàn bà Linda, m. của cậu vẫn triền miên trong mê lạc. Cũng đáng chú ý rằng, mặc dầu tình trạng lão suy và vẻ ngoài ghê tởm của m. cậu ta, người Hoang dã thường xuyên đến thăm mụ và tỏ ra rất gắn bó với mụ ta – một thí dụ thú vị cho thấy có thể thực hiện đào luyện sớm để sửa đổi thậm chí đi ngược lại những phản ứng tự nhiên (trong trường hợp này là phản ứng chùn lại trước một đối tượng khó chịu)”.
Tại Eton, họ đậu xuống nóc Trường Quý tộc. Ở phía bên kia Sân Trường, năm mươi hai tầng của tòa Tháp Lupton trắng mờ trong nắng. Trường Cao đẳng ở bên trái, và bên phải họ, Trường Đồng ca Cộng đồng vươn những chiếc cột tôn nghiêm của nó bằng bê tông cốt thép và kính tia cực tím có thể xuyên qua. Ở giữa hình bốn cạnh này, sừng sững bức tượng cổ Ford Của Chúng Ta bằng thép-crôm.
Tiến sĩ Gaffney, Hiệu trưởng, và Keate, cô Giáo vụ trưởng tiếp họ khi họ bước ra khỏi máy bay.
“Các vị có nhiều cặp đồng sinh ở đây không?” – người Hoang dã hỏi giọng khá lo lắng khi họ bắt đầu tua thanh tra.
“Ồ, không” – viên Hiệu trưởng trả lời – “Trường Eton dành riêng cho những nam nữ thanh niên đẳng cấp cao. Một quả trứng, một người trưởng thành. Tất nhiên như thế giáo dục khó hơn nhiều. Nhưng vì họ được yêu cầu nhận trách nhiệm và phải đối phó với tình trạng khẩn cấp bất ngờ, nên không thể nào làm khác được”. Ông ta thở dài.
Trong khi đó thì Bernard rất khoái cô Keate. “Nếu cô rỗi vào bất kỳ tối Thứ hai, Thứ tư, hay Thứ sáu nào” – gã nói. Hất ngón tay cái về phía người Hoang dã, Bernard thêm: “Hắn kỳ cục lắm, cô biết đấy”, “Hâm”.
Cô Keate mỉm cười (và nụ cười của cô thật duyên dáng, gã nghĩ); nói cám ơn; sẽ rất hân hạnh được đến dự một trong những bữa tiệc của gã. Ông hiệu trưởng mở một cái cửa.
Năm phút trong lớp học của những Alpha Kép Cộng khiến John hơi bối rối.
“Tính tương đối sơ giản là gì?” – anh thì thầm hỏi Bernard. Bernard cố giải thích, rồi nghĩ kỹ hơn và đề nghị họ nên sang một lớp khác. Từ sau một cái cửa trong hành lang dẫn đến lớp địa lý của Beta Trừ, một giọng nữ cao trong trẻo ngân vang. “Một, hai, ba, bốn”, và sau đó, với sự nóng ruột mệt mỏi, “Thôi bỏ đi”.
“Luyện tập nhân-mãn” – cô Keate giải thích – “Hầu hết các trò gái của chúng tôi là vô sinh 6, tất nhiên. Bản thân tôi cũng là một người vô sinh”. Cô mỉm cười với Bernard. “Nhưng chúng tôi có khoảng tám trăm đứa chưa mất khả năng sinh đẻ, bởi vậy cần thường xuyên luyện tập.”
Trong lớp địa lý Beta Trừ, John biết rằng “một khu bảo tồn hoang dã là một nơi có khí hậu hoặc các điều kiện địa lý khác không thuận lợi, hoặc nghèo tài nguyên thiên nhiên, không đáng tốn công khai hóa”. Một tiếng cạch, phòng tối om, và bỗng nhiên trên màn hình trên đầu giáo viên có Những Người Ăn Năn nằm phủ phục trước Đức Bà, và khóc than (vì John đã nghe thấy tiếng than khóc), thú tội trước Jesus trên thánh giá, trước hình ảnh đại bàng của Pookong. Bọn học sinh Eton khẽ hét lên và cười. Vẫn than khóc, Những Người Ăn Năn đứng lên, giật tung khăn đội đầu, và với những chiếc roi có mấu, bắt đầu tự đánh, hết roi này đến roi khác lên thân mình. Tiếng cười vang to gấp đôi, át cả tiếng rên rỉ ghi âm đã được khuếch đại.
“Nhưng sao họ lại cười?” – người Hoang dã hỏi trong sự bối rối khổ sở.
“Tại sao à?” – Hiệu trưởng quay lại anh với nụ cười toác vẫn còn trên mặt – “Tại sao? Bởi vì nó vô cùng buồn cười”.
Trong ánh sáng nhập nhoạng của phòng chiếu phim, Bernard liều làm một cử chỉ mà trong quá khứ, dù trong bóng tối hoàn toàn, gã cũng không dám liều mạng để làm. Mạnh mẽ trong tầm quan trọng mới của gã, gã choàng tay ôm eo cô Giáo vụ trưởng. Nó mảnh mai, mềm như liễu. Gã vừa định hôn trộm cô một hai cái và cấu véo nhè nhẹ thì cửa chớp vụt mở.
“Có lẽ chúng ta nên tiếp tục đi” – cô Keate nói và đi ra phía cửa.
“Và đây” – một lúc sau Hiệu trưởng nói – “là Phòng Điều khiển Học-trong-lúc-ngủ”.
Hàng trăm hộp âm nhạc tổng hợp, mỗi cái cho một phòng ngủ, đứng thành từng dãy trên những giá quanh ba mặt tường của căn phòng; những ngăn kéo trên bức tường thứ tư là những cuộn băng ghi âm trong đó những bài học-trong-khi-ngủ khác nhau được ghi lại.
“Cậu trượt cuộn băng ở chỗ này” – Bernard ngắt lời Tiến sĩ Gaffney, giải thích – “Ấn nút này...”
“Không, nút này” – Hiệu trưởng chữa lại, vẻ bực mình.
“Ừ thì nút này. Cuộn băng sẽ tua lại. Các tế bào selen biến xung ánh sáng thành sóng âm, và...”
“Và thế là xong” – Tiến sĩ Gaffney kết luận.
“Họ có đọc Shakespeare không?” – người Hoang dã hỏi khi họ đi qua Thư viện Trường, bước về phía các phòng Thí nghiệm Sinh Hóa.
“Chắc chắn là không” – cô Giáo vụ trưởng đỏ mặt nói.
“Thư viện của chúng tôi chỉ chứa những sách tham khảo. Nếu các bạn trẻ của chúng tôi muốn giải trí, họ có thể đến những nơi cọ xát 7. Chúng tôi không khuyến khích họ ham mê bất cứ trò vui đơn độc nào.”
Năm xe buýt chất đầy học sinh trai gái, đang hát hoặc im lặng bối rối, lượn quanh họ trên đường cái tráng men.
“Mới từ lò thiêu xác trở về” – Tiến sĩ Gaffney giải thích, trong khi Bernard thì thầm, làm một cuộc hẹn hò với cô Giáo vụ trưởng cho đêm ấy. “Đào luyện-chết bắt đầu ở mười tám tháng. Mỗi đứa trẻ hai buổi sáng một tuần trong một Bệnh viện để tập Chết. Tất cả những trẻ tốt nhất được giữ ở đó, và được cho kem sôcôla vào những ngày chết. Chúng học cách tiếp nhận cái chết như sự tất nhiên.”
Giống như bất kỳ quá trình sinh lý nào khác” – cô Giáo vụ trưởng xen vào một cách chuyên nghiệp.
Tám giờ ở Savoy. Tất cả đã được bố trí.
Trên đường họ trở lại London, họ dừng ở nhà máy của Tập đoàn Truyền hình Brentford.
“Phiền các vị dừng một chút để tôi gọi điện thoại” – Bernard yêu cầu.
Người Hoang dã chờ và nhìn. Ca Chính Ban Ngày vừa hết giờ. Đám đông các công nhân đẳng cấp thấp xếp hàng ở trước nhà ga xe điện một ray – bảy hoặc tám trăm đàn ông đàn bà Gamma, Delta và Epsilon, trong số họ có không quá một chục khuôn mặt và vóc người khác nhau. Người bán vé đẩy đến cho mỗi người trong bọn họ một hộp các tông dẹt. Chuỗi dài đàn ông đàn bà di chuyển chậm chạp về phía trước.
“Cái gì trong những cái hộp kia?” 8 (nhớ Người Lái buôn thành Venice), người Hoang dã thắc mắc khi Bernard trở lại bên anh.
“Khẩu phần soma trong ngày” – Bernard trả lời khá mập mờ, vì gã đang nhai kẹo cao su Benito Hoover cho. “Họ được nhận sau khi xong việc. Bốn viên nửa gram. Thứ bảy được sáu viên.”
Gã trìu mến khoác tay John, và họ bước lên trở lại trực thăng.
Lenina đến phòng thay đồ, vừa đi vừa hát.
“Cậu có vẻ rất hài lòng với bản thân” – Fanny nói.
“Tớ hài lòng lắm” – cô trả lời. Xoạc! “Bernard vừa gọi điện cách đây nửa giờ.” Xoạc, xoạc! Cô bước chân ra khỏi chiếc quần soóc. “Anh ấy có một cái hẹn bất ngờ.” Xoạc! “Yêu cầu tớ đưa người Hoang dã đến chỗ cọ xát đêm nay. Tớ phải bay đây”. Cô hối hả bước vào phòng tắm.
“Cô ấy thật may mắn” – Fanny tự nhủ khi nhìn theo Lenina bước đi. Không có sự ghen tị trong lời bình luận, Fanny tốt bụng chỉ nói một sự thật. Lenina may mắn; may mắn trong việc chia sẻ với Bernard một phần hậu hĩ danh tiếng to lớn của người Hoang dã, may mắn trong việc đem đến cho con người vô nghĩa của cô những khoảnh khắc vinh quang cực kỳ chói lọi.
Cô thư ký của Hội Thiếu nữ Ford đã chẳng yêu cầu cô thuyết trình về những kinh nghiệm riêng của cô đó sao? Cô đã chẳng được mời đến buổi dạ tiệc hằng năm của Câu lạc bộ Aphrodite đó sao? Cô đã chẳng xuất hiện trong những Bản tin Phim gợi tình, xuất hiện bằng nghe, nhìn, sờ mó trước hàng triệu người trên khắp hành tinh đó sao?
Không hiếm những cá nhân nổi bật săn đón cô với vẻ xu nịnh. Bí thư thứ hai của ngài Công sứ Kiểm soát Thế giới đã mời cô ăn tối và ăn sáng. Cô đã qua một cuối tuần với Chánh Thẩm Tòa Ford và một cuối tuần khác với Ca sĩ Cộng đồng Thượng thặng Canterbury. Chủ tịch Tập đoàn Nội Ngoại Tiết liên tục gọi điện thoại, và cô đã ở Dauville với Phó Thống đốc Ngân hàng châu Âu.
“Tất nhiên, cái đó thật tuyệt vời. Và theo một cách” – cô đã thú nhận với Fanny – “tớ cảm thấy như thể tớ đã đạt được một cái gì đó nhờ giả vờ thế nào đó. Bởi vì tất nhiên, điều đầu tiên mọi người muốn biết là làm tình với một người Hoang dã thì nó ra làm sao. Và tớ phải nói là tớ không biết”. Cô lắc đầu. “Phần lớn đàn ông không tin tớ, tất nhiên. Nhưng điều ấy là đúng. Tớ mong nó không đúng”. Cô buồn bã nói thêm và thở dài. “Anh ta đẹp trai khủng khiếp, cậu có thấy thế không?”
“Nhưng anh ta không thích cậu thì phải?” – Fanny hỏi.
“Có lúc tớ nghĩ anh ấy thích, có lúc lại không. Anh ấy luôn luôn tìm mọi cách tránh mặt tớ; khi tớ vào phòng thì anh ấy ra, không chạm vào người tớ, thậm chí không nhìn tớ. Nhưng đôi khi, nếu tớ đột nhiên quay lại, tớ bắt gặp anh ấy đang nhìn tớ chằm chằm, và lúc đó – ờ, cậu biết đàn ông thế nào khi họ thích mình chứ.”
Có, Fanny biết.
“Tớ chẳng biết nói thế nào” – Lenina nói. Cô không biết nói thế nào; không chỉ vì bối rối; mà còn khá bấn loạn.
“Bởi vì, cậu biết không, Fanny, tớ thích anh ấy.”
Thích anh nhiều, nhiều nữa. Tuyệt, bây giờ sẽ có một dịp may thật sự, cô nghĩ khi tận hưởng mùi thơm của mình sau khi tắm. Ta-ta-ta, một dịp may thật sự. Tâm trạng phấn chấn của cô tràn trề ra bài hát.
Ôm em đi, anh yêu, cho đến khi anh mê
Hôn em đi, cho đến khi em phê
Ôm em đi, anh yêu, ôm ghì mê mải
Tình yêu, giống soma, đẹp mãi.
Đàn organ-mùi đang nhả những hợp âm rải hân hoan tươi tỉnh của Khúc tùy hứng Thảo mộc rì rầm của xạ hương và oải hương, của hương thảo, húng quế, mía, ngải giấm; một loạt chuyển giọng táo bạo qua những phím hương vị sang long diên hương và chầm chậm quay về mùi gỗ đàn hương, long não, tuyết tùng, mùi cỏ mới cắt (lâu lâu mơ hồ một thoáng nghịch âm – một chút cật phèo, một tí phân heo kinh tởm nhất) rồi quay trở lại những mùi thơm đơn giản khi khúc nhạc bắt đầu. Làn xạ hương cuối cùng vừa lịm tắt thì một tràng vỗ tay nổi lên; và ánh sáng bật lên. Cuộn băng ghi trong chiếc máy nghe nhạc tổng hợp bắt đầu tỏa ra. Lúc này bộ tam tấu siêu-violon, siêu-cello, và giả-oboe tràn ngập không gian với khoảng lặng dễ chịu của nó. Ba bốn chục nhịp – và sau đó, nổi lên trên nền nhạc một giọng khác hơn giọng người bắt đầu líu lo, phát ra lúc từ cổ họng, lúc từ đầu, lúc rỗng, lúc chất chứa những hợp âm đầy thương cảm, nó dễ dàng chuyển từ giọng trầm của Gaspard Forster ghi lại ngay trên biên giới của tông nhạc, đến một nốt láy rền vút lên cao hơn nốt Đô cao nhất mà Lucrezia Agujari 9, trong toàn bộ ca sĩ trong lịch sử, chỉ mình cô đã có lần (vào năm 1770, tại rạp opera Ducal ở Parma, trước sự ngạc nhiên của Mozart) cất lên lảnh lói.
Ngồi lún trong những lô của mình, Lenina và người Hoang dã hít và nghe. Bây giờ đến lượt mắt và da. Đèn trong nhà tắt hết, những con chữ lửa nổi lên chắc nịch như thể tự chúng đứng được trong bóng tối. BA TUẦN LỄ TRONG MỘT CHIẾC TRỰC THĂNG. MỘT PHIM-TÌNH CA NHẠC MÀU, LẬP THỂ, GIỌNG NÓI TỔNG HỢP. CÓ ĐỆM ĐÀN ORGAN-MÙI.
“Ấn và giữ những nút bấm trên tay ghế của anh” – Lenina thì thầm – “Nếu không anh không thưởng thức được những tác động của phim-tình Fili đâu”. Người Hoang dã làm theo.
Trong khi đó, những chữ lửa đã biến mất. Mười giây hoàn toàn chìm trong bóng tối. Rồi bỗng, hiện lên những hình ảnh nổi của một người da đen khổng lồ và một phụ nữ trẻ Beta Cộng đầu ngắn tóc vàng, hai cánh tay họ khóa vào nhau, chói lọi vô song, trông có hình khối bằng da bằng thịt, thực hơn thực tế nhiều.
Người Hoang dã giật mình. Cái cảm giác ấy trên môi anh. Anh giơ một bàn tay lên miệng; cảm giác nhồn nhột ngưng lại, anh đặt lại tay lên nút bấm kim loại; cảm giác ấy trở lại. Trong khi ấy cây đàn organ-mùi thở ra toàn mùi xạ hương. Một rãnh âm siêu-bồ-câu gù “U-uuh”; và rung chỉ ba mươi hai lần trong một giây, một tiếng bass Phi châu trầm sâu hơn đáp lại “A-aah”. “Uuh-ah!”, “Uuh-ah!” Những cặp môi lập thể lại dính vào nhau, và thêm một lần nữa những vùng nhạy cảm dục tình trên mặt của sáu nghìn khán giả trong Alhambra ngứa ran lên với khoái cảm kích thích không chịu nổi. “Uuh...”
Cốt truyện phim cực kỳ đơn giản. Một phút sau những “Uuh” và những “Aah” đầu tiên (một bản song ca đã được hát và một cuộc tình nhỏ được làm trên tấm da gấu nổi tiếng đó, có thể sờ thấy mỗi sợi lông của nó một cách rõ ràng và tách biệt – Phó Phòng Tiền định đã nói rất đúng), người da đen gặp một tai nạn máy bay trực thăng, rơi chúi đầu xuống. Ầm! Đau nhói ở trán. Từ khán phòng đồng thanh vang lên “ối!” và “ái!”.
Chấn động này đã đánh bật tất cả đào luyện mà gã da đen đã được thụ hưởng. Hắn bày tỏ một đam mê cuồng si độc nhất vô nhị với nàng Beta tóc vàng. Cô cưỡng lại. Hắn dai dẳng lì lợm theo đuổi. Xảy ra những cuộc tranh chấp, thuyết phục, tấn công đối thủ, cuối cùng là một cuộc bắt cóc giật gân. Cô Beta tóc vàng bị cướp đi mất đưa lên trời và bị giữ ở đó, bay liệng trên đó ba tuần lễ trong một cuộc chạm mặt hằn học với gã da đen điên rồ kia. Cuối cùng, sau cả loạt những cuộc phiêu lưu và nhào lộn ngoạn mục trên trời, ba chàng trai Alpha trẻ đẹp đã giải cứu cô thành công. Gã da đen bị tống cổ đến Trung tâm Tái Đào luyện Người Lớn, và phim kết thúc có hậu và đoan trang, nàng Beta tóc vàng trở thành nhân tình của cả ba ân nhân của cô. Họ tạm ngưng một lát để hát một bản tứ ca tổng hợp, ngập trong nhạc đệm của siêu-dàn-nhạc với mùi hoa nhài trên cây đàn organ-mùi. Rồi tấm da gấu xuất hiện lần cuối cùng, và giữa tiếng kèn saxophone, cái hôn nổi mờ dần thành bóng tối, cơn nhồn nhột điện tử cuối cùng chết lịm trên những đôi môi giống như một con bướm đêm hấp hối run lên run lên càng lúc càng yếu dần đi, càng lúc càng uể oải, và cuối cùng lặng tắt hoàn toàn.
Nhưng với Lenina, con bướm đêm không hoàn toàn chết. Thậm chí sau khi đèn đóm tắt hết, trong khi họ chầm chậm lê bước cùng với đám đông về phía thang máy, cái bóng mờ của nó còn vỗ cánh đập vào môi cô, vẫn còn vạch những con đường ghê sợ của lo âu và hoan lạc trên da cô. Má cô đỏ bừng lên. Cô nắm lấy cánh tay ẻo lả của người Hoang dã, ép chặt vào người cô. Anh nhìn xuống cô, tái nhợt, đau đớn, ham muốn, và xấu hổ về ham muốn của mình. Anh không xứng đáng, nhưng... Mắt hai người chạm nhau trong thoáng chốc. Đôi mắt cô hứa hẹn cả một trời hoan lạc! Tình yêu châu ngọc của nữ hoàng! Anh vội nhìn đi chỗ khác, gỡ cánh tay bị cầm tù ra. Anh mơ hồ sợ rằng cô sẽ thôi không còn là cái mà anh có thể cảm thấy mình không xứng đáng. “Tôi nghĩ cô không nên xem những thứ như thế” – anh nói, vội vã chuyển lời trách cứ về sự không hoàn thiện của bất kỳ mảng nào trong quá khứ hay tương lai khả dĩ, từ bản thân Lenina sang những hoàn cảnh xung quanh.
“Những thứ như thế nào, John?”
“Như bộ phim khủng khiếp ấy.”
“Khủng khiếp?” – Lenina thật sự ngac nhiên – “Nhưng tôi thấy nó đáng yêu mà”.
“Nó thấp hèn” – anh căm phẫn nói – “nó đê tiện”.
Cô lắc đầu. “Tôi không hiểu anh định nói gì”. Tại sao hắn quỷnh đến thế? Tại sao hắn vô duyên vô cớ làm mất hứng mọi thứ như thế?
Trong chiếc taxi-trực thăng, anh hầu như không nhìn cô. Bị ràng buộc bởi những lời nguyền nặng nề chưa bao giờ được nói ra, tuân theo những lề luật đã hết hiệu lực từ lâu, anh ngồi ngoảnh đi và im lặng. Đôi khi, như thể một ngón tay co giật vì thần kinh căng thẳng, gần như một sợi dây đàn đứt, đột nhiên toàn thân anh run rẩy trong một cái rùng mình hoảng sợ.
Chiếc taxi-trực thăng đậu xuống mái tòa nhà chung cư của Lenina. “Cuối cùng” – cô hớn hở nghĩ khi bước ra khỏi cabin. Cuối cùng, cho dù ngay bây giờ anh ta vẫn quỷnh như thế. Đứng dưới đèn, cô chăm chú ngắm mình trong chiếc gương tay. Cuối cùng. Ờ, mũi cô hơi bóng lên. Cô lắc cho rơi những hạt bụi phấn rời. Trong khi anh trả tiền taxi, vẫn còn chút thời gian. Cô xoa chỗ bóng, nghĩ: “Anh chàng đẹp trai dễ sợ. Anh ấy không cần phải bẽn lẽn như Bernard. Và, tuy thế... Bất kỳ một tay đàn ông nào khác chắc đã làm chuyện đó từ lâu. Được rồi, bây giờ cuối cùng cũng đến lúc”. Một mảnh khuôn mặt trong chiếc gương tròn nhỏ xíu bỗng mỉm cười với cô.
“Chúc ngủ ngon” – một giọng nghèn nghẹt nói sau lưng cô. Lenina xoay người. Anh chàng đứng ở khoảng trống của khung cửa cabin, mắt dán vào, chằm chằm, chắc chằm chằm từ lúc cô đang đánh phấn, đợi, nhưng đợi cái gì? Hay ngập ngừng, cố đi đến quyết định, và suốt thời gian đó suy nghĩ, suy nghĩ – cô không thể tưởng tượng ra những ý nghĩ phi thường nào. “Chúc ngủ ngon, Lenina” – anh nhắc lại và cố gắng mỉm cười đến thành ra nhăn nhó.
“Nhưng John này... Tôi nghĩ anh... Tôi muốn nói, phải không anh?”
Anh đóng cửa và cúi xuống nói gì đó với người lái. Trực thăng bay vọt lên trời. Qua cửa kính máy bay nhìn xuống, người Hoang dã thấy khuôn mặt Lenina ngước nhìn lên, càng xanh xao dưới ánh đèn màu xanh. Mồm mở to, cô ta đang gọi. Khuôn mặt cô trông bị rút ngắn lại nhanh chóng biến mất khỏi tầm mắt anh, mảnh mái nhà vuông bé dần như rơi vào bóng tối.
Năm phút sau anh đã trở về phòng mình. Anh lấy từ chỗ cất giấu ra tập sách chuột gặm, kính cẩn giở từng trang nhem nhuốc và bở nát, và bắt đầu đọc Othello. Anh nhớ, Othello giống nhân vật chính của Ba tuần lễ trong một chiếc trực thăng, một người da đen.
Lau khô mắt, Lenina bước ngang qua nóc nhà tới thang máy. Trong lúc xuống tầng hai bảy của cô, cô lấy ra chai soma. Một gram chắc không đủ, nỗi đau của cô đáng giá hơn một gram. Nhưng nếu cô nuốt hai gram, có nguy cơ cô không thể dậy đúng giờ vào sáng mai. Cô dung hòa, và dốc ba viên nửa-gram vào lòng bàn tay khum khum.
--------------------------------
1 William Shakespeare, Antony và Cleopatra. (ND)
2 Xem chú thích 1, trang 59. (ND)
3 William Shakespeare, Bão tố. Ariel là tên một linh hồn trong vở kịch. (ND)
4 Kiêng chữ “mẹ”! (ND)
5 Xem chú thích trang 183. (ND)
6 Nguyên văn: freemartin – bò cái bất toàn – đẻ đồng sinh cùng một con bò đực, thường là không có khả năng sinh sản. (ND)
7 Feely: xem chú thích 1, trang 59. (ND)
8 William Shakespeare, Người Lái buôn thành Venice. (ND)
9 Lucrezia Agujari (1743 – 1783): Nữ ca sĩ giọng cao người Italy có âm vực rộng đến ba quãng tám rưỡi. Năm 1770, Leopol Mozart đã viết: “Tôi không thể tin cô ta đã lên được đến nốt Đô cao vút đó, nhưng lỗ tai tôi đã buộc tôi phải tin”. (ND)