What's meant to be will always find a way.

Trisha Yearwood

 
 
 
 
 
Tác giả: Alain Wasmes
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7: Trí Thức Sài Gòn Và Những Người Cách Mạng
ồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi1.” Đó là câu nói trong một lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng ngày 10 tháng Mười, người ta thấy câu nói ấy trích lại trong một bài viết của ông Ngô Công Đức, chủ nhiệm tờ Tia Sáng, tờ báo tư nhân duy nhất còn hoạt động sau ngày Sài Gòn giải phóng. Sau lời chào mừng đất nước trở lại thống nhất “nhờ những hy sinh vô bờ bến của nhân dân chúng ta”, người viết xã luận viết tiếp: “Mặc dù có những ảnh hưởng về địa lý, khí hậu, có những thói quen, phong tục, tập quán đôi khi khác nhau, chúng ta vẫn cơ bản giống nhau kể từ khi mới dựng nước. Khác với nhiều dân tộc khác trên thế giới, chúng ta may mắn có đặc điểm: càng nhiều thành phần dân tộc, chúng ta càng có thêm nhiều năng động sáng tạo. Vì vậy thống nhất đất nước không có nghĩa là tất cả mọi người đều phải xây dựng theo một khuôn mẫu giống hệt nhau, mà điều đó có nghĩa là hoàn thành việc tập họp tất cả lực lượng chúng ta lại thành một khối để cùng nhau xây dựng đất nước. Thống nhất đất nước, người viết nhấn mạnh, là một hành động có tính bổ sung, nó sẽ giúp chúng ta khắc phục được những nhược điểm mỗi miền và làm cho đất nước ngày càng mạnh hơn (...) Một khi đất nước thống nhất, chúng ta sẽ có một sức mạnh tập thể, sẽ có những nền tảng của chủ nghĩa xã hội, và đó là một quá trình không có gì phải bàn cãi để xây dựng đất nước giàu mạnh”, người viết kết luận. Đó là lời lẽ của một ông giám đốc hơi khác thường của một tờ báo ra bình thường trong Sài Gòn cách mạng. Không có gì báo hiệu trước là sẽ có một ngày ông Ngô Công Đức, khi ấy ba mươi chín tuổi, sẽ trở thành phó chủ tịch uỷ ban Mặt trận dân tộc giải phóng Sài Gòn.
Xuất thân trong một gia đình thuộc tầng lớp tiền thân Pháp của xứ Nam Kỳ thuộc địa ngày trước, người bố là một điền chủ giàu có ở Vĩnh Bình đồng bằng Cửu Long, Ngô Công Đức có những mối quan hệ rộng rãi hết sức quý báu (một trong những người bà con của ông là giám mục Paul Nguyễn Văn Bình) để có thể thành đạt trong chế độ Sài Gòn cũ. Bố bị cách mạng trừng trị lúc Đức mười tám tuổi, Đức bắt đầu làm chính trị với ý thức chống cộng sản. Dưới thời Diệm, Đức đứng đầu tổ chức thanh niên dân tộc chống cộng ở tỉnh. Nhưng những gì chính quyền Diệm yêu cầu Đức làm đã nhanh chóng khiến Đức ghê tởm. Đức lao vào kinh doanh, vận chuyển hàng quá cảnh theo hợp đồng với Mỹ và làm cả nghề báo. Có vẻ như Đức là con người được dành cho một cuộc sống xa hoa hoang phí.
Nhưng bước ngoặt trong cuộc đời Đức đã đến với những cuộc bầu cử năm 1967: từ trước, Đức không phải là con người dửng dưng trước những hậu quả chiến tranh mà dân chúng phải chịu đựng. Nhưng ông ta cũng không giấu giếm rằng ra tranh cử lần đó đối với ông là một dịp để tránh khỏi bị động viên. Bây giờ ông thừa nhận: “Trước hết là tôi không muốn trở thành một người lính. Còn lúc đó thì tôi cũng chưa có những ý tưởng gì lớn, tuy rằng tôi và nhóm bạn của tôi cũng muốn làm một cái gì đó”.
Ba mươi mốt tuổi, Đức đắc cử dân biểu Vĩnh Bình, theo cánh của ông giáo già liêm khiết Trần Văn Hương, người sau này có mặt bên cạnh Thiệu và trở thành tổng thống được vài ngày trong tháng Tư năm 1975. Đức chọn phe đối lập với Thiệu và chẳng bao lâu đã trở thành người đứng đầu các nghị sĩ của phe chống đối. Và từ đấy, một lô những chuyện phiền phức bắt đầu đến với ông: nhà bố vợ bị tấn công, xe của ông bị đốt cháy, nhà ông ở Sài Gòn bị đánh mìn và đã nhiều lần ông bị đám tay chân của chính quyền gây khó dễ ở ngoài phố. Tờ Tia Sáng của ông cũng chịu đủ tình đủ tội: hai lần bị đánh mìn, còn lục soát tịch thu thì vô kể khiến nó cứ dần dần lụn bại. Bởi xu hướng của Đức ngày càng lộ rõ: phản đối chiến tranh của Mỹ và đòi Thiệu phải từ chức.
“Trong tờ Tia Sáng số đầu tiên, tôi không hề phê phán những người cách mạng, bởi ngay từ lúc đó tôi đã hiểu rằng có một ngày tôi sẽ ở bên họ.” Tuy đài phát thanh giải phóng của kháng chiến đã có một số lần trích đọc những bài xã luận của Đức, nhưng phải đến năm 1970 ở Paris, Đức mới được tiếp xúc với người của phái đoàn Chính phủ cách mạng miền Nam.
Bây giờ Đức giải thích sự phát triển ý thức của mình ra sao? “Nếu người ta là một trí thức miền Nam, ông nói, thì người ta sẽ không có một sự lựa chọn nào khác, bởi trước đây trong quá trình dấn thân tôi đã từng qua nhiều trải nghiệm. Ở miền Nam, nếu ai có đầu óc biết suy nghĩ thì người ấy không thể không thừa nhận rằng chính những người cách mạng mới là những người thực sự yêu nước. Cho nên muốn phục vụ đắc lực cho tổ quốc thì nhất thiết phải đi theo họ. Chúng tôi đã có những thử nghiệm với người này người khác và chúng tôi phải công nhận những người cách mạng là những người làm việc cho đất nước, cho nhân dân, chứ không phải cho riêng họ.”
Năm 1971, Ngô Công Đức ra tranh cử và ông đã bị đánh bại: Thiệu đã làm tất cả để loại trừ Đức, từ gian lận danh sách, đến doạ nạt cử tri. Năm ba mươi năm tuổi, bị mất quyền miễn trừ của một dân biểu, Đức khó tránh khỏi bị động viên. Đức chọn con đường tránh ra nước ngoài. Năm 1974, khi phong trào chống đối hoạt động trở lại thì Đức muốn quay về. Nhưng ông Đinh Bá Thi, trong đoàn đàm phán của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam ở Paris đã khuyên can Đức nên ở lại vì ở nước ngoài hoạt động của Đức sẽ có lợi hơn. Tháng Ba và Tư năm 1975, trả lời các cuộc phỏng vấn của truyền hình và báo chí tại Mỹ, Đức đã kịch liệt công kích việc Mỹ viện trợ cho Thiệu. Ngày 29 tháng Tư năm 1975, Đức đáp chuyến máy bay cuối cùng từ băng Cốc trở về Sài Gòn: Đức muốn có mặt ở đây vào giờ phút thành phố được giải phóng. Nhưng khi tới nơi máy bay đã phải lượn nhiều vòng mà không sao hạ cánh được vì căn cứ Tân Sơn Nhất đã rơi vào tay quân cách mạng. Máy bay phải đỗ xuống Hồng Kông và một tháng sau, ngày 31 tháng Năm, Đức mới trở về tới Sài Gòn, tạt qua Hà Nội. Năm 1971, trên đường đi lưu vong Đức đã đi qua Pnông Pênh, Băng Cốc một chuyến đi huyền thoại.
Trở về tới Sài Gòn, Đức được chính quyền cách mạng khuyến khích ra lại tờ báo. Ông đã bỏ vào đấy tất cả những gì còn lại trong tài sản của mình: ngày 22 tháng Bảy báo được chính thức cấp giấy phép đi vào hoạt động. “Mục đích của chúng tôi là độc lập và thống nhất đất nước”, Đức nói rõ quan niệm của ông về tờ báo như vậy, nay mục đích đó đã đạt được rồi, tôi tự coi mình phải có nhiệm vụ tham gia vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tờ báo này chỉ là một phương tiện, và chính quyền không bắt nó phải chịu một sự kiểm duyệt nào hết. Tháng tháng chúng tôi có một cuộc họp với cơ quan báo chí Nhà nước: chúng tôi trao đổi quan điểm với nhau và đôi khi người ta cũng phê bình chúng tôi về cách đưa tin một số sự việc này khác. Nếu tôi không đồng ý, tôi vẫn có quyền giữ quan điểm của mình và chúng tôi vẫn tiếp tục làm như chúng tôi suy nghĩ. Báo của chúng tôi khác với báo chí ngoài Bắc, bởi độc giả trong Nam không quen với phong cách báo chí ngoài ấy. Cho đến bây giờ, chúng tôi không phải nhận một mệnh lệnh nào, người ta để chúng tôi tự do và lựa chọn nội dung “thế nào là mình chịu trách nhiệm.”
Báo Tia Sáng phát hành 40.000 bản, chủ yếu ở Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng Cửu Long và thu được kết quả rõ rệt đối với các tầng lớp trung gian. “Trước hết chúng tôi tìm cách giúp cho tầng lớp trí thức hiểu thế nào là chính sách cách mạng và chủ nghĩa xã hội để hợp tác với chính phủ. Chúng tôi, một mặt thuyết phục những ai đến giờ vẫn có thái độ chống cộng, đồng thời mặt khác cũng làm cho cả một số cán bộ nào đó hiểu rõ hơn tâm tính của những người miền Nam.” Nhưng đối với Tia Sáng, không phải mọi việc đều trôi chảy; nếu nó được sự ủng hộ của một số cán bộ chủ chốt trong chính quyền thành phố thì ngược lại nó cũng gây phiền toái cho một số cán bộ khác vì cái giọng điệu nói năng “tự do” của nó. Tuy nhiên, đối với Ngô Công Đức cái khó lại ở chỗ khác: “Trước đây, khi báo chúng tôi đấu tranh chống chính quyền Thiệu thì khi đó chúng tôi là những triệu phú có nhiệm vụ chặt hạ cây, còn bây giờ thì lại khác, chúng tôi phải đảm đương nhiệm vụ của những người thợ mộc.”
Xung quanh Đức vẫn là những người bạn cố hữu: tám cựu nghị sĩ trong phe đối lập với Thiệu, những người của lực lượng thứ ba. Theo mong muốn của Đức, tờ báo sẽ làm việc như một hợp tác xã “xã hội chủ nghĩa”: ông sử dụng 160 người, kể cả các công việc tạp dịch. Lương giám đốc là từ 20.000 đến 24.000, lời lãi tất cả các thứ đều đầu tư vào báo. “Tôi cũng chưa thật suy nghĩ kỹ về quy chế của tờ báo, Đức nói. Nhưng điều tôi quan tâm nhất là nó phải phát triển, tiến bộ lên... chứ nó không thể giậm chân tại chỗ trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Nếu một ngày nào đó nó trở lên vô ích thì tôi sẽ không do dự để đóng cửa nó.”
Ngô Công Đức và tờ Tia Sáng có lẽ cũng phản ánh phần nào sự phát triển về ý thức của một bộ phận các tầng lớp trung lưu thành thị miền Nam. Vậy họ nghĩ gì về những vấn đề lớn mà việc thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội nêu lên? “Hiện thời có một vài sự khác biệt giữa miền Bắc và miền Nam, Đức nói. Nhưng nó chỉ là tạm thời. Phong tục tập quán có thể có những nét riêng, song cái nền tảng của sự thống nhất thì nó đã tồn tại từ lâu đời rồi. Cho nên thay cho chữ “khác biệt” tôi có thể dùng chữ “đa dạng”. Những phong phú, đa dạng ấy sẽ bổ sung cho nhau, chứ không phải gây cản trở cho nhau. Hơn nữa, sự thống nhất sẽ giúp gắn kết những tình cảm dân tộc, khắc phục, sửa chữa những mặt yếu của nhau.” Còn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì Đức cho biết: “Hiện thời tôi chưa có một phê bình nào để phát biểu về vấn đề này. Nam Việt Nam không có đa đảng ư? Nhưng liệu có những đảng nào khác có thể xứng đáng tồn tại ở miền Nam? Chỉ có một đảng duy nhất xứng đáng với cái quyền đó thôi và ai là người có thể tranh hay bác bỏ điều đó? Cho nên không có một lý do nào để cần thiết phải có một đảng khác ở miền Nam. Còn về chủ nghĩa Mác-Lênin, tôi mong sẽ có dịp và điều kiện để hiểu biết nó rõ hơn.” Đức không từ chối trở thành đảng viên của Đảng nếu như người ta nêu ra với ông vấn đề đó. Đối với Đức, vào Đảng là một cách để phục vụ đất nước tốt hơn”. Nhưng ông cũng nói thêm, “còn nhiều cách khác nữa để phục vụ đất nước... Riêng với tôi, tôi mới chỉ là một người tập sự làm cách mạng”.
Trong số những cộng tác viên của báo Tia Sáng, sự phát triển cá nhân của Nguyễn Ngọc Lan là một trường hợp khá tiêu biểu cho mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và trí thức trong kháng chiến và từ đó về sau. Nguyễn Ngọc Lan là linh mục công giáo. Ông học ở Pháp, bảo vệ một luận án triết học về lịch sử khoa học. Ông viết cho báo Người làm chứng Thiên Chúa giáo. Nhưng khi ấy, ông không quan tâm đến chủ nghĩa Mác. Trở về Việt Nam năm 1965, ông tham gia đấu tranh cùng nhiều nhà trí thức khác trong đó có Châu Tâm Luận, nhà nông học đào tạo ở Mỹ, Lý Chánh Trung, giáo sư triết học và nhà báo, Lê Văn Thơi, người phụ trách về chương trình sử dụng năng lượng hạt nhân, trong một phong trào có tính chất hoà bình mà chẳng bao lâu tất cả họ đều nhận thấy những hạn chế của nó.
Những tiếp xúc đầu tiên của họ với Mặt trận Dân tộc giải phóng đã không thành, do có sự còn hoài nghi: sau khi từ chối cuộc gặp lần đầu, Nguyễn Ngọc Lan và sáu người nữa lại đến một cuộc hẹn gặp thứ hai được hẹn vào ngày trước cuộc Tổng tiến công tết 1968. Cũng trong thời gian đó, Mặt trận còn gặp một số nhân vật khác nữa của “liên minh các lực lượng trung lập” và rồi sau đó những người này đã ở lại luôn trên bưng biền.
“Trong thời kỳ ấy, Lan kể, tôi trước hết muốn giữ cho mình sự độc lập và ít nhiều tôi còn hoài nghi. Cho nên có đi với anh Châu đến cuộc gặp thì chẳng qua tôi cũng chỉ vì tình bạn với anh ấy”. Cuộc tiếp xúc năm 1968 được tiến hành qua sự trung gian của bà Huỳnh Tấn Phát khi ấy vẫn còn ở lại Sài Gòn. “Trong cuộc gặp, chúng tôi trao đổi quan điểm với nhau, thảo luận những vấn đề cơ bản nhất. Chúng tôi không hề chịu một sức ép nào cả và sau đó cũng vẫn thế”. Và đó là những điều mà Lan tâm đắc nhất. Cuộc gặp trực tiếp lần sau diễn ra vào năm 1972, do Lan yêu cầu và được Lan tổ chức tại tu viện dòng Benedictins ở Thủ Đức. Một cán bộ quan trọng của Đảng tới dự. “Cả một buổi sáng, chúng tôi dành ra để phân tích tình hình và những khả năng hành động, và đối với tôi, nhiều vấn đề lớn, như vị trí của người công giáo, vai trò của tổ chức sau giải phóng đã trở nên rõ ràng từ đó”. Cuộc gặp thứ ba là vào cuối năm 1974, lúc mà đấu tranh chính trị sôi nổi trở lại ở Sài Gòn và một cuộc tiến công lớn đã được quyết định: “Chúng tôi qua một ngày đêm để thảo luận về tình hình. Nhưng lúc ấy, người ta không dám chờ đợi là chỉ sáu tháng sau nữa miền Nam sẽ được hoàn toàn giải phóng.”
Từ năm 1967, Nguyễn Ngọc Lan cùng nhóm của ông tham gia vào tạp chí Đối diện, một tờ báo “kiểu” như tờ Người làm chứng Thiên Chúa giáo. “Qua tạp chí, Lan nói, chúng tôi nêu những vấn đề về chủ nghĩa đế quốc ở miền Nam và dành hẳn một số để nói về chủ nghĩa xã hội và miền Bắc”. Ra 40 số thì 29 lần bị tịch thu, tờ Đối diện gần như phải làm việc trong điều kiện hoàn toàn bí mật. Sau giải phóng nó lại được phép cho ra mắt.. “Trong suốt thời gian kể từ sau giải phóng đến nay, Đảng không bao giờ gây sức ép với tôi. Bây giờ với tờ tạp chí của tôi, tôi có thể làm tất cả những gì tôi muốn, hoàn toàn không có chuyện kiểm duyệt...”
Linh mục Lan nói thêm “tuy không phải cộng sản” nhưng ông ta thừa nhận là “từ năm 1930 đến nay, chỉ có Đảng Cộng sản là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.” “Đối với Đảng, ông nói tiếp, tôi là người bạn đồng hành cùng họ.”
Trong Sài Gòn, lương tâm của con người phát triển với những bước tiến nhanh. Phần lớn các trí thức, những người ngày trước đã hoàn toàn dấn thân trong cuộc đấu tranh chống chế độ cũ mà thường chưa có những ý tưởng gì rõ rệt về tương lai, nay đã dứt khoát chấp nhận quyết định về việc thống nhất đất nước trên cơ sở của một phương thức phát triển xã hội chủ nghĩa.
Cơ hội chăng? Nếu biết những đoạ đầy mà nhiều người trong số họ đã phải chịu đựng cả về tinh thần lẫn thể chất trong thời kỳ chống chế độ cũ, thì ít ra người ta cũng phải khâm phục họ và hiểu rằng đối với những người này thì người ta không dễ gì áp đặt được ý kiến cho họ. Đơn giản là vì họ đã đấu tranh cho một ý tưởng nào đó nhân danh Tổ quốc của họ bị xúc phạm. Không một bước quanh co, giải phóng đã dẫn dắt họ đi thẳng từ “chủ nghĩa yêu nước lên chủ nghĩa xã hội”, như bà Ngô Bá Thành, một trong những gương mặt nổi bật nhất trong lực lượng thứ ba trước đây đã giải thích.
Thoạt nhìn, người phụ nữ mảnh mai nhỏ bé và lúc nào cũng sôi nổi này, tuy đã ở tuổi bốn mươi chín nhưng nom bà vẫn có vẻ của một cô nữ sinh trung học vừa nhận phần thưởng xuất sắc, đang lẩn vào đám đông những người lớn. Cho đến khi mà lai lịch của bà hé lộ ra cho người ta biết rằng đó là một phụ nụ không dễ gì bị lay chuyển.
Bởi trên tấm danh thiếp của bà, bên cạnh những học vị đạt được ở các bộ môn pháp lý ở Paris, Bacxơlôma, đại học Columbia, New York, người ta có thêm vào đấy những cái tên khủng khiếp nhất của hầu hết các nhà tù của Thiệu ở miền Nam.
Bà Ngô Bá Thành hình như từ lúc trẻ đã mắc chứng “tham học”: ba mươi chín tuổi, bà bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc làm một nhà luật học quốc tế, một việc làm đã đưa bà từ một người phụ trách những công trình khoa học ở khoa quốc tế về Luật so sánh đến phòng pháp lý của Liên hiệp quốc sau khi bà kịp tạt qua Luân Đôn để tốt nghiệp một bằng bổ túc. Trong thời gian ấy, vào tuổi hai mươi ba, bà đã có được bốn người con. Năm 1962, khi trở về ở Sài Gòn, bà đã lập một viện nghiên cứu Luật so sánh và ra một tạp chí. Những tưởng bà có thể sống một cuộc sống dễ chịu và đầy đủ mọi thứ giữa ngổn ngang những công việc của bà, thì rồi rất nhanh chóng, những vô vị, hão huyền của Luật ở một đất nước bị cai trị bởi bạo tàn và độc đoán, cùng với những thực tế đau lòng ở Nam Việt Nam đã đè nặng lên ý thức lương tâm.
Năm 1965, bà tham gia uỷ ban hoà bình và phong trào đấu tranh cho quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Chính việc tổ chức một chiến dịch đưa đơn kiến nghị đã đưa bà vào nhà tù lần đầu tiên, đồng thời tước mất của bà những chức vụ ở khoa Luật đại học Sài Gòn và có khả năng bà sẽ bị mất luôn cả quyền hành nghề. Cũng năm 1965, bà được tiếp xúc lần đầu tiên với kháng chiến. Chính ông Huỳnh Tấn Phát, một trong những nhà lãnh đạo cách mạng hàng đầu ở miền Nam đã tiếp bà tại bưng biền. Ông đề nghị bà tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng nhưng bà từ chối bởi “cho rằng sẽ có lợi hơn nếu tôi được độc lập và không dính dáng với mặt trận. Nhưng từ khi ấy, điều duy nhất thúc đẩy tôi là khát vọng đất nước được độc lập”, như bây giờ bà nói. Từ 1966 đến 1968, bà lại bị bắt, bị bỏ tù hai mươi lăm tháng vì “lý do an ninh”. Bà đã tập họp được mười bảy tổ chức phụ nữ trong “Phong trào vì quyền được sống hoà bình” do bà thành lập. Lần ở tù này, bà đã phải chịu đựng đủ mọi thủ đoạn tàn bạo của chính quyền Thiệu, đặc biệt là việc đã bị chúng giam với ba mươi lăm tên tù hình sự tại nhà lao Chí Hoà, nơi giam tù nam giới lớn nhất Sài Gòn.
Sau hiệp định Paris, bà lại một lần nữa bị bắt: một tấm hình hết sức xúc động cho thấy bà người chỉ còn da bọc xương sau sáu tháng trời đấu tranh tuyệt thực, bị đưa ra toà trên một chiếc cáng, ngạt thở vì bị một cơn hen quật đổ. Người phụ nữ nhỏ nhắn tự nguyện đấu tranh này đã làm cho chính quyền Thiệu khiếp sợ và chúng buộc phải thả bà ra. Tuy “chính thức” được trả tự do, nhưng trên thực tế, bà đã bị giam lỏng tại chỗ: lúc nào bà cũng có thể bị gọi đi kiểm tra căn cước, bị tra hỏi, thậm chí cả bằng đòn vọt tra tấn; ở giữa Sài Gòn mà nhà của bà xung quanh bị rào dây thép gai và thường xuyên có người giám sát. Như bà nói, bà chỉ thực sự được tự do vào ngày 30 tháng Tư và ngày hôm ấy lần đầu tiên sau mười năm, bà mới có cảm giác mình là một con người hoàn toàn tự do.
“Tôi thuộc số những trí thức yêu nước được đào tạo theo kiểu phương Tây, nhưng rồi đã bị phương Tây phản bội về cái mà chúng tôi yêu quý nhất, đó là Tổ quốc. Trong khi mà chúng tôi chờ đợi tất cả ở họ thì họ chỉ đến Việt Nam với bộ mặt của chủ nghĩa thực dân và sự xâm lược.” Rồi bà bình luận về chặng đường mà bà đã đi qua như sau: “Tôi đã được trông thấy nền dân chủ ở Pháp, rồi ở Mỹ... Nhưng nó chỉ được dành cho người Pháp, người Mỹ. Còn khi đến Việt Nam, họ đã làm ngược lại những gì họ đã tuyên bố: người Mỹ mượn tiếng đến đây để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, thế rồi họ đi sang Trung Quốc, sang Liên Xô. Còn người Pháp thì ngay đến giờ phút cuối cùng họ vẫn còn lợi dụng cái gọi là lực lượng thứ ba để thực hiện một giải pháp do họ áp đặt: một lần nữa, họ vẫn đối xử với chúng tôi như đối với những tên đầy tớ”.
Trong thâm tâm, bà cảm thấy mình gần giống với một chiến sĩ cộng sản bởi như bà nói: “Đó trước hết là một người yêu nước và anh ta đã chứng tỏ điều đó” - hơn là một người thuộc lực lượng thứ ba - mà bà ví nó như một “mớ tạp nham” - vì trong số họ đã có quá nhiều người dính líu với chế độ cũ. Đối với bà, “năm 1954, chúng tôi còn có thể do dự, nhưng bây giờ thì không. Bởi qua nhiều năm dài chiến tranh, chúng tôi đã có thể tổng kết lại. Tất cả mọi người đều có cơ hội ở Việt Nam, nơi mà chủ nghĩa xã hội đã đồng nhất với chủ nghĩa yêu nước. Đối với những trí thức yêu nước như tôi, con đường chúng tôi đi cũng là dựa trên cơ sở con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi: “Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội.”
Nhưng bà có sợ Đảng Cộng sản sẽ chiếm ưu thế trong một nước Việt Nam mới không? “Xin ông hãy nghe tôi, bà đáp. tôi không phải là người cộng sản. Nhưng người Mỹ và người Pháp đã lầm. Khi trước hết họ đã đánh giá thấp khát vọng độc lập của chúng tôi, và sau nữa là họ muốn đánh lừa mọi người rằng những người cộng sản, là những kẻ phản bội. Có một điều không bao giờ lầm, đó là thử thách. Thế mà trong bão táp, những người cộng sản đã xuất hiện như những người yêu nước đích thực, và đối mặt với họ từ bốn mươi năm nay thì người ta chỉ thấy những tên hề, những con rối. Vì vậy ngày nay, tôi nói chúng tôi thật vô cùng may mắn khi có một đảng kiên cường, già dặn và giàu kinh nghiệm như thế để lãnh đạo chúng tôi, và sẽ là hoàn toàn vô trách nhiệm nếu như chúng tôi phủ nhận điều đó hay đi tìm một cái gì khác.”
Bằng câu nói sau đây, bà Ngô Bá Thành đã tóm tắt động cơ thúc đẩy và dẫn dắt những tri thức yêu nước ngày nay:
“Một nước Việt Nam thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nước Việt Nam sống với thời đại.”
Ngắn gọn nhưng rõ ràng như một sư thật hiển nhiên.
Chú thích
1. Trích trong thư gửi Đồng bào Nam Bộ.
Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam - Alain Wasmes Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam