Số lần đọc/download: 0 / 67
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (2)
C
ả đoàn quân lại lội nước oàm oạp đi theo người dẫn đường. Đôi giày Mỹ đắc dụng thật, tôi cảm thấy rất thoải mái, còn xung quanh thì mấy cậu lính ta đã phải xách dép tuột quai. Bắt đầu đi trên mặt cát nước xâm xấp. Lúc này đã nhờ nhờ nhìn thấy mặt người. Trời ơi, sáng bạch thế này mà cũng tập kích ư?
Chợt thấy hai quả pháo hiệu màu đỏ bay vọt lên không, và tiếp đó là hàng loạt dây đạn lửa đỏ lừ từ làng chếch bên trái chúng tôi bắn sang làng trước mặt. Làng 8 đấy.
Chính trị viên Phùng quay lại đoàn quân, hét lớn: “Xung phong!... Vì Tổ quốc, tiến lên!...”.
Giữa muôn ngàn tiếng nổ, tôi cũng thét lớn: “Tiểu đội 4... Vì Tổ quốc, tiến lên!”.
Tất cả chúng tôi bật dậy, lao thẳng về phía làng trước mặt, cùng đồng thanh hét lớn: “Xung ph...o...ng...”.
Nắm chắc súng, tôi băng nhanh trên bãi cát, tinh thần bị kích động mạnh và hừng hực ý chí chiến đấu. Nhưng cũng chưa bao giờ tôi thấy bình tĩnh bằng lúc này. Trên bãi cát, đạn đỏ lừ bay ngang bay dọc. Không còn biết đạn từ đâu tới và của ta hay địch. Tôi ngạc nhiên vì hầu như không nghe thấy tiếng đạn nổ nữa. Ngay cả dòng lửa tuôn từ phía trái sang kia, tôi biết là của mấy khẩu 12ly7, mà cũng chỉ nghe phùn phụt... phùn phụt... rất kỳ lạ. Tôi vừa chạy, vừa ngây thơ nhìn những viên đạn đỏ đòng đọc bay trên cát ướt, bay đến đâu chiếu sáng đến đó. Có viên bay thẳng được một đoạn thì bồng bềnh lướt lên cao, có viên thì nhẹ nhàng chạm xuống mặt cát, rồi lại nhẹ nhàng nẩy lên, bay đi xa mãi...
“Ta đang xung phong đấy ư? Đây là một cuộc xung phong ư?...” Tôi ngạc nhiên tự hỏi.
Thật ra trên bãi cát lúc này đang râm ran tiếng thét xung trận. “A...a...a...”, tiếng kêu man rợ của thần chết, đang lạnh lùng vung lưỡi hái thu hoạch một mùa gặt dồi dào....
“A...a...a...”, miệng tôi thét lớn theo tiếng thét của đồng đội, chân tôi lướt nhanh và đầu tôi quay cuồng ý nghĩ...
Có lúc tôi nhìn lại, và về sau rất lấy làm lạ, là tại sao đại đội tôi, trên bãi cát rộng chỉ là một toán ngót nghét 60 người, vừa chạy vừa hò hét, vừa bắn AK và B40 vào làng, vậy mà các xạ thủ đại liên của bọn Thủy quân lục chiến không quét ngã một người nào? Chắc là chúng quá bất ngờ vì cuộc tập kích hầu như giữa ban ngày, khi chúng bắt đầu nghỉ ngơi sau một đêm canh gác căng thẳng. Đến lúc tỉnh ra thì chúng tôi đã vào quá gần, chúng chỉ còn cách chém vè.
Những dòng đạn lửa vẫn bay trên bãi cát, và mỗi lần dòng đạn bay đến gần, thì chúng tôi lại chạy dạt về 1 phía khác.
Cậu dẫn đường người Quảng Trị chạy lẫn trong chúng tôi, là người hét khỏe nhất. Cậu ta vừa chạy vừa quay bốn phía thúc dục: “Xông lên! Địch ở mấy gò cát đó... Xông lên! Đứa nào quay lại tao bắn chết”!
Cát ướt rượt. Đang chạy, bỗng hai chân tôi thụt cứng xuống vũng cát mềm ngập tới gối. Cả thân người đổ nhào ra đằng trước. Tôi thở hồng hộc, quay lại nhìn. Cái gùi đã tuột quai từ bao giờ, mất ráo cả nắm cơm lẫn quả đạn cối. Hai dây gùi cứ lòng thòng sau tôi như hai cái đuôi từ nãy đến giờ. Tôi quài tay giật chúng vứt đi. Cậu Quảng Trị, về sau mới biết tên cậu ta là Mốc, chạy lại hỏi: “Sao đó? Sao nằm rồi đó?”. Tôi gằn giọng trả lời: “Không sao cả!”, và lại chồm lên chạy tiếp.
Chợt một tràng đạn chói óc nổ sát sau lưng, tôi quay lại, thấy cậu Quang “xỉn” mặt mày trắng bệch, súng còn bốc khói. Tôi gắt: “Mày bắn vậy có ngày giết tao!”. Đúng là trong lúc xung phong nhiều khi thằng nhát bắn phải thằng gan như thế đó...
Tôi cảm thấy đội hình chạy thật hỗn loạn, nên luôn mồm gọi A mình, và luôn giữ chặt Bích, cây B40 của A, ở bên cạnh. Lúc này B2 đã phân tán đâu cả, chỉ còn A4 của tôi và anh Thanh. Tất cả vừa chạy vừa bắn như điên.
Chúng tôi đã xông tới rìa làng. Từ trong lùm cây trên 1 gò cát nhỏ có luồng đạn lửa phụt ra. Tôi bèn quỳ xuống bắn 2 loạt ngắn vào đó, rồi quay ngoắt lại gọi Bích: “ Hỏa điểm đó! Mày thui cho tao!”. Bích quỳ xuống giương B40 lên bóp cò. Không nổ. Bích xoay quả đạn lại, bóp cò. Vẫn không nổ. Anh Thanh giằng súng, loay hoay bắn, vẫn tịt. Tôi sốt ruột định bắn thử, thì Bích đã đưa súng lên và bất ngờ “Ùng oành”, quả B40 nổ điếc tai, lao vụt đi. Tôi chồm ngay dậy vừa bắn vừa hét: “Thủy quân lục chiến cũng phải thua lính Bắc Việt Nam!”.
Ngô Duy Minh chạy cạnh tôi từ bao giờ, nói nhỏ: “Máu vừa vừa thôi, Vinh ơi!”...
Chúng tôi đã lên được những gò nhỏ, bắt đầu chạy dọc theo doi cát dài. Chỗ hỏa điểm lúc nãy bị trúng quả B40 của Bích, còn thấy hai xác địch cháy đen thui nằm cạnh khẩu đại liên cong queo.
Có những quả đạn nổ gần đấy, khói mù mịt. Sau mới biết là Cối 82 của C9 bắn nhầm vào chúng tôi. DKZ 82 của C11 cũng lập tức quay nòng phang trả C9. May mà mấy xạ thủ này bắn khá tồi nên lính cả 2 C không ai bị chết!...
Quân địch đã rút chạy từ lúc nào, công sự hầm hào bỏ trống cả. Qua mỗi cửa hầm chúng tôi đều tọng một quả lựu đạn vào, thằng nào bị thương mà nằm dưới đó thì chắc chết. Thấy có vài cái xác mặc quần áo rằn ri nằm dưới hào. Nhưng một cái xác nằm trên doi cát mới làm tôi chú ý. Đó là một cái xác không đầu đã hơi trương, mặc quân phục vải Tô Châu đeo thắt lưng đỏ, một tay bị cụt còn quấn băng trắng. Chắc chắn đó là xác lính mình. Bọn chó đẻ, không có lẽ chúng nó chặt đầu tù binh?
Lúc này hai cánh quân C9 và C11 đã hợp lại với nhau, cùng chạy trên doi cát truy kích địch. Hết doi cát, một quãng đồng nước trống trải mở ra, và bờ bên kia là Cao điểm Tám Cát sừng sững đứng chắn. Từ cao điểm này, quân địch tổ chức phòng ngự chống lại cuộc xung phong của chúng tôi. Tiếng “cạch oành” của cối cá nhân liên tiếp vọng đến, chen lẫn từng loạt M16 cực nhanh “chíu chíu” bắn vào các chiến sĩ ta đang ngoi ngóp dưới đồng nước lầy. Một vài người trúng đạn, giãy đành đạch. Thấy tất cả quay lui, tôi cũng chạy trở lại doi cát.
Chúng tôi nằm trong một đoạn hào do địch đào từ trước bên sườn doi cát. Cạnh tôi là Quang “xỉu” và hai cậu lính C9 người Thanh Hóa. Cả bọn chăm chú quan sát mấy bóng người đang băng đồng chạy về phía chúng tôi, bùn đất lấm lem, cái băng trắng ở tay cũng không thấy, không hiểu là ta hay địch. Hai cậu C9 giương súng lên định bắn, tôi gạt đi, bảo để họ đến gần thêm đã. Hơn nữa, đạn địch vẫn bắn không ngừng, và nhiều quả cối cá nhân nổ trùm lên đám người đó. Tôi tưởng họ chết cả, nhưng không, họ lại nhoi lên và chạy tiếp.
Đang nghển đầu lên quan sát, chợt tôi cảm thấy có một ngọn roi sắt quất vào tai trái, gió rít vù qua, nửa mặt bên trái tê dại. Tôi ôm vội tai, chúi người xuống hào và nói: “Quang ơi, tao bị cụt tai rồi...”. Nhưng khi Quang bảo bỏ tay ra để băng, thì không phải bị thương vào tai, mà viên đạn sượt qua cổ, hớt đi 1 tý da, làm chảy máu. Hơi gió quá mạnh làm tôi có cảm giác như vậy. Cũng may, nó mà đi chệch vào bên trong khoảng 1-2cm, trúng động mạch cổ, thì đã “Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng” rồi...
Mấy người ngoài đồng đã chạy tới gần. Toàn quân C9 cả, cái băng trắng bị bùn lấm che mất. Hú vía, suýt nữa thì bắn nhầm...
Chạy đầu toán là Lượng, cùng B1 huấn luyện với tôi. Tới nơi, cậu ta thều thào: “Vinh ơi, băng cho tao với... Tao bị thương rồi...”. Má phải của Lượng có 2 vết sượt rất sâu, mà không chảy máu. Tôi nói: “Tao cũng bị thương, Quang đang băng đây. Mày chạy vào tí nữa, thằng Thịnh băng cho...”. Tôi chỉ xuống cuối hào, nơi Thịnh “rượu” đang ngồi, mặt mũi tái xanh không còn hột máu.
Quang “xỉn” lúng túng cứ quấn chặt băng vào cổ tôi. Một lúc sau tôi phải chạy lên phía trước tìm anh Thanh, thở hồng hộc mà cái băng cứ thít vào cổ, bực mình quá bèn giật phắt ra quẳng đi. Rồi cũng tìm được anh Thanh và anh Hưởng (Chính trị viên phó đại đội) ở trên đầu doi cát. Chỗ đó có một cái hầm cũ của địch. Trong cái hố nơi cửa hầm, tôi thấy Mai Quý Cường đang ngồi, hai mắt băng kín, từ bên mắt trái còn mấy dòng máu đang chảy xuống mặt. Ngồi bên cạnh là Hoàng Nghĩa Hạnh. Lúc này từ dưới đồng nước một cậu lính C11 tất tả chạy lên, quần đùi áo cộc, mặt trắng bệch và méo xệch vì hoảng hốt. Một bên đùi cậu ta đẫm máu, màu máu đỏ tươi nổi bật giữa màu bùn bẩn thỉu. Tôi không hiểu làm sao cậu ta vẫn tiếp tục chạy được về phía sau. Mai Quý Cường cũng đi rồi. Cường ở cùng Khu tập thể Nguyễn Công Trứ với tôi, thế là không kịp dặn gì cậu ta cả. Tôi nhảy xuống hầm cạnh Hoàng Nghĩa Hạnh. Hạnh đang ăn một mẩu lương khô, bèn bẻ cho tôi một nửa. Miếng lương khô chỉ bằng 2 đốt ngón tay mà sao ngon ngọt thế.
Trong hầm đã chật ních lính Trung đội 3 của anh Hạnh “Quảng Bình”. Tôi và Quang, Bích đành phải ngồi ngoài. C trưởng Hộ đã đến đây từ lúc nào, đang đứng quan sát địch với anh Hưởng và mấy cán bộ Trung đội. Anh có vẻ hài lòng. Địch bắt đầu giã cối cá nhân vào chỗ chúng tôi, và đạn pháo của chúng nổ tới tấp phía mạn trái. Tất cả phải ra khỏi hầm đào công sự cá nhân chuẩn bị đánh phản kích. Tôi được lệnh bò lên trên cùng, đào hố chốt ở đó. Đang bò, chợt thấy một khẩu B40 có đạn vứt bên cạnh, tôi nhặt luôn và nghĩ bụng: “Càng nhiều súng, chốt càng tốt”. Tới sau một lùm phi lao thấp lè tè, tôi rút dao găm ra đào hố. Đất toàn cát nên bới cũng dễ.
Trước mặt tôi là Tám Cát. Phía bên trái, đạn pháo kích càng lúc càng nổ dữ dội. Nghe có cả tiếng B40 và những tiếng gào ầm ĩ vọng đến: “Xung phong!... Xung phong!...”. Tôi nhìn sang bên đó, thấy thấp thoáng có bóng người. Không hiểu ai đang xung phong, ta hay địch?.
Khi cái hố đã tạm ổn, tôi đưa mắt quan sát xung quanh. Những khóm phi lao lùn mọc đầy trên doi cát hạn chế tầm mắt khá nhiều. Hình như có mấy tên địch chạy từ Tám Cát xuống đồng múc nước. Yên ngựa phía phải Tám Cát được nối liền với nhiều mỏm đồi thấp lè tè, kéo dài tới tận làng 6 xa xa. Qua yên ngựa thấy thấp thoáng bóng địch đi lại. Sau Tám Cát là biển. Chếch về trái Tám Cát là những gò cát nhỏ liền nhau, nhìn qua chúng có thể thấy sóng biển vỗ ào ào. Sau các gò thấy nhiều lính địch đang nhô lên quan sát. Chúng toàn mặc quần áo rằn ri xanh, phần lớn để đầu trần. Có mấy tên dáng chừng chỉ huy, đang tụm lại phía sau, giơ ống nhòm quan sát. Những chiếc chăn dù bọn chúng khoác trên vai tung bay theo chiều gió. Tôi giơ B40 lên toan bắn 1 phát, nhưng rồi thôi, vì khoảng cách xa quá. Cả quãng đồng nước phải hơn 300m, B40 bắn chưa chắc trúng, lại dễ lộ vị trí. Hơn nữa chúng di động liên tục nên rất khó ngắm. Tôi báo cáo với anh Hưởng, anh chỉ nhắc mọi người sẵn sàng. Nhìn theo hướng bọn địch đang quan sát, tôi quay cổ ra sau, chếch phía trái, thấy trên một mỏm đồi nhỏ lính C nào đó đang kéo vào. Trời đầy mây mù, mưa lâm thâm. Những bóng lính ta im lặng, đi cách thưa, mặc áo mưa màu xám. Pháo địch từ làng 6, làng 5 vẫn bắn tới dữ dội, nhiều quả nổ gần chỗ tôi. Nghe tiếng đạn rít thật dễ sợ.
Tôi kiểm tra lại súng đạn, nhất là khẩu B40. Lúc nẫy cậu Lượng đã bị toác nòng B40 vì súng đầy cát. Tôi thử rút quả đạn ra mà không được, bèn nằm ngửa, 1 chân đạp phần cò, một chân đạp thước ngắm, hai tay lôi hết sức. Cuối cùng thì quả đạn cũng bật ra, nhưng một nửa ống liều phóng bị gãy còn nằm lại trong nòng. Thế này mà bắn thì bỏ mẹ thật. Tôi bò ra sau, nhờ anh Hưởng chọc thông nòng súng, lấy thêm hai quả đạn mới, rồi lại bò về. Khi kiểm tra khẩu AK, giơ lên ngắm thử, tôi chợt thấy ngay trước đầu ruồi có một khuôn mặt người. Ngạc nhiên quá, tôi hơi rướn lên nhìn cho kỹ. Đúng là có một khuôn mặt ẩn trong lá, đôi mắt đang nhìn tôi. Tôi gằn giọng hỏi khẩu lệnh: “3?”. Đáng nhẽ phải trả lời “2!” để cộng lại là 5, thì kẻ kia im lặng. Tôi lặp lại câu hỏi 2 lần nữa, vẫn thấy hắn im lặng, bèn ra lệnh: “Bò lại gần đây!”. Một người đeo túi y tá có chữ thập bò ra. Hóa ra là cậu Y tá C9, người Thanh Hóa. Tôi bực quá gắt: “Cứ câm như thế có ngày tao bắn mất mạng!”. Cậu ta trườn xuống hố, thều thào: - Em bị thương... Anh băng cho em với... - Không có băng! (Cuộn băng ở cổ tôi đã giật vất đi). - Ở trong túi của em ấy... Cậu ta bị thương vào lưng, mấy vết chém khá sâu, miệng há toang hoác, nhìn vào còn thấy mảnh đạn pháo trăng trắng. Mùi máu và nước ruộng tanh nồng. Tôi quấn vội vài vòng quanh bụng cho cậu ta, rồi chỉ đường cho bò ra phía sau. Khi nãy, lúc chạy về nhờ anh Hưởng thông nòng B40, tôi ẩn vào một cái hầm đầy người, bên ngoài hào dựa rất nhiều súng. Khi quay lên, tôi đã cố ý “xách nhầm” một khẩu AK “mẻ nòng” mới cứng đi, để khẩu AK ghẻ lở của tôi ở lại.
Đói quá, mấy đứa chia nhau hăng-gô cơm của anh Thanh. Hình như tối nay C10 vào tập kích Tám cát. Khoảng chập tối, một khẩu 12ly7 của C12 được khiêng đến đặt dưới hố trước cửa hầm tôi. Mấy cậu xạ thủ lấy đường ngắm sẵn vào mục tiêu Tám Cát, khóa tầm khóa hướng lại. Anh Thanh nói có cả bộ đội địa phương cùng tập kích, giải quyết xong Tám Cát rồi sẽ rút. Chúng tôi rất hy vọng mọi chuyện sẽ được như vậy. Đêm ấy ở dưới hầm rất chật. Tôi ngồi hết sức co quắp, mà vẫn bị ép chặt, nhiều lúc chỉ muốn đứng phắt dậy hét lên vì quá bức bách. Phải ngồi suốt đêm thế này thì điên mất. Bên ngoài đạn pháo vẫn nổ ùng oàng. Khoảng 10h đêm, tiếng nổ bỗng rộ lên. Cối 82 của ta đã phát hoả. Lập tức khẩu 12ly7 trên đầu chúng tôi cũng nhả đạn: “Pùng pùng pùng... Pùng pùng... Pùng pùng...”. Các xạ thủ thay nhau bóp cò, mà cũng chỉ kéo được khoảng 6-7 viên liền thôi. Khẩu 12ly7 gần đó cũng bắn dữ dội. Tôi ngồi dưới hầm, lắng nghe trận chiến sôi động bên Tám Cát, rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau thức giấc, pháo địch vẫn đang nổ ầm ĩ. Cuộc tập kích của C10 tối qua hình như đã thất bại. Tôi lại tiếp tục bò lên cái hố chiến đấu ở trên đầu doi cát. Qua yên ngựa của Tám Cát vẫn thấy thấp thoáng bóng địch đi lại. Một vài tên đang chạy xuống ruộng lấy nước. Tôi cặm cụi dùng dao găm đào cho hố thêm sâu. Chợt anh Hưởng chạy đến sau lưng hỏi: “Vinh chưa rút à! Rút nhanh đi! Đuổi theo anh Thanh kìa!”.
Tôi ngạc nhiên và rất bực vì họ rút mà chẳng gọi tôi gì cả, đành xách khẩu AK chạy lui theo doi cát. Trước đó một quãng, bóng Bích, Quang và anh Thanh đang thấp thoáng chạy sau những lùm phi lao thấp. Tôi cắm cổ đuổi theo. Cái xác lính ta cụt đầu vẫn nằm vắt người cạnh doi cát như hôm qua. Lính C9 đã đào hào chốt dọc theo doi. Chợt thấy Hoàng Nghĩa Hạnh dưới hào, tôi nhảy vào ngồi cạnh và nói: “Tao đói lắm, mày có gì ăn cho tao với”. Hạnh rút cái túi cơm đựng gạo rang cạnh khẩu cối 60 ra. Tôi bốc 1 nắm gạo cho vào mồm nhai trệu trạo. Lúc này mới thấy Đàm Mạnh Toàn ngồi gần đấy, đang nhìn tôi, miệng nở một nụ cười nhợt nhạt. Tôi bốc thêm một nắm gạo, từ biệt Hạnh rồi nhảy ra khỏi hào để đuổi theo nhóm anh Thanh. Đang chạy trên bãi cỏ ngập nước lúp xúp, chợt nghe một tiếng “ục” rất nhỏ. Theo linh tính, tôi nằm bẹp xuống, thì quả đạn đã rít ở trên đầu. “Xẹt oành...”, bựng khói nổ cách tôi 3-4m. Liên tiếp mấy quả nữa rơi xuống, khói mù mịt, khét lẹt. Dứt tiếng nổ cuối cùng, tôi chồm dậy lao ra khỏi đám khói. Cái quai mũ cối gió thổi rít lên, làm tôi tưởng là tiếng đạn nên lại nằm bẹp xuống. Lần thứ hai, vừa thoáng nghe tiếng ục đầu nòng, tôi lại nhoài ra, mặc nước ruộng làm ướt hết người và bao đạn. “Xẹt oành...”, “xẹt oành...”, hơn chục quả pháo nổ liên tiếp, có quả chỉ cách tôi vài mét, mảnh bay nóng lưng. Suốt đời không bao giờ tôi quên được cảm giác khủng khiếp khi nghe tiếng rít của những quả đạn đang lao thẳng xuống đầu mình. Cứ mỗi tiếng rít là một lần cơ thể cứng ra chờ đợi: “ Chết này! Nó trúng này! Nó trúng này...”.
Mấy cậu C9 phía sau cứ nhìn những quả pháo nổ trùm lên ruộng cỏ mà ái ngại cho tôi. Nhưng nhờ hồng phúc ông bà, cuối cùng tôi cũng chạy thoát khỏi cái bãi cỏ khủng khiếp đó. Tới cây phi lao cao to, có mấy cậu công binh đang đào hầm dưới gốc cây. Họ nhìn những nét khiếp sợ trên mặt tôi một cách bình thản. Tôi hỏi họ xem toán người trước đó đi về hướng nào? Theo hướng họ chỉ, tôi chạy lên một gò cát mọc đầy cây chổi xể, chân nọ đá chân kia trong những đoạn hào vừa nông vừa chật hẹp. Rồi cũng thấy toán anh Thanh đang ngồi ăn cơm nắm bên doi cát. Tôi trách anh đã bỏ rơi tôi, rồi nhận nắm cơm ăn luôn. Lúc này, đạn pháo địch vẫn nổ cách đó chừng 3-4 chục mét. Chưa hết cơn sợ, nên đến việc nhoài lên lấy túi muối tôi cũng ngại. Gần đó có cái hầm cũ của địch, ông Khuông, cậu Y tá Quý và cậu Tường liên lạc C11 đang ở. Mấy cậu Tiểu đội 6 chui vào đó nấp, ông Khuông có vẻ không bằng lòng. Những người khác đào hố chiến đấu bằng cách khoét vào thành hào. Tôi còn đào sâu xuống để làm ổ nằm luôn.
Mưa. Che tấm ni-lông lên miệng hố, cũng tạm ổn. Anh Thanh và bọn Quang, Bích đào một hố to hơn, lát mấy cành thông trên miệng rồi lấp đất lên. Tôi ngả người, định ngủ mà không được. Mỗi cơn gió thổi tới là cát lại chảy xuống ào ào. Cứ đà này chả mấy chốc cái hố của tôi sẽ bị lấp. A6 và B phó Tài được điều lên chốt với B1. A5 cùng A trưởng Minh lúc nãy thấy đào hầm trên đỉnh đồi, bây giờ được điều sang mỏm gò bên cạnh. Hầm của họ đã có mấy cậu C16 khiêng khẩu 12ly7 đến đặt. Chiều tới, tôi và anh Thanh chạy về phía làng 9 để lấy cơm. Qua hầm A5 thấy cu Cập đang rên rỉ. Cậu ta bị hắc lào nặng ở bẹn gây nhiễm trùng nên rất xót khi vận động. Anh Thanh có vẻ khinh ghét những hiện tượng như thế. Tôi chạy băng qua một ruộng khoai bỏ hoang, thỉnh thoảng thấy vài cái mương nhỏ, hai bên mọc những cây phi lao còi cọc. Đang chạy chợt thấy trên ruộng cỏ nước có mấy quả B40 và 1 cái túi đã ướt, tôi nhặt lên. Trong túi có một bọc gạo rang và một gói cơm nếp đỗ đen, tôi và anh Thanh chia nhau ăn luôn. Anh Thanh còn nhặt được một cái dù pháo sáng, quấn vào cổ làm khăn quàng. Vượt qua mấy hố bom to, hai anh em vào đến rìa làng 9. Ở đây có hầm Tiểu đoàn bộ, rồi hầm Thông tin, Trinh sát... Ngay cạnh hầm D bộ có một cái bếp dựng sơ sài bằng mấy tấm tôn. Một người đàn bà khoảng ngoài 30 đang ngồi nấu bếp.
Dưới cái rãnh có nhiều đạn B40 và cối 82 nằm lăn lóc. Lúc sau, thấy anh Mứt, trước cũng ở C11 giờ lên Trợ lý hậu cần tiểu đoàn, cùng một cậu nữa khiêng bao cơm nắm đến bàn giao cho chúng tôi. Nhận bao cơm xong tôi cùng anh Thanh lại nhanh chóng vượt qua cánh đồng quay về, chia cơm cho các B. Bính được phân công mang cơm lên tuyến trên cho A6 và B1. Tối hôm đó, cả mấy đứa rúc vào nhau ngủ trong cái hầm tạm bợ, sau khi đã thống nhất là ngày mai sẽ đi tìm vật liệu để làm cái hầm kèo cho tươm tất. Trời vừa sáng chúng tôi đã mỗi người mỗi ngả đi kiếm vật liệu làm hầm. Tôi chạy theo những con hào nông và ngoằn ngoèo ra phía biển. Dọc thành hào thỉnh thoảng lại thấy những hố chiến đấu sụt lở, những đống đạn M16, M72, M79 của địch bỏ lại. Ngang một cái hố, chợt thấy bên trong có một băng AK đầy đạn đã hơi gỉ, tôi định thò tay lấy. Nhưng 1 mùi hôi thối xộc lên và hình như có mấy sợi tóc đen trong cát làm tôi phải bịt mũi chạy tiếp. Cái mà tôi quan tâm là những tấm tôn để lát hầm và những thanh tre, gỗ để làm sườn hầm hoặc đòn nóc. Chạy mệt phờ râu mà rốt cuộc chỉ kiếm được vài miếng tôn nhỏ, tôi đành trở về. Địa hình chưa quen, lớ xớ dễ lạc lắm. Tình cờ lại gặp hầm của mấy cậu trinh sát D, trong đó có Quý “tiết”. Cạnh hầm có mấy hố bom rất to mà mấy cậu đó không sao cả. Quang “xỉu” A tôi đã ngồi đây tự lúc nào, đang nói chuyện với Quý. Tôi chỉ hỏi thăm qua loa rồi nhắm quả đồi có hầm của mình phóng về. Chạy qua một vườn cây cao, trụi lá khẳng khiu, thấy lạ là làm sao mấy cây này chưa bị pháo đốn ngã. Cả làng 8 đã bị san phẳng, chỉ còn thấy những nền nhà, và mãi gần làng 7 mới có một cái nhà đổ. Cỏ dại mọc khắp nơi, xen giữa những cây thông lùn tịt. Trong vườn cây tôi tìm được một hầm kèo bị sập. Nhưng lay mãi mà không nhổ được cọc, phải chạy về kêu anh Thanh ra giúp, cũng chẳng ăn thua. Đã trưa rồi, chúng tôi đành phải bỏ, định đến chiều sẽ vào làng 9 tìm kiếm tiếp.
Ông Khuông mang đến cho mỗi đứa một phong lương khô Mặt trận B5 tặng. Anh Thanh có vẻ không thích ông Khuông lắm, có lẽ ông ấy cũng lắm điều thật. Bỗng nghe phía Tám Cát, nơi địch đóng, rộ lên từng tràng súng đại liên. Rồi thấy hai chiếc xuồng máy, có mấy tên lính mặc áo phao mầu da cam ngồi trên, lướt đi lướt lại ngoài biển. Vừa lướt chúng vừa xả súng vào những đám gì đen đen đang trôi ngoài đó. Về sau mới biết đó là những bao gạo của ta thả trôi trên biển, để tiếp tế cho những vùng khó khăn mà hậu cần trên bộ không vào được. Chiếc tàu Hồng Kỳ của Trung Quốc đậu ở ngoài khơi Vĩnh Linh đã thả 10 nghìn tấn gạo xuống biển như vậy. Những bao gạo bị địch bắn thủng sẽ ngấm nước, thối hoắc. Nhưng chúng cũng không thể phá hủy được hết các bao gạo. Thật khó mà hình dung nổi hình ảnh hàng nghìn bao ni-lông chứa hàng vạn tấn gạo được thả trôi trên biển. Nhưng cứ mười bao thì may ra mới có một bao dạt vào bờ và quân ta lượm được.... Buổi chiều cả tiểu đội tôi đi vào làng 9, thấy mấy cái hầm của C14 và D47 tùm hụp như những quả đồi con. Chỗ này bị pháo kích thường xuyên. Cát trên đường chúng tôi đi cháy xém từng đoạn, chứng tỏ đạn mới nổ. Những cành thông và lá dứa dại bị phạt đứt nằm rải rác trên mặt đất. Cả bọn cắm cổ đi thật nhanh vì bất cứ lúc nào đạn pháo cũng có thể rơi xuống. Có chỗ phải lội, nước trong leo lẻo nhìn rõ cả cát trắng dưới đáy, nhưng tôi vẫn ngại vì vết sầy chân từ Quán Ngang còn chưa khỏi. Mấy hôm nay lội nước liên tục khiến nó bợt trắng ra. Mấy cậu lính của đơn vị nào đó cũng đang đi lảng vảng như chúng tôi. Nhiều ngôi nhà gỗ đã bay mất, để lại đủ thứ ngổn ngang trên nền nhà: thùng chậu, nồi niêu, quần áo các màu, lưới đánh cá... Thấy dưới mấy cái hố có nhiều ống đạn B40 và cối 60, anh Thanh nháy mắt. Tôi bèn nhảy xuống dùng dao găm của Bích lột lấy vỏ nhựa để tối về đốt đèn và nấu ăn. Cả bọn kiếm được mấy tấm tôn, một bao khoai khô và một ống mắm tép biển.
Khi quay về, ra gần đến chỗ lội thì bị pháo kích. Lúc nằm tránh đạn tôi mới chợt nhớ ra để quên con dao găm. Mất dao thì còn làm ăn gì nữa, nên tuy rất sợ, vẫn phải lộn lại tìm bằng được. Cả tiểu đội hì hục làm xong cái hầm kèo. Đòn nóc bằng gỗ phi lao cong queo, sườn hầm cũng vậy, phủ tôn lên rồi lấp đất cát thật dầy. Sau đó mới moi súng ống lên lau lại. Mấy ngày nay cũng chủ quan quá, cứ để súng nằm dưới hào, cát chảy xuống phủ gần hết. Nhưng phải công nhận những khẩu AK cũng bền và dễ tính thật. Cát đầy nòng vẫn bắn tốt. Lội ruộng lên nước chảy tong tỏng từ nòng vẫn bắn ngon. Không như mấy anh súng Mỹ M16 khó tính, có tí cát tí nước vào toác nòng như chơi. Đạn M16 thì nhỏ, gió biển thì to, đặt cái mũ sắt cách 50m bắn cả băng chẳng trúng phát nào...
Chúng tôi bẻ những cây chổi xể mọc đầy xung quanh cắm lên nóc hầm để ngụy trang. Thấy Ngô Duy Minh từ trên chốt B1 đi xuống, vẻ mặt đầy chán nản. Đành nói vài câu an ủi bạn thôi. Dao găm thiếu trầm trọng. Tôi chạy sang hầm 12ly7 gần đó, rút đại một con dao đang treo ở bên ngoài đem về dùng. Một lúc sau lại chạy sang, thấy mấy cậu xạ thủ vẫn rúc trong hầm, bèn mượn cái ống nhòm của khẩu đội để quan sát địch. Phía làng 6 thấp thoáng hai thằng lính thông tin đeo máy có cần ăng-ten vắt vẻo. Một chiếc xe tăng được ngụy trang nằm trong công sự, nòng phủ lá chuối khô. Phía đồi Tám Cát thấy bóng lính địch đi lại thấp thoáng. Dạo này chúng di chuyển rất cẩn thận, vì nhiều đứa đã ăn đạn bắn tỉa của tổ xạ thủ do Mặt trận B5 cử xuống.
Nhìn ra biển thấy bốn chiến hạm của Mỹ sơn màu bạc. Một chiếc vào gần bờ quá, thấy rõ cả những lớp sóng vỗ vào mạn tàu, cả con số to tướng trên thân tàu và chiếc ra-đa trên nóc đang quay quay. Bỗng nhiên thấy khói phụt ra từ các khẩu đại bác, rồi mới nghe tiếng nổ: “Panh...ù ù...oành”... “Panh...ù ù...oành”... Suốt đêm ngày tiếng pháo biển vang dội. Đến trưa, tôi và anh Thanh lại vào làng 9 lấy cơm. Đói quá. Hai anh em đến cái bếp cạnh hầm D bộ, xin người đàn bà cho cạo cháy. Chúng tôi vét đi vét lại đáy nồi. Sau này mỗi lần đi lấy cơm tôi đều đến đó xin cháy. Người đàn bà biết vậy nên cũng để cơm dính cháy khá nhiều.
Ăn xong tôi chạy đi tìm hầm thông tin. Gặp Lâm Nghệ An, cậu ta chỉ đường cho đến hầm Chí Thành. Dễ đến hơn tuần nay hai đứa chưa gặp mặt. Chí Thành cũng vừa hút chết, vì đi công tác về thì cái hầm có bốn cậu trong đó cùng tất cả ba-lô chỉ còn là một hố bom sâu hoắm. Thế là cả hai thằng đều trắng tay, nhưng đều cho là may vì số mình có lẽ không chết nữa. Ôi sao mà ngây thơ quá... Một tin buồn Chí Thành báo cho tôi là Lâm Chợ Giời ở C10 đã hy sinh. Thật đau xót, vì cậu ta rất hiền lành và tốt tính. Lâm bị thương vào bụng; cùng đêm tập kích đó, Hà Minh Hòa bị thương vào chân. Hai cậu được đưa vào một cái hầm chờ trời sáng. Lâm luôn mồm rên rỉ và nói với Hòa: “Hòa ơi tao chắc chết... Tao thương mẹ tao quá...”. Hòa nói: “Yên tâm, mày không chết được đâu. Đến sáng tải thương sẽ đưa mày về Phẫu...”. Nhưng đến sáng thì Lâm đã chết cứng. Người ta khiêng Lâm đi như khiêng một khúc gỗ vậy... Cho đến tận hôm nay người nhà vẫn chưa tìm được mộ Lâm. Mẹ Hồng của Lâm cho đến ngày qua đời đêm nào cũng khóc vì chưa được một lần ôm hài cốt của con... Tôi vẫn nhớ củ sắn lùi mẹ Hồng dúi vào tay tôi và Lâm trên đường hành quân từ Bãi Nai về Hà Nội ngày nào.... Cả anh Nghĩa, B phó huấn luyện của tôi cũng đã hy sinh. Thật đáng tiếc cho một cán bộ trẻ đầy triển vọng. Anh bị thương vào đầu, ra đến Phẫu thì bị bom B52 mất xác. C10 vừa rồi tập kích Tám Cát tổn thất quá lớn.
"Cùng đêm tập kích đó, Hà Minh Hòa bị thương vào chân..." Vinh và Hòa sau chiến tranh. Cách hầm tôi khoảng 30m có một khẩu đội cối 82ly. Thỉnh thoảng tôi ngó xem cách họ tác xạ. Năm cậu xúm quanh khẩu súng cối, một cậu bỏ quả đạn vào nòng, cả lũ lập tức bịt tai lại. Quả đạn kêu lanh canh tụt xuống đáy nòng, rồi bỗng “Púch”, một cột khói xám nhạt phụt mạnh ra đầu nòng. Khẩu cối bắn liền 5-6 phát. Chỉ một lúc là bọn địch phản pháo ngay. Tất cả lập tức chui vào hầm ngồi. Pháo chúng bắn trả nhiều kinh khủng. Mảnh bay vù vù, rơi lịch bịch. Hai cậu đang ngồi ỉa ngoài bãi cát, vội kéo quần lao tọt vào hầm. Tôi nhíu mũi hỏi: “Chúng mày không chùi đít à?”. Một cậu đáp tỉnh bơ: “Không. Để khô nó rụng...”. Buồn cười thật, chính tôi cũng đã bị vài cú như vậy.
Anh Thanh chia cho mỗi đứa một phong lương khô 701, phần thưởng của Mặt trận B5. Dạo này việc tiếp tế rất khó khăn. Đồng thời anh báo tin vui là C11 được thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất, được tặng danh hiệu là Đại đội Thép. Cũng đúng thôi, vì C11 là chủ công trong chiến thắng giải phóng hai làng 7, 8, tiêu diệt 39 tên địch. Anh Thanh được thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba. Tôi và Bích được tặng Bằng khen của Sư đoàn 320B. Đêm ấy mọi người đang mơ màng, chợt nghe “ ịch” một tiếng, cái hầm rung ùng ục. “Chắc lại pháo khoan rồi”, cả bọn tự nhủ và ngủ tiếp. Sáng hôm sau trèo lên xem mới thấy khiếp: một quả pháo biển 203ly to như quả bom con, màu bạch kim trắng lóa, nằm ngóc cổ chình ình trên nóc hầm. Có lẽ chúng bắn từ biển ở cự ly gần, phải hạ nòng thấp quá nên đạn đi sượt, thật hú vía...
Bọn địch thay quân giữa ban ngày. Đầu tiên một chiếc trực thăng cá lẹp bay tới, đảo vài vòng rồi bắn ba trái pháo khói màu hồng phía trước Tám Cát. Tiếp đó pháo địch từ Làng 5, Làng 6 bắn đạn khói tới tấp. Cả trận địa bên địch được bao phủ bằng một lớp khói trắng xám, không nhìn thấy gì nữa. Đó là lúc Tiểu đoàn 2 “Trâu điên” của chúng vào thay Tiểu đoàn 8 “Ó biển”. Sau này được nghe nói tôi mới biết, chứ lúc ấy chỉ thấy khói mù mịt, chẳng hiểu chúng định giở trò gì. Đêm mùng 5 rạng mùng 6-12-1972 chừng 4h sáng đến phiên tôi gác.
Trời tối đen như mực. Chợt phía Làng 6 bùng lên hàng loạt tiếng nổ cùng ánh chớp sáng lòe, đạn bay như hoa cà hoa cải. Một lúc sau thấy tất cả im lặng. Mặc dù vậy tôi vẫn căng mắt nhìn ra cánh đồng giáp Làng 6. Lẫn trong tiếng gió biển thoáng nghe có tiếng người nói lao xao và tiếng chân lội nước lõm bõm. Chẳng nhìn thấy gì cả, tôi cứ phân vân không biết có nên báo động hay không? Hay cứ thử bắn một loạt đạn vào đó? May mà tôi không làm như vậy, vì lúc sau mới biết đó là một toán trinh sát của ta định đột nhập Làng 6 mà thất bại. Rồi thấy anh Hưởng, Chính trị viên phó đại đội và anh Căn, Tiểu đoàn phó xuất hiện, yêu cầu tôi và Quang “xỉu” giúp vận chuyển một thương binh về phía sau. Người bị thương nằm trong một chiếc võng bạt, đang rên la. Một thanh gỗ to, nguyên là đòn nóc của một ngôi nhà, được dùng để khiêng võng. Cái đòn này nặng kinh khủng, cộng thêm trọng lượng của thương binh nghiến lên vai rất đau. Thương binh hóa ra là cậu Mốc người Quảng Trị, thường dẫn đường cho chúng tôi trong các trận tập kích. Cậu ta dẫm phải mìn nát bàn chân trái, máu thấm đẫm mấy cuộn băng. Tôi và
Quang loạng choạng khiêng thương binh lội trên đồng nước, hướng về Làng 9. Trời nhờ nhờ sáng, nhưng sương mù dày đặc chẳng nhìn thấy gì hết. Kiểu này khéo lại đi lạc vào chốt của địch thì chết. Vừa mệt, vừa đói, vừa lo lắng, đòn thì nặng, thương binh rên la suốt, làm Quang nổi quạu. Cậu ta quát lên: “Ông im mẹ nó cái mồm ông đi, không thì tôi quẳng ông xuống ruộng bây giờ!”. Cậu Mốc nghe thế chỉ còn dám rên khe khẽ. Rồi cuối cùng cũng đến được Trạm cứu thương của Tiểu đoàn, chúng tôi bàn giao thương binh cho C25 Vận tải khiêng đi tiếp. Tầm 11h trưa thì anh Phùng Chính trị viên Đại đội bị chết. Lúc đó anh đang ở tuyến hào B1, và gọi Ngô Duy Minh ra cùng quan sát địch. Anh hỏi Duy Minh: “Có chiếc xe tăng ở Làng 6 phủ lá chuối khô ngụy trang. Cậu xem từ đây đến đấy liệu B41 bắn được không”? Duy Minh vừa trả lời: “Em sợ xa quá anh ạ...” thì một quả pháo lao tới nổ trúng chỗ anh đứng. Anh Phùng bị tan xác, Duy Minh bị mảnh pháo vào đầu, máu chảy ròng ròng xuống cổ. Cậu ta la hét thảm thiết, nhưng bọn B1 nhát quá, rúc hết trong hầm, không thằng nào ra cứu Minh cả.
Tôi nằm ở tuyến B2 phía sau, cách đó khoảng 50m, nghe tiếng bạn kêu xót ruột quá, bèn quyết định bò lên cứu. Sau khi băng bó cho Duy Minh, tôi cầm hộ bạn cái bòng (một kiểu túi đeo, giống ba lô) bò trước, Minh bám theo vết chân bò phía sau. Bò qua chỗ anh Phùng hy sinh, chỉ thấy hố pháo, máu đọng thành vũng, còn một ít mảnh xương thịt vụn lổn nhổn trong đó. Mùi tanh tưởi bốc lên, đúng là không thịt gì tanh bằng thịt con người. Thương anh Phùng quá, vẫn nhớ lời anh nói: “Có chết vì pháo thì thường chết từ quả đầu tiên...”. Hào cát chật hẹp, nhiều đoạn nông choèn, chúng tôi hầu như phơi lưng trên mặt đất. Pháo địch vẫn rít tới tấp trên đầu, đạn nổ liên tiếp, khói mù mịt. Rồi cũng ra khỏi được bãi pháo địa ngục, tôi dìu Duy Minh chạy trên quãng đồng trống về phía Làng 9.
Tới rìa làng, hai đứa tạm biệt, tôi cầm tay Duy Minh nói: “Cậu bị thương nặng như thế này chắc được ra Bắc. Về Hà Nội nhớ ghé nhà mình, Minh nhé...”. Cả hai đứa đều không cầm được nước mắt... Mãi sau này mới biết Duy Minh chỉ được chuyển thương ra đến Viện 112 Quảng Bình điều trị. Vết thương đỡ, Ngô Duy Minh được giữ lại làm Y tá, rồi năm 1973 được cử đi học Quân y....
“Cậu bị thương nặng như thế này chắc được ra Bắc. Về Hà Nội nhớ ghé nhà mình Minh nhé...”. ND Minh và Vinh.
Những ngày nằm chốt ở Làng 8, Thanh Hội, thật buồn thê lương. Tôi hay mò đến hầm Chí Thành cách đó khoảng 100m để tán gẫu. Đợt này cậu ấy đeo máy vô tuyến 2W xuống phối thuộc ở đại đội tôi. Chí Thành có tấm ảnh chụp cả lớp 10B quý quá. Tấm ảnh tuy bé, nhưng những khuôn mặt các bạn Tiến Dũng, Tiến Quỳnh, Bích Đào, Xuân Mai... và nhiều người bạn thân thương khác nữa vẫn rõ mồn một. Hai đứa lần điểm từng khuôn mặt, cùng nhắc lại những kỷ niệm vui buồn liên quan đến các bạn đó.
Rồi Chí Thành dạy tôi hát mấy bài nhạc vàng. Khi buồn người ta học nhạc vàng nhanh lắm. “... Thôi nhé, từ nay cách xa nhau rồi/ Nỗi buồn theo tháng ngày trôi/ Nụ cười khô héo trên môi... Ngày mai tan trường mình không chung lối/ Yêu thương nhiều biết gửi về mô/ Kỷ niệm cũ trôi vào hư vô”… Nghêu ngao hát chán nhạc vàng, hai đứa lại bày trò ra nghịch. Chí Thành nhặt được ở đoạn hào trước cửa hầm một khẩu M16 nửa vùi trong cát. Khẩu súng đã rỉ ngoèn, gỉ bịt kín cả nòng súng, nhưng cậu ta vẫn quyết định bắn thử. Tôi sợ sẽ bị toác nòng gây nguy hiểm nên can. Nhưng chưa kịp nói hết câu thì cậu ta đã cầm súng một tay thò ra ngoài cửa hầm bóp cò. “Đoành”, viên đạn nổ chát chúa, thế mà súng không sao cả. Tôi nhìn vào nòng súng, thấy nòng sáng loáng...
Đến giờ nhất định, Chí Thành mở máy liên lạc với Tiểu đoàn. Nhiều khi đang dò sóng và nói “ Vạn Tường gọi Ấp Bắc… Vạn Tường gọi Ấp Bắc” thì có một tên địch nói chen vào. Có những tên ăn nói rất lịch sự, nhẹ nhàng, hỏi thăm quê quán, gia đình, nói những chuyện bâng quơ. Có tên lại chửi bới cục súc, hằn học gào ông ổng: “ Đ. má... Việt Cộng tụi bây là tay sai của Tàu cộng vô xâm lược Miền Nam...”. Thế là chửi nhau như hát hay. Cũng là một cách giải khuây...
Một buổi sáng bỗng thấy Chính “con” lò dò lên chốt. Gặp lại Chính con, người mừng nhất là tôi. Thú thật trong chiến trận, có Chính con bên cạnh tôi yên tâm hẳn. Cậu ta có thể xấu với người ngoài, nhưng với tôi thì chân tình hết sức. Hai đứa cùng cạ, đã thề sống chết có nhau. Trường hợp của Ngô Duy Minh cho thấy, không có bạn cùng cạ nguy hiểm như thế nào. Lúc thắng không sao, lúc thua người ta sẵn sàng quẳng mình mà chạy. Với Chính con, tôi có thể chắc chắn rằng, nếu bị thương cậu ta sẽ cõng tôi đi, nếu bị chết cậu ta sẽ lôi xác ra bằng được.
Bọn địch đón Chính con bằng một trận pháo kích khủng khiếp. Tôi ngồi đối diện với anh Thanh gần cửa hầm, đất cát rơi ào ào xuống đầu xuống cổ. Chợt một mảnh pháo bay vù vào, chém trúng bắp tay trái của anh Thanh, rồi rơi xuống đất. Anh Thanh ôm vội bắp tay. Tôi lấy băng ra băng cho anh. Vết thương dài gần 5cm, sâu khoảng 1cm, máu chảy không nhiều, chắc vì mảnh đạn đã hết tầm. Nhưng sờ vào mảnh đạn sắc lẹm vẫn thấy bỏng rẫy. Tuy bị thương nhưng anh Thanh không đi Phẫu. Tất cả chúng tôi cũng vậy, bị thương nhẹ không thằng nào đi Phẫu. Chẳng phải dũng cảm gì, đơn giản vì ra Phẫu cách đó vài km dễ bị B52 rải thảm tan xác lắm. Nằm chốt ở đây gần địch chỉ bị ăn pháo thôi, chứ không bị bom B52 hoặc tọa độ. Tấm gương của anh Nghĩa B phó C49 còn rành rành ra đó...