Số lần đọc/download: 3075 / 89
Cập nhật: 2014-11-05 20:59:34 +0700
Chương 11
N
ói cho ngay, một thành phố đang được tôn vinh bằng mỹ từ "Hòn ngọc Viễn Đông", nếu một khi bị xuống cấp tệ hại đến như thế thì cũng phải mất một thời gian dài.
Vào thời điểm cuối tháng Tư-1975, Sài Gòn đã không chìm trong khói lửa như nhiều nơi khác. Một vài quả đạn pháo kích nổ trong sân bay hay bên ngoài thành phố không làm sứt mẻ đi chút nào những dinh cơ tráng lệ, những con đường tình mơ mộng đã được ghi vào nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật mà sự lan tỏa và truyền tụng vẫn còn tiếp tục cho đến bây giờ..
Về mặt tâm thức, ở Sài Gòn cũng như những nơi khác, nhiều người cũng đã thở phào khi thấy cuộc chiến triền miên, vô vọng nay đã chấm dứt. Tính sổ ra thì kẻ thắng, người thua dẫu sao cũng đều là đồng bào ruột thịt cả. Vậy tại sao khi tiếng súng đã im rồi, cả hai phía lại không rũ bỏ hết những hàng rào ngăn cách do cuộc chiến đã dựng lên để cùng nắm lấy tay nhau mà xây dựng lại đất nước. Người yêu nước thương nòi, hẳn ai mà không nghĩ thế.
Vì vậy, trong giờ phút lịch sử đã sang trang, dân chúng khắp mọi nơi gần như đã đổ hết ra đường phố để chứng kiến giây phút lịch sử, giây phút người Việt Nam không còn cầm súng bắn giết nhau, không còn bị những thế lực ngoại bang thúc ép để tiếp tục cuộc chiến nồi da xáo thịt. Đó là chưa kể, cũng vì tò mò, người dân thành phố muốn nhìn quang cảnh bộ đội tiến vào Sài Gòn, xem "họ" ra sao, nhân dáng, thực lực thế nào, và thái độ cũng như cung cách hành xử của họ trong cương vị của kẻ chiến thắng. Phải nói rõ những tâm trạng ấy để xóa đi cái luận điệu huênh hoang tuyên truyền của báo chí Nhà Nước khi nói rằng tất cả dân chúng Sài Gòn đã đổ hết xuống đường để "hân hoan chào đón đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn ra khỏi ách xâm lược Mỹ!".
Có thể nói, ngoại trừ những kẻ nằm vùng thì dĩ nhiên là mừng vui, hân hoan, còn tuyệt đại đa số dân chúng thì làm gì có ai nôn nao chờ đón quân CS tiến vào Sài Gòn. Chuyện ấy hư thực thế nào, tưởng bây giờ thì cũng đã rõ rành rành ra rồi. Nó cũng đã rõ như cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đội danh nghĩa dân chúng miền Nam nổi dậy cùng với lá cờ khác biệt của nó đã tan xèo như bong bóng mà ngay đến cả nhiều nhân vật chủ chốt của Mặt Trận này cũng phải thấy hụt hẫng, ngỡ ngàng !
Tuy nhiên, chỉ mới một, hai ngày sau 30-4-75, thì đường phố Sài Gòn dĩ nhiên vẫn đỏ rực mầu sắc của hai thứ cờ. Một lá thì nền đỏ, trên có sao vàng, còn một lá thì nền nửa xanh nửa đỏ, giữa cũng có sao vàng. Mãi cho tới lúc này, dân Sài Gòn cũng chưa phân biệt được anh nào là bộ đội đến từ miền Bắc, và anh nào là lính của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mà cũng chẳng ai cần thấy phải rạch ròi về cái sự ngoắt ngoéo lịch sử này vì dẫu sao thì chế độ miền Nam cũng đã sụp đổ rồi. Các vai trò trên sân khấu chính trị, những chiêu bài, những danh xưng dù tự phát hay được nhào nặn từ miền Bắc xa xôi ….tất cả rồi cũng trôi vào quá khứ.
Lòng dạ mọi người bây giờ chỉ còn thấy phân vân: có thực là mình sẽ không bị phân biệt đối xử hay là sẽ rơi vào cái cảnh "hàng thân lơ láo, phận mình ra sao" mà thôi.
Sáng ngày 1 tháng 5, tôi đạp xe một vòng để quan sát thành phố đang đổi chủ và tình cờ đi ngang qua ngôi trường Nguyễn Bá Tòng ở đường Bùi thị Xuân.
Trong sân trường, tôi thấy người ta tụ tập đông nghẹt, hỏi ra mới biết là dân chúng thuộc khu vực này được lệnh tụ tập để tham dự mít tinh chào mừng Ngày Quốc Tế Lao Động. Vì tổ chức vội vã, nên trong sân trường không có khán đài cho quan khách ngồi tham dự mà cũng chẳng thấy có biểu ngữ giăng ngang chào mừng ngày lễ lớn.
Chen chân sát vào nơi tổ chức, tôi chỉ thấy có mấy toán lố nhố xếp hàng nom không mấy nghiêm chỉnh và về ăn mặc thì nom rõ ra là một lực lượng ô hợp. Kẻ mặc quần dài, người quần đùi, kẻ đi dép, người chân đất. Toàn bộ võ khí thì nom rất thô sơ, hầu hết đều đeo lựu đạn và mang súng trường. Có người lại còn cầm cả gậy tầm vông hay mã tấu nữa. Họ đứng trước một rừng cờ do dân chúng được huy động mang theo. Đám cán bộ cách mạng thì lác đác dăm bẩy người. Họ dễ bị nhận diện do ở chiếc quần dài đen và áo cánh đen, trên cổ có khoác thêm cái khăn rằn ri, biểu tượng của những cán bộ ở R (tức Rừng) về. Lại cũng có cả những viên cán bộ đến từ miền Bắc, đầu đội nón cối, chân đi dép râu và mặc quần áo mầu xanh bộ đội nữa.
Tới giờ khai mạc, tiếng hô Chào cờ vang lên nghe hùng dũng mặc dù chẳng có đến một cái loa phóng thanh phụ trợ. Thế rồi những tiếng hát cất lên. Lời lẽ lộn xộn. Chỗ này hát khác chỗ kia. Như thể:
- Vùng lên, nhân dân Việt Nam anh hùng…
- Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước…
- Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
Những tiếng cất lên loạc choạc ấy bỗng biến bầu không khí đang trang nghiêm trở thành lộn xộn rồi nhốn nháo. Một cán bộ chỉ huy của nhóm nào đó vội vã lớn tiếng ra lệnh :
- Quốc ca ! Quốc ca trước !
Rồi như thấy mặt nhiều người ngớ ra, ông ta lại nhắc nhở:
- Đoàn quân Việt Nam ! Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phấp phới ấy ! ….Không phải Vùng Lên Nhân dân Miền Nam anh hùng…
Vài tiếng hát chưa kịp ngưng, sau lời giải thích bỗng như bị teo lại rồi tắt ngóm. Mọi người còn ngơ ngác nhìn nhau thì viên chỉ huy lại cao giọng :
- Nào ..Một …hai…ba….Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phấp phới ...Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…Cờ in máu….
Có vài ba tiếng lẻ tẻ phụ họa nhưng phần đông chẳng ai thuộc để hát theo, thậm chí có người còn chưa nghe tới bài hát này lần nào. Cho nên, lệnh hát thì hô lên rồi mà chỉ thấy mấy người ở hàng đầu lí nhí cất tiếng lên, nghe đã rời rạc mà lại còn sai cả điệu nữa. Tôi bỗng mỉm cười, tự nhủ thầm:
- Bài này mình thuộc và còn hát đúng hơn cả cái đám hiện diện ở đây.
Đúng như vậy ! Là dân Hà Nội từ năm 1945, ai chả biết bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Nhưng những du kích ở miền Nam hay ngay cả cánh quân gọi là Chủ Lực Miền hỏi có mấy ai biết đến bài này. Nó đã được giấu biến kể từ khi xuất hiện những cuộc nổi dậy được tô vẽ là do quần chúng tự phát đứng lên đấu tranh để giải phóng miền Nam.
Phải chứng kiến màn chào cờ độc đáo như vừa kể, đầu óc tôi bỗng nẩy sinh một ý tưởng bất ngờ: "Chuyện lợi dụng danh nghĩa thì trong đám lãnh đạo, ai cũng biết rồi. Nhưng Sài Gòn mới giải phóng được đúng có một ngày mà đã toan tính triệt nhau sớm sủa đến vậy sao ?"
Tôi không biết mấy anh chiến sĩ, du kích đứng trong hàng ngũ vừa rồi đã suy nghĩ gì về cái sự thay đổi bài ca, nhưng cứ nhớ đến những vẻ mặt ngỡ ngàng của họ và những tiếng hát lúng búng trong miệng không rõ nên lời, tôi không khỏi thấy ngậm ngùi. Tất cả đều chỉ là những người dân hiền lành chất phác bị xúi giục hay thúc đẩy lao vào cuộc chiến mà thôi.
Cho nên, hẳn họ cũng sẽ ngỡ ngàng khi trong quá khứ họ vẫn chỉ có một bài hát chính thức : "Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng! Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng…." mà họ vẫn thường hùng dũng cất lên trong bao nhiêu năm dài băng rừng, xuyên núi, lao mình vào khói lửa.
Vậy mà bây giờ, chỉ trong khoảnh khắc đã phải đem sổ toẹt hết ! Rồi lập trường có phải thay đổi không, tổ chức ra sao, lãnh đạo thế nào…..tất cả đều thay đổi hết sao? Ôi, niềm tự hào cao ngất và lòng tin tưởng dũng mãnh trong trái tim một con người đâu có phải là thứ hàng hóa vật chất mà dễ đổi thay trong một sớm một chiều.
Sau này tôi lại biết thêm rằng chuyện xẩy ra ở sân trường Nguyễn Bá Tòng bữa hôm ấy chỉ là một sự nôn nóng có tính cục bộ. Việc xóa bỏ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đương nhiên là một nhu cầu có tính sách lược nhưng làm gì thì cũng cần phải có lớp lang, lộ liễu quá sẽ chẳng hay ho gì.
Quả nhiên, chỉ ít lâu sau đó, nào việc tổ chức Hội Nghị Hiệp Thương thống nhất đất nước, nào tổ chức Tổng Tuyển Cử Quốc Hội trên cả nước, nào đổi tên nước thành Cộng Hòa XHCN/VN, nào đổi tên Sài Gòn thành T/P Hồ Chí Minh…v..v..tất cả diễn ra một cách tuần tự, đầy đủ ý nghĩa ngõ hầu êm thắm xóa đi một thực thể vốn đã từng làm chóa mắt biết bao nhiêu chính trị gia khù khờ trên thế giới.
Đến ngay những người trong cuộc, chắc hẳn cũng đã nếm mùi cay đắng của sự ruồng bỏ phũ phàng. Tại một nhà in Hợp Doanh ở đường Phạm Ngũ Lão, tôi đã thấy mấy bà cán bộ phụ nữ có vẻ thuộc thành phần cao cấp thường hay lui tới để lo chăm sóc tờ báo ra hằng tuần lấy tên là tờ Phụ Nữ Giải Phóng, cơ quan của Hội Phụ Nữ Giải Phóng thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Hẳn họ có biết bao niềm vui sướng và tự hào khi tờ báo trước đây ở trong khu chỉ xuất bản lúi xùi, in ấn xấu xí, cốt ra cho có mặt, nay thì ấn loát đẹp đẽ, phát hành rộng rãi công khai ở Sài Gòn.
Thế nhưng đứa con tinh thần của những chị Bẩy, chị Chín, những vị cán bộ cấp cao ấy cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Bởi nó không thể hiện diện cùng một lúc với tờ Phụ Nữ, cơ quan của Hội Phụ Nữ Trung Ương ấn hành ở Hà Nội. Làm gì có chuyện "một quốc gia tồn tại trong một quốc gia được". Cộng sản là độc quyền ! Các bà, các chị vốn tự hào mình giác ngộ cách mạng, vậy mà có một điều giản dị như thế cũng không nghĩ ra để còn cố vớt vát vài hy vọng hão huyền.
Cho nên tờ báo của các chị đã âm thầm dẹp tiệm sau ngày Bầu cử Quốc Hội Thống Nhất Đất Nước và những con người phụ nữ đầy nhiệt huyết kia, tôi không biết họ đã đi đâu, về đâu. Nhưng chắc số phận của họ cũng sẽ giống như những huyền thoại về đoàn quân tóc dài của Bến Tre đất thép, thành đồng do chị Ba Nguyễn thị Định làm tư lệnh. Mọi tài liệu ca ngợi thành tích, tuyên dương công trạng của các "chiến sĩ gái" trong thời chiến, sau cuộc tổng tuyển cử tất cả cũng đã tan xèo theo mây khói.
o O o
Nói đến bầu cử, tôi lại nhớ đến cuộc mít tinh lớn lao được tổ chức khoảng giữa năm 1976 để chào mừng kết quả cuộc Tổng Tuyển cử trên cả nước. Hầu như tất cả nhân dân thành phố Sài Gòn đều được huy động tập trung tại đường Thống Nhất để vừa nghe diễn văn vừa tham gia diễu hành.
Học sinh các lớp trong trường của tôi hôm đó cũng phải tham dự và được lệnh của Ban Giám Hiệu tập trung ở trước cổng trường ngay từ sáng sớm, lúc chưa tỏ mặt người. Mỗi trò được phát một lá cờ giấy cầm tay. Dĩ nhiên là chỉ có cờ đỏ sao vàng. Ngoài ra, dẫn đầu mỗi lớp học còn có một tấm biểu ngữ do hai trò giăng ngang, trên có hàng chữ : "Không có gì quý hơn Độc lập, Tự Do". hay là : "Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội".
Đám giáo viên chúng tôi cũng được cắt cử đi theo để trông nom học trò và giữ trật tự. Con đường Thống Nhất đông nghẹt những người với cờ xí, biển ngữ và những bó hoa cầm tay. Ở xế vườn hoa trước Dinh Độc Lập, phía có đặt những trụ sở của các công ty thì ở ngay sát bờ tường, tôi thấy Ban Tổ Chức đã dựng lên nhiều gian chạy dài, quây kín bằng những tấm cói hay tấm bạt nylon xanh trên có kẻ những chữ bằng vôi bột thật to : "Nhà Đái Nam", " Nhà Đái Nữ".
Phải thức dậy đi biểu tình từ sáng sớm, lại đứng phơi nắng đến xế trưa, cái khoản giải quyết nhu cầu cá nhân dĩ nhiên là rất cần thiết. Tổ chức được nơi giải tỏa như thế cũng đã là chu đáo quá rồi, mặc dù nó vẫn còn có giới hạn. Bởi chỉ đái thôi, không được ỉa. Tôi biết chắc như vậy vì có nhiều nơi nếu cho phép "đủ lệ bộ" thì đã ghi rõ ràng:" Nhà Đái-Ỉa Nam", "Nhà Đái-Ỉa Nữ". Chữ nghĩa cách mạng vừa gọn ghẽ, vừa rạch ròi, giới bình dân tất ai cũng hiểu. Dân Sài Gòn thoạt nghe thì có thấy chối tai, nhưng riết rồi cũng quen đi.
Sau này, dân chúng còn kháo nhau bệnh viện Từ Dũ cũng đã đổi bảng hiệu trở thành "Xưởng Đẻ". Thoạt nghe tôi đã không tin, nhưng cách tốt nhất để kiểm chứng coi đúng hay sai là phải đi đến tận nơi tìm hiểu. Vì thế tôi đã tạt qua bệnh viện này vài lần, vừa nghe ngóng, vừa hỏi thăm nhưng không có ai xác nhận với tôi là bệnh viện này đã đổi tên cả. Ngay cả cái bảng hiệu chắn ngang trên cổng vào, tôi vẫn thấy cái tên cũ là Bệnh Viện Từ Dũ, với mầu sơn cũ kỹ chưa có dấu vết gì gọi là đã được chỉnh sửa.
Như vậy, "xưởng đẻ" là chuyện bịa đặt, mua vui, cũng có thể là có ý đồ bôi bác. Rồi sau này, vì chờ đợi mãi không thấy cái bảng "Xưởng Đẻ" ấy trương lên thì dư luận lại viện cớ là do dân chúng chống đối dữ quá nên nhà nước bỏ ý định đổi tên. Nhưng lại bịa chuyện nữa ! Làm gì có chuyện cái nhà nước này "sợ dân chống đối" !
Trong quá khứ, còn có biết bao chuyện động trời gấp cả triệu lần như thế mà vẫn được đem thi hành, Đảng và Nhà nước đâu có sợ hãi gì ai ?
Lấy ngay một ví dụ cụ thể. Cũng vào thời gian khoảng cuối năm 1976, các nhà in, các tòa báo, các cơ quan nhà nước được lệnh ban ra là :
"Kể từ nay, mọi dấu gạch nối đặt trong các tên riêng như Hà-Nội, Bắc-Ninh, Hải-Phòng…. đều phải loại bỏ để viết thành Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng. Nhưng đặc biệt dấu gạch nối giữa hai chữ Trường-Chinh thì phải ngoại trừ, nghĩa là khi viết ra thì vẫn phải có gạch nối !"
Trường Chinh là bí danh của ông Đặng Xuân Khu, khi đó (1976) đang là Ủy viên Trung Ương Đảng kiêm Chủ tịch Quốc Hội Thống Nhất, và sau này thăng lên Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, rồi Tổng Bí Thư Đảng CSVN thay thế Lê Duẩn khi ông này qua đời.
Mọi thứ tên riêng đều phải thay đổi cách trình bầy, trừ tên một người ! Hỏi có khi nào một con người lại dám có thái độ ngang nhiên và ngạo mạn, ngồi xổm một cách chính thức và công khai lên dư luận cả nước đến như vậy không? Ấy vậy mà báo chí cứ phải răm rắp tuân theo. Cái sự "phong kiến" mà chế độ này muốn đánh đổ thì chính nó lại tỏ ra còn phong kiến hơn ai hết !
Khốn khổ nhất là thợ xếp chữ ở các nhà in trong Nam. Sơ xẩy một chút, bỏ hay không bỏ dấu gạch nối cho đúng quy định, lập tức sẽ có vấn đề ngay, bởi trên đầu của họ vẫn còn bị lơ lửng treo lên bản án có tên là " tàn dư Mỹ Ngụy".
o O o
Nói chuyện ngôn ngữ thì hầu như dân chúng càng sống lâu năm dưới chế độ XHCN thì cung cách vận dụng chữ nghĩa càng mang vẻ sắc bén và cay độc. Cụ thể nhất là cứ nhìn vào con số đông đảo của những người từ miền Bắc kéo vào thăm bà con thân nhân trong Sài Gòn để hàn huyên trăm nghìn nỗi nhớ hay tíu tít chuyện trò. Ngôn ngữ dễ dàng bộc lộ nhất là ở trong những dịp này. Vì thế tôi cũng đã học được nhiều từ ngữ mới hay những cách ví von. Như nghề dạy học, ở trong Nam cùng lắm thì chỉ gọi là "nghề bán cháo phổi", nhưng ngoài Bắc thì nói là "đem cấu phổi bỏ vào dạ dầy !". Thật kinh khủng. Chữ nghĩa cụ thể và tàn bạo cứ như những mũi tên phóng thẳng vào tim óc người nghe.
Tôi cho rằng, có lẽ khi con người phải triền miên đương đầu với những nỗi khó khăn trong đời sống thì bản năng của nó sẽ thường trực trỗi dậy để sẵn sàng thích ứng mà tồn tại. Ngôn ngữ sử dụng hàng ngày vì thế cũng phải thích ứng theo.
Buổi mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc Bầu Cử Quốc Hội Thống Nhất vào sáng hôm ấy không xẩy ra "sự cố" đáng tiếc nào. Riêng lớp của tôi, thì "khâu" trật tự tưởng là sẽ không "giản đơn" nhưng lại được các học sinh chấp hành "tốt". Tinh thần kỷ luật, trật tự rất đáng "biểu dương". Các Thầy giáo, cô giáo cũng "đảm bảo" thi hành "tốt" nhiệm vụ được giao phó…
Đấy là đại cương nội dung phần báo cáo mà tôi đã phải viết ra để nạp cho Ban Giám Hiệu nhà trường. Xét ra, mới chỉ có chưa đầy một năm làm việc trong vai trò Tổ trưởng Nhóm Lý-Hóa-Sinh mà chữ nghĩa của tôi đã có phần phong phú và "nhuần nhuyễn" thêm ra. Hầu như những từ ngữ mà tôi đã sử dụng khi cần viết bản tường trình, làm biên bản hoặc giáo án, chúng đã có vẻ như trôi tuồn tuột ra khỏi ngòi bút mà không bắt tôi phải nghĩ ngợi gì.
Điều đáng sợ hơn cả là tôi lại biết rõ những gì tôi vừa viết ra chỉ là những chuyện tầm phào đến chính tôi cũng không tin ở nó. Bởi nó không mang bất cứ một tinh thần liên đới trách nhiệm nào của người viết đối với nội dung vừa được chính hắn viết ra. Khi chợt nhận ra điều này (mà bao lâu nay tôi không để ý), tôi bỗng hốt hoảng như một kẻ chợt phát hiện ra rằng mình đang bị lây lan bởi một căn bệnh hiểm nghèo.
Nó thực sự là thứ bệnh gì, tôi không thể nói rõ, nhưng hầu như tôi thấy mình đã bắt đầu ứng xử rất giống với những bà con, họ hàng thân thuộc đến từ miền Bắc. Họ đa phần chẳng có quyền cao chức trọng gì để mà phải gìn giữ, nhưng rõ ràng hầu như ai cũng có một thứ áo giáp sẵn sàng giương ra để phòng thủ. Cái thứ áo giáp này hiện ra thôi thì đủ muôn hình vạn trạng. Gặp ai thì nhìn trước ngó sau. Nói năng thì lập trường chính trị cứ phải cương lên nhiều lần. Chả thế mà dân gian đã có câu : Ngang lưng thì thắt lập trường. Đầu đội chính sách, tay cầm chủ trương. Đặc biệt là những ánh mắt thì cứ đổi thay liên tục khi đang đối diện với một người còn xa lạ, chưa quen. Và dĩ nhiên là đầy dẫy sự dối trá. Tôi không hiểu đấy là sự thể hiện của những tâm trạng lúc nào cũng mang vẻ sợ hãi, bất an hay đó là những thói quen cảnh giác của những người đã bị tiêm nhiễm nhìn đâu cũng thấy kẻ thù?
Có thể là cả hai, nhưng sự sợ hãi có vẻ là điều chính yếu, mà sản phẩm của sợ hãi luôn luôn là sự dối trá thường xuyên.
Tôi lại còn nhớ có một lần, một bà cán bộ từ Hà Nội vào tham quan Sài Gòn trong những đợt đầu tiên. Bà ta có tìm tới địa chỉ nhà tôi để trao một lá thư thăm hỏi do thân nhân của tôi từ Hà Nội nhờ bà chuyển tay mang vào. Khi bà ta trở ra Hà Nội, tôi có nhờ mang giùm một đôi vớ còn nguyên trong vỏ bọc nylon để làm quà tặng cho một ông anh của tôi. Bà ta ngại ngần giây lâu rồi nhận lời với điều kiện : Tôi phải mang đôi vớ ra Phường xin giấy xác nhận đó là quà tặng nhờ cầm tay mang đi.
Thực tình, tôi không hề thấy phiền hà gì về chuyện phải mang một đôi vớ ra Phường chầu chực để xin giấy chứng nhận rằng nó là quà để biếu chứ không phải thứ buôn bán gì. Nhưng nghĩ kỹ thì thấy nực cười bởi đây là một chuyện kỳ cục chưa bao giờ xẩy ra ở trong Nam ngày trước. Cứ xem nội dung tấm giấy chứng nhận sau đây thì đủ rõ :
GIẤY CHỨNG NHẬN
Nay chứng nhận : Bà……….là cán bộ thuộc cơ quan……….
Có mang một đôi vớ ngoại, mầu xám, sọc nâu, điểm hoa văn trắng, là quà biếu của ông……..nhờ chuyển ra Hà Nội cho thân nhân là……..hiện ngụ tại địa chỉ……….
Nay chứng thực để đương sự có thể chuyên chở món đồ nói trên. Xin các cơ quan, đoàn thể, tổ chức dành mọi sự dễ dàng cho đương sự.
T.M. Ủy ban Nhân Dân Phường ….Quận…..
Ký tên và đóng dấu
Đòi hỏi điều kiện phải có dấu chứng thực cho một đôi vớ như thế, bà cán bộ đến từ miền Bắc đã hành xử rất đường hoàng, minh bạch, chấp hành rất nghiêm chỉnh đường lối chính sách của nhà nước cũng như lời Bác Hồ dạy là phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Chỉ có điều là, khoảng hơn một năm sau, tôi lại được thân nhân ngoài Bắc cho biết là chính bà cán bộ này đã trở nên giầu sụ sau vài chuyến đi công tác trong Sài Gòn !!
o O o
Nhưng đâu phải ai cũng có cơ hội "làm giầu" như bà cán bộ kể trên. Hầu hết những người tôi quen biết hoặc là họ hàng thân thuộc ở miền Bắc thì đều đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả, thiếu thốn. Vợ chồng ly dị nhau rồi mà vẫn phải chia nhau mỗi người nửa cái giường có màn làm bằng vỏ bao đựng bột đem ngăn đôi. Dưới gậm giường nhà nhà đều có một cái khạp được khóa kỹ mà bên trong chỉ chứa có nước máy tiêu dùng. Phải khóa lại vì nhà ở chen chúc, lẫn lộn chung nhau cả chục gia đình, sểnh ra là bị lấy trộm ngay đến cả nước máy. Nước khi đó rất hiếm hoi. Cả phố trông vào có một cái vòi chỉ chảy rỉ rả vào ban đêm. Sáng ra là tắt nước. Phải thức trắng đêm mới đổ đầy một khạp, không khóa nó lại thì có khi một ngày sẽ không có lấy một ngụm nước mà xài.
Như thế thì dân chúng miền Nam có san sẻ ra Bắc những ti-vi, tủ lạnh, quạt máy, đồng hồ, giường tủ, bàn ghế, sa-lông, xe đạp, xe máy.…để bà con ngoài ấy được hưởng đôi chút phương tiện văn minh vật chất thì cũng là sự san sẻ trong tình nghĩa đồng bào. Chẳng nên vì tiếc sót mà ca cẩm : Nam nhận họ, Bắc nhận hàng.
Có một lần tôi hỏi một bà chị họ :
- Ở ngoài Bắc có radio không ?
Bà ấy cười :
- Có chứ !
- Vậy chị có nghe được đài BBC không ?
- Radio một đài, sao nghe được BBC.
Thấy tôi ngạc nhiên không hiểu, chị giải thích :
- Đúng ra nó chỉ là một cái loa hình vuông nom giống cái bánh trưng nhưng mỏng lét. Phía trước có gắn một cái nút. Bật nút lên là có tiếng nói của đài Hà Nội phát ra. Nhà nào cũng có một cái như thế gắn trên tường. Thế chẳng là radio một đài thì là gì !
Tôi mỉm cười, tự nghĩ :
- Thật là một đầu óc kìm kẹp có sáng kiến thần sầu. Vừa rẻ, vừa tiện mà lại dễ bề kiểm soát...
Một xã hội triền miên thiếu thốn như thế, nhưng không bao giờ thiếu những tiếng hát trong trẻo, hồn nhiên của đám mầm non nhi đồng.
Tuổi thơ vốn vô tư, lại thêm các Cô giáo ở Vườn Trẻ, ở Trường Mầm Non, ở trên các chương trình TV dành cho tuổi trẻ luôn luôn sốt sắng dạy dỗ các em hát nhiều bài. Phổ biến nhất là bài :
Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ
Râu bác dài tóc Bác bạc phơ
Em âu yếm hôn đôi má bác
Vui bên bác là em múa hát
Hát bài Hồ Chí Minh muôn năm
Có lần tôi vui miệng hỏi thằng Tửu:
- Hồi bé, Tửu có hay hát bài "Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ" không ?
Tửu cười :
- Đứa nào mà không quai mồm ra hát thì có mà cô giáo gang họng ra.
- Ơ ! Vậy chớ Tửu có thật ngủ mơ là đã gặp Bác không ?
- Làm gì có đứa nào nằm mơ thấy Bác ! Chúng nó gào lên thế nhưng mà có nghĩ đến Bác bao giờ đâu. Có mà mơ thấy được ăn một cục kẹo thì đúng hơn. Hát thế là hát dối!
- Ấy ! Lỗi đâu phải chúng nó. Cái anh sáng tác bản nhạc với đám Thầy, Cô bắt chúng nó nghêu ngao suốt ngày kìa. Bơm cái dối trá vào đầu con trẻ mà cứ tiếp tục mãi như thế được. Thế là giáo dục ở miền Bắc đấy ư ?
Tửu cười hề hề :
- Thì thế ! Mà nào có ai dở hơi, vẽ chuyện nêu vấn đề ấy ra đâu ! Đụng đến Bác, có mà đi tù.
Nói cho ngay, cái trò bắt con trẻ nói lời "dối trá" không chỉ bắt nguồn từ thời buổi bây giờ, mà nó đã tồn tại ngay từ cái thuở mới khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tháng 9-1945. Vào thời đó, chính bọn trẻ chúng tôi cũng đã nghêu ngao suốt ngày :
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em Nhi đồng
Bác chúng em dáng thanh thanh, người cao cao
Bác chúng em mắt như sao…Râu hơi dài…
Có bao giờ chúng tôi được nhìn thấy Bác tận mắt bao giờ đâu mà mô tả kỹ lưỡng như thế, rồi lại còn khẳng định : "Ai yêu Bác hơn chúng em Nhi đồng" nữa. Thế là giả dối ! Trong đầu óc non nớt của chúng tôi hồi đó, đúng ra chỉ có hình ảnh ông bà Nội, ông bà Ngoại là luôn ngự trị trong đầu.
Đã thế lại còn có những câu thơ tệ mạt tới mức giả dối trắng trợn như :
Yêu biết mấy khi nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin ….
Nhưng tác giả bài thơ này chắc ngoài ý định dụ dỗ các em nhi đồng hãy nên tôn kính ông Sít-ta-lin ông ta còn muốn gián tiếp ra một chỉ thị : "Mọi người hãy tôn sùng Sit-ta-lin !". Phụ huynh của đám trẻ vốn là những cái đầu đã có sạn, đã biết bạo lực là gì, nên khi nghe ông trùm Thơ đang ở cương vị hét ra lửa đã mửa ra khói làm những câu Thơ như vậy, tất cũng phải khúm núm bầy tỏ lòng tôn kính ông lãnh tụ ngoại lai kia cho xong chuyện vậy thôi.
Mà chẳng cứ riêng một mình Tố Hữu ! Phải nói cho ngay rằng, ở thời cực thịnh của Đảng CSVN, nhiều ông, bà cầm bút đã cố tình xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật để tuyên truyền cho những mục tiêu cả ngắn hạn lẫn dài hạn của Nhà Nước. Họ đã chiếm lĩnh dư luận toàn xã hội, đã vo tròn bóp méo biết bao nhiêu sự thật. Tài sản trí tuệ của họ sau một thời gian dài đã tạo nên vô vàn sản phẩm văn nghệ nhớp nhúa mà hiện nay vẫn còn đầy rẫy trong sách vở giáo khoa ở nhà trường hay trong thư viện.
Tôi lại nhớ cái thời Bác Hồ qua Pháp tới 6 tuần lễ trong dịp có Hội nghị Fontainebleau năm 1946, mà ông Phạm văn Đồng là đại biểu của VN. Lũ nhi đồng chúng tôi hồi đó lại cũng đã từng nghêu ngao hát bài "Vắng bác Hồ yêu dấu", mặc dù chẳng biết Bác đang đi đâu, làm gì, có thật là mình đã nhớ Bác hay không :
Vắng bác Hồ yêu dấu
Lòng bâng khuâng- cháu sầu nhớ nhung
Bác có nhớ cháu không
Từ lúc con chim bằng cất cánh
Lòng thẫn thờ nhìn theo chim kia
Nhẹ cánh khuất trong mây
Quay bước chân trở về …
Chờ mong tháng ngày…
Cái sự gia công tiêm nhiễm vào đầu óc con trẻ những sự kiện chính trị của đời thường, đến khi trưởng thành chúng nhận ra là mình đã bị nhồi nhét những điều giả trá thì e rằng niềm tin của chúng sẽ không những bị thui chột, mà có khi còn làm dấy lên trong đầu óc của chúng sự khinh miệt cả cái môi trường xã hội mà chúng đã lớn lên để rồi có những phản ứng tiêu cực không biết đâu mà lường.
Phải chăng xã hội ngày nay ở VN, trong đám trẻ đã có nhiều tên phá phách, ngổ ngáo, hỗn xược, ngồi xổm lên mọi giá trị đạo đức của cha, anh là hậu quả của sự coi rẻ sự thật và giẫm đạp dễ dàng lên nhân phẩm mà thế hệ cha anh chúng nó thản nhiên thực hiện. Để đến bây giờ, nhìn gương của thế hệ đi trước, chúng cảm thấy nếu có làm những cái gì sai quấy thì cũng chỉ là đi theo vết xe của cha, anh để lại, còn chúng thì hoàn toàn vô can và có quyền phủi tay, vô trách nhiệm..v..v…
Mà căn bệnh trầm kha này cho tới nay cũng đâu đã chấm dứt !
o O o
Nhân đề cập tới những sự đổi thay thường trực xẩy ra ở chung quanh mình, tôi bỗng nhớ đến một nhân vật vốn là một trong những người đầu tiên đã tới tiếp thu ngôi trường mà tôi đang dạy.
Đó là một thanh niên trạc gần ba mươi, trán cao, mắt sáng, dáng dấp gầy gò, nước da xanh mét, khuôn mặt bủng tái như mầu chì chứng tỏ hãy còn mang trong mình một bệnh sốt rét kinh niên mà chỉ những người ở lâu trong rừng mới mắc phải. Anh tên Thành, nghe nói trước là sinh viên đại học Vạn Hạnh, sau bỏ ra bưng. Khi Cách mạng thành công, anh ta trở về thành và được giới thiệu là người của Thành Ủy tới tiếp thu ngôi trường và có nhiệm vụ điều động sao cho nó có thể chính thức khai giảng được năm học đầu tiên càng sớm càng tốt.
Công việc nhìn có vẻ dễ dàng, vì trường ốc còn nguyên, học sinh sẵn sàng tới lớp, đa phần giáo chức không di tản kịp cũng đã quay trở lại trường tìm một chân đứng thay vì bị Phường, Khóm ở các địa phương đưa lên danh sách những người bị xua đi kinh tế mới.
Nhưng hầu như đã có những cuộc tranh cãi kịch liệt xẩy ra ở đằng sau cánh cửa dành riêng cho văn phòng của Ban Giám Hiệu. Mỗi lần thấy Thành ở đó bước ra, tôi thấy mặt mũi anh bơ phờ, dáng dấp mệt mỏi trong chiếc áo sơ mi nhầu nát bỏ ra ngoài chiếc quần tây dài mầu xám đậm không ủi nếp. Anh lê đôi dép da không quai hậu, nặng nề đi qua chiều dọc của căn phòng dài trước đây vẫn dành làm chỗ tập trung của các nhà giáo trong giờ nghỉ. Thấy mọi người nhìn anh với cặp mắt dò hỏi, anh chỉ nhếch đôi môi khô khan lên cười một cách nhạt nhẽo rồi lẳng lặng bước ra.
Nhiều người đưa mắt nhìn theo, rồi lại quay ra nhìn nhau và xì xào :
- Có chuyện gì thế ?
Một vị có vẻ thông thạo thời thế đã nói :
- Trâu bò húc nhau…coi chừng ruồi muỗi chết !
Hẳn là vị này gợi ý có sự đụng độ giữa các cán bộ ở A vào và ở R ra. Hay nói khác đi, đường lối của miền Bắc có thể đang gây bất mãn cho cán bộ miền Nam
Sau này thì tôi biết thêm được một vài chuyện đã gây nên những cuộc tranh cãi trong thời gian nhà trường chuẩn bị khai giảng năm học đầu tiên ấy. Nào là vấn đề lập danh sách đề nghị lưu dung các giáo chức cũ, giữ ai, bỏ ai, ai còn có vấn đề phải xem xét kỹ khi đã mang danh nghĩa giáo sư "biệt phái", hai chữ nghe sao mà nó đầy vẻ bí ẩn của loại công tác an ninh, điệp báo. Rồi nào là sách giáo khoa trong thời chế độ cũ, những cuốn nào đề nghị còn tạm xài trong khi chờ Bộ Giáo Dục cho in những sách mới, cuốn nào thì dứt khoát liệng bỏ cho chở đi làm bột giấy. Rồi trong tiến trình sắp xếp nhân sự để hoàn tất mọi cơ cấu nhà trường, lấy ai, gạt bỏ ai trong số người ở thì A vào, người ở thì R ra, người thì thuộc chế độ cũ nhưng có trình độ chuyên môn tổ chức cao ….Mà hình như ai cũng có lời gửi gấm từ "trên" cả, biết làm sao đây ?
Nhưng điều sai lầm lớn nhất mà Thành mắc phải - theo tôi nghĩ - là anh đã quá tự tin vào thành quả mình đã đóng góp cho cách mạng cũng như vào vai trò của mình đã được giao phó lúc chiến tranh chấm dứt.
Anh hồn nhiên với lý tưởng của mình vẫn hằng theo đuổi là "Đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh lật đổ chế độ tay sai của Mỹ để thực hiện một miền Nam trung lập, dân chủ, hoà bình trước khi tiến tới việc thống nhất Tổ quốc". Đó là cương lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà anh đã nghiền ngẫm trước khi bỏ Sài Gòn trốn ra bưng, đi theo Cách mạng.
Khi chiến tranh chấm dứt, anh luôn luôn bầy tỏ với mọi người rằng đã đến lúc ai ai cũng nên xóa bỏ mặc cảm của mình để cùng nhau xắn tay vào công cuộc xây dựng một xã hội mới. Có lần anh nói với tôi :
- Tội ác của chế độ cũ là gây chia rẽ, hận thù. Làm gì có chuyện Việt Cộng khi vào thành thì nhổ hết móng tay của phụ nữ. Thầy sẽ thấy dưới chế độ mới, ai cũng đều có chỗ đứng của mình. Đất nước đã hoang tàn đổ nát quá nhiều rồi, bây giờ thời điểm của xây dựng chứ không phải là của phá hoại.
Thế là vì quá tự tin vào thiện chí trong sáng của mình, anh đã lội ngược dòng mà không hay.
Dù hoàn toàn không đồng ý với anh ở luận điệu "Tội ác của chế độ cũ là gây chia rẽ, hận thù", nhưng tôi cũng chia sẻ với anh về cái nhìn "Đất nước đã hoang tàn đổ nát quá nhiều rồi, bây giờ thời điểm của xây dựng chứ không phải là của phá hoại". Chỉ tiếc là, thay vì phải đi động viên, khuyến khích những người thuộc chế độ cũ, thì điều chính yếu là anh cần phải thuyết phục ngay chính những kẻ đang cùng với anh có nhiệm vụ vận hành guồng máy vừa mới tiếp thu được.
Bởi họ đâu có chia sẻ với anh những điều mà anh hằng tâm niệm. Họ tiếp tục đàn áp người của chế độ cũ để trả thù và lợi dụng danh nghĩa trả thù ấy để chiếm đoạt, vơ vét…vào quỹ chung thì ít mà túi riêng thì nhiều. Chỉ riêng việc khi lập biên bản tịch thu những lạng vàng trong cuộc đánh Tư sản, cán bộ chỉ ghi là "Kim loại có mầu vàng" là đủ thấy rõ.
Cho nên, những lời động viên và khuyến khích có tính đi ngược trào lưu của Thành vừa được loan truyền ra thì bỗng nhiên không ai thấy anh lui tới nhà trường nữa. Trước thì chúng tôi tưởng anh ốm đau bệnh hoạn sao đó, sau lại thắc mắc tại sao nhà trường cứ êm ả không nói năng gì về sự vắng mặt của anh. Rồi đùng một hôm Ban Giám Hiệu tổ chức hội họp giáo viên để chính thức giới thiệu viên Hiệu trưởng mới. Bấy giờ thì chúng tôi mới hiểu số phận của anh Thành đã ra sao rồi.
Có thể nói mãi mãi sau này, dù có để tâm dò hỏi, cũng không bao giờ chúng tôi còn nghe được bất cứ tin tức gì của anh nữa, ngoại trừ những lời đồn đoán lúc ban đầu, không được kiểm chứng là anh đã bị đem đi mất tích.
Người thay thế anh như đã tả trong một chương trước, là một tay bộ đội, tuổi trung niên, khi lui tới nhà trường vẫn mặc đồ lính và đeo súng kè kè. Nhân viên Ban Giám Hiệu gọi ông này là "đồng chí Vũ".
Ông Vũ không đeo quân hàm, nhưng tác phong thì khinh khỉnh với mọi người và sẵn sàng tỏ thái độ hách dịch với đám giáo viên chế độ cũ, như hỏi điều gì cũng nói trống không. Một lần ông ta chỉ vào dàn máy ghi âm khá tối tân đặt trong phòng gắn máy lạnh :
- Cái này là cái gì ? Nó phục vụ chức năng gì trong nhà trường cũ ?
Rồi quát tháo :
- Ai lo quản thủ những thứ này đây ? Sao cứ để máy lạnh chạy cả ngày lẫn đêm không lo tắt bớt lúc không cần đến.
Cũng có nhiều nhân viên cũ có thể đứng ra giải thích đấy. Nhưng ai cũng thấy sợ sệt, mong được yên thân nên không ai dại gì mà cứ ráo riết tranh biện vì lẽ phải. Vì thế, một lệnh của ông Vũ ban ra, bất cứ là thứ lệnh gì, mọi người đều cứ răm tắp tuân theo. Có thể nói, từ ngày ông Vũ được cử về công tác, bầu không khí trong nhà trường cứ như lúc nào cũng bao trùm một vẻ vừa u ám, vừa nặng nề.
Phải chăng ở ngôi trường này, dù là một cơ sở giáo dục, chúng tôi cũng đã bắt đầu ngửi được mùi vị của cái gọi là "chuyên chính vô sản".
Tôi lại còn nhớ có một lần, một bà cán bộ từ Hà Nội vào tham quan Sài Gòn trong những đợt đầu tiên. Bà ta có tìm tới địa chỉ nhà tôi để trao một lá thư thăm hỏi do thân nhân của tôi từ Hà Nội nhờ bà chuyển tay mang vào. Khi bà ta trở ra Hà Nội, tôi có nhờ mang giùm một đôi vớ còn nguyên trong vỏ bọc nylon để làm quà tặng cho một ông anh của tôi. Bà ta ngại ngần giây lâu rồi nhận lời với điều kiện : Tôi phải mang đôi vớ ra Phường xin giấy xác nhận đó là quà tặng nhờ cầm tay mang đi.
Thực tình, tôi không hề thấy phiền hà gì về chuyện phải mang một đôi vớ ra Phường chầu chực để xin giấy chứng nhận rằng nó là quà để biếu chứ không phải thứ buôn bán gì. Nhưng nghĩ kỹ thì thấy nực cười bởi đây là một chuyện kỳ cục chưa bao giờ xẩy ra ở trong Nam ngày trước. Cứ xem nội dung tấm giấy chứng nhận sau đây thì đủ rõ :
GIẤY CHỨNG NHẬN
Nay chứng nhận : Bà……….là cán bộ thuộc cơ quan……….
Có mang một đôi vớ ngoại, mầu xám, sọc nâu, điểm hoa văn trắng, là quà biếu của ông……..nhờ chuyển ra Hà Nội cho thân nhân là……..hiện ngụ tại địa chỉ……….
Nay chứng thực để đương sự có thể chuyên chở món đồ nói trên. Xin các cơ quan, đoàn thể, tổ chức dành mọi sự dễ dàng cho đương sự.
T.M. Ủy ban Nhân Dân Phường ….Quận…..
Ký tên và đóng dấu
Đòi hỏi điều kiện phải có dấu chứng thực cho một đôi vớ như thế, bà cán bộ đến từ miền Bắc đã hành xử rất đường hoàng, minh bạch, chấp hành rất nghiêm chỉnh đường lối chính sách của nhà nước cũng như lời Bác Hồ dạy là phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Chỉ có điều là, khoảng hơn một năm sau, tôi lại được thân nhân ngoài Bắc cho biết là chính bà cán bộ này đã trở nên giầu sụ sau vài chuyến đi công tác trong Sài Gòn !!
o O o
Nhưng đâu phải ai cũng có cơ hội "làm giầu" như bà cán bộ kể trên. Hầu hết những người tôi quen biết hoặc là họ hàng thân thuộc ở miền Bắc thì đều đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả, thiếu thốn. Vợ chồng ly dị nhau rồi mà vẫn phải chia nhau mỗi người nửa cái giường có màn làm bằng vỏ bao đựng bột đem ngăn đôi. Dưới gậm giường nhà nhà đều có một cái khạp được khóa kỹ mà bên trong chỉ chứa có nước máy tiêu dùng. Phải khóa lại vì nhà ở chen chúc, lẫn lộn chung nhau cả chục gia đình, sểnh ra là bị lấy trộm ngay đến cả nước máy. Nước khi đó rất hiếm hoi. Cả phố trông vào có một cái vòi chỉ chảy rỉ rả vào ban đêm. Sáng ra là tắt nước. Phải thức trắng đêm mới đổ đầy một khạp, không khóa nó lại thì có khi một ngày sẽ không có lấy một ngụm nước mà xài.
Như thế thì dân chúng miền Nam có san sẻ ra Bắc những ti-vi, tủ lạnh, quạt máy, đồng hồ, giường tủ, bàn ghế, sa-lông, xe đạp, xe máy.…để bà con ngoài ấy được hưởng đôi chút phương tiện văn minh vật chất thì cũng là sự san sẻ trong tình nghĩa đồng bào. Chẳng nên vì tiếc sót mà ca cẩm : Nam nhận họ, Bắc nhận hàng.
Có một lần tôi hỏi một bà chị họ :
- Ở ngoài Bắc có radio không ?
Bà ấy cười :
- Có chứ !
- Vậy chị có nghe được đài BBC không ?
- Radio một đài, sao nghe được BBC.
Thấy tôi ngạc nhiên không hiểu, chị giải thích :
- Đúng ra nó chỉ là một cái loa hình vuông nom giống cái bánh trưng nhưng mỏng lét. Phía trước có gắn một cái nút. Bật nút lên là có tiếng nói của đài Hà Nội phát ra. Nhà nào cũng có một cái như thế gắn trên tường. Thế chẳng là radio một đài thì là gì !
Tôi mỉm cười, tự nghĩ :
- Thật là một đầu óc kìm kẹp có sáng kiến thần sầu. Vừa rẻ, vừa tiện mà lại dễ bề kiểm soát...
Một xã hội triền miên thiếu thốn như thế, nhưng không bao giờ thiếu những tiếng hát trong trẻo, hồn nhiên của đám mầm non nhi đồng.
Tuổi thơ vốn vô tư, lại thêm các Cô giáo ở Vườn Trẻ, ở Trường Mầm Non, ở trên các chương trình TV dành cho tuổi trẻ luôn luôn sốt sắng dạy dỗ các em hát nhiều bài. Phổ biến nhất là bài :
Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ
Râu bác dài tóc Bác bạc phơ
Em âu yếm hôn đôi má bác
Vui bên bác là em múa hát
Hát bài Hồ Chí Minh muôn năm
Có lần tôi vui miệng hỏi thằng Tửu:
- Hồi bé, Tửu có hay hát bài "Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ" không ?
Tửu cười :
- Đứa nào mà không quai mồm ra hát thì có mà cô giáo gang họng ra.
- Ơ ! Vậy chớ Tửu có thật ngủ mơ là đã gặp Bác không ?
- Làm gì có đứa nào nằm mơ thấy Bác ! Chúng nó gào lên thế nhưng mà có nghĩ đến Bác bao giờ đâu. Có mà mơ thấy được ăn một cục kẹo thì đúng hơn. Hát thế là hát dối!
- Ấy ! Lỗi đâu phải chúng nó. Cái anh sáng tác bản nhạc với đám Thầy, Cô bắt chúng nó nghêu ngao suốt ngày kìa. Bơm cái dối trá vào đầu con trẻ mà cứ tiếp tục mãi như thế được. Thế là giáo dục ở miền Bắc đấy ư ?
Tửu cười hề hề :
- Thì thế ! Mà nào có ai dở hơi, vẽ chuyện nêu vấn đề ấy ra đâu ! Đụng đến Bác, có mà đi tù.
Nói cho ngay, cái trò bắt con trẻ nói lời "dối trá" không chỉ bắt nguồn từ thời buổi bây giờ, mà nó đã tồn tại ngay từ cái thuở mới khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tháng 9-1945. Vào thời đó, chính bọn trẻ chúng tôi cũng đã nghêu ngao suốt ngày :
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em Nhi đồng
Bác chúng em dáng thanh thanh, người cao cao
Bác chúng em mắt như sao…Râu hơi dài…
Có bao giờ chúng tôi được nhìn thấy Bác tận mắt bao giờ đâu mà mô tả kỹ lưỡng như thế, rồi lại còn khẳng định : "Ai yêu Bác hơn chúng em Nhi đồng" nữa. Thế là giả dối ! Trong đầu óc non nớt của chúng tôi hồi đó, đúng ra chỉ có hình ảnh ông bà Nội, ông bà Ngoại là luôn ngự trị trong đầu.
Đã thế lại còn có những câu thơ tệ mạt tới mức giả dối trắng trợn như :
Yêu biết mấy khi nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin ….
Nhưng tác giả bài thơ này chắc ngoài ý định dụ dỗ các em nhi đồng hãy nên tôn kính ông Sít-ta-lin ông ta còn muốn gián tiếp ra một chỉ thị : "Mọi người hãy tôn sùng Sit-ta-lin !". Phụ huynh của đám trẻ vốn là những cái đầu đã có sạn, đã biết bạo lực là gì, nên khi nghe ông trùm Thơ đang ở cương vị hét ra lửa đã mửa ra khói làm những câu Thơ như vậy, tất cũng phải khúm núm bầy tỏ lòng tôn kính ông lãnh tụ ngoại lai kia cho xong chuyện vậy thôi.
Mà chẳng cứ riêng một mình Tố Hữu ! Phải nói cho ngay rằng, ở thời cực thịnh của Đảng CSVN, nhiều ông, bà cầm bút đã cố tình xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật để tuyên truyền cho những mục tiêu cả ngắn hạn lẫn dài hạn của Nhà Nước. Họ đã chiếm lĩnh dư luận toàn xã hội, đã vo tròn bóp méo biết bao nhiêu sự thật. Tài sản trí tuệ của họ sau một thời gian dài đã tạo nên vô vàn sản phẩm văn nghệ nhớp nhúa mà hiện nay vẫn còn đầy rẫy trong sách vở giáo khoa ở nhà trường hay trong thư viện.
Tôi lại nhớ cái thời Bác Hồ qua Pháp tới 6 tuần lễ trong dịp có Hội nghị Fontainebleau năm 1946, mà ông Phạm văn Đồng là đại biểu của VN. Lũ nhi đồng chúng tôi hồi đó lại cũng đã từng nghêu ngao hát bài "Vắng bác Hồ yêu dấu", mặc dù chẳng biết Bác đang đi đâu, làm gì, có thật là mình đã nhớ Bác hay không :
Vắng bác Hồ yêu dấu
Lòng bâng khuâng- cháu sầu nhớ nhung
Bác có nhớ cháu không
Từ lúc con chim bằng cất cánh
Lòng thẫn thờ nhìn theo chim kia
Nhẹ cánh khuất trong mây
Quay bước chân trở về …
Chờ mong tháng ngày…
Cái sự gia công tiêm nhiễm vào đầu óc con trẻ những sự kiện chính trị của đời thường, đến khi trưởng thành chúng nhận ra là mình đã bị nhồi nhét những điều giả trá thì e rằng niềm tin của chúng sẽ không những bị thui chột, mà có khi còn làm dấy lên trong đầu óc của chúng sự khinh miệt cả cái môi trường xã hội mà chúng đã lớn lên để rồi có những phản ứng tiêu cực không biết đâu mà lường.
Phải chăng xã hội ngày nay ở VN, trong đám trẻ đã có nhiều tên phá phách, ngổ ngáo, hỗn xược, ngồi xổm lên mọi giá trị đạo đức của cha, anh là hậu quả của sự coi rẻ sự thật và giẫm đạp dễ dàng lên nhân phẩm mà thế hệ cha anh chúng nó thản nhiên thực hiện. Để đến bây giờ, nhìn gương của thế hệ đi trước, chúng cảm thấy nếu có làm những cái gì sai quấy thì cũng chỉ là đi theo vết xe của cha, anh để lại, còn chúng thì hoàn toàn vô can và có quyền phủi tay, vô trách nhiệm..v..v…
Mà căn bệnh trầm kha này cho tới nay cũng đâu đã chấm dứt !
o O o
Nhân đề cập tới những sự đổi thay thường trực xẩy ra ở chung quanh mình, tôi bỗng nhớ đến một nhân vật vốn là một trong những người đầu tiên đã tới tiếp thu ngôi trường mà tôi đang dạy.
Đó là một thanh niên trạc gần ba mươi, trán cao, mắt sáng, dáng dấp gầy gò, nước da xanh mét, khuôn mặt bủng tái như mầu chì chứng tỏ hãy còn mang trong mình một bệnh sốt rét kinh niên mà chỉ những người ở lâu trong rừng mới mắc phải. Anh tên Thành, nghe nói trước là sinh viên đại học Vạn Hạnh, sau bỏ ra bưng. Khi Cách mạng thành công, anh ta trở về thành và được giới thiệu là người của Thành Ủy tới tiếp thu ngôi trường và có nhiệm vụ điều động sao cho nó có thể chính thức khai giảng được năm học đầu tiên càng sớm càng tốt.
Công việc nhìn có vẻ dễ dàng, vì trường ốc còn nguyên, học sinh sẵn sàng tới lớp, đa phần giáo chức không di tản kịp cũng đã quay trở lại trường tìm một chân đứng thay vì bị Phường, Khóm ở các địa phương đưa lên danh sách những người bị xua đi kinh tế mới.
Nhưng hầu như đã có những cuộc tranh cãi kịch liệt xẩy ra ở đằng sau cánh cửa dành riêng cho văn phòng của Ban Giám Hiệu. Mỗi lần thấy Thành ở đó bước ra, tôi thấy mặt mũi anh bơ phờ, dáng dấp mệt mỏi trong chiếc áo sơ mi nhầu nát bỏ ra ngoài chiếc quần tây dài mầu xám đậm không ủi nếp. Anh lê đôi dép da không quai hậu, nặng nề đi qua chiều dọc của căn phòng dài trước đây vẫn dành làm chỗ tập trung của các nhà giáo trong giờ nghỉ. Thấy mọi người nhìn anh với cặp mắt dò hỏi, anh chỉ nhếch đôi môi khô khan lên cười một cách nhạt nhẽo rồi lẳng lặng bước ra.
Nhiều người đưa mắt nhìn theo, rồi lại quay ra nhìn nhau và xì xào :
- Có chuyện gì thế ?
Một vị có vẻ thông thạo thời thế đã nói :
- Trâu bò húc nhau…coi chừng ruồi muỗi chết !
Hẳn là vị này gợi ý có sự đụng độ giữa các cán bộ ở A vào và ở R ra. Hay nói khác đi, đường lối của miền Bắc có thể đang gây bất mãn cho cán bộ miền Nam
Sau này thì tôi biết thêm được một vài chuyện đã gây nên những cuộc tranh cãi trong thời gian nhà trường chuẩn bị khai giảng năm học đầu tiên ấy. Nào là vấn đề lập danh sách đề nghị lưu dung các giáo chức cũ, giữ ai, bỏ ai, ai còn có vấn đề phải xem xét kỹ khi đã mang danh nghĩa giáo sư "biệt phái", hai chữ nghe sao mà nó đầy vẻ bí ẩn của loại công tác an ninh, điệp báo. Rồi nào là sách giáo khoa trong thời chế độ cũ, những cuốn nào đề nghị còn tạm xài trong khi chờ Bộ Giáo Dục cho in những sách mới, cuốn nào thì dứt khoát liệng bỏ cho chở đi làm bột giấy. Rồi trong tiến trình sắp xếp nhân sự để hoàn tất mọi cơ cấu nhà trường, lấy ai, gạt bỏ ai trong số người ở thì A vào, người ở thì R ra, người thì thuộc chế độ cũ nhưng có trình độ chuyên môn tổ chức cao ….Mà hình như ai cũng có lời gửi gấm từ "trên" cả, biết làm sao đây ?
Nhưng điều sai lầm lớn nhất mà Thành mắc phải - theo tôi nghĩ - là anh đã quá tự tin vào thành quả mình đã đóng góp cho cách mạng cũng như vào vai trò của mình đã được giao phó lúc chiến tranh chấm dứt.
Anh hồn nhiên với lý tưởng của mình vẫn hằng theo đuổi là "Đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh lật đổ chế độ tay sai của Mỹ để thực hiện một miền Nam trung lập, dân chủ, hoà bình trước khi tiến tới việc thống nhất Tổ quốc". Đó là cương lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà anh đã nghiền ngẫm trước khi bỏ Sài Gòn trốn ra bưng, đi theo Cách mạng.
Khi chiến tranh chấm dứt, anh luôn luôn bầy tỏ với mọi người rằng đã đến lúc ai ai cũng nên xóa bỏ mặc cảm của mình để cùng nhau xắn tay vào công cuộc xây dựng một xã hội mới. Có lần anh nói với tôi :
- Tội ác của chế độ cũ là gây chia rẽ, hận thù. Làm gì có chuyện Việt Cộng khi vào thành thì nhổ hết móng tay của phụ nữ. Thầy sẽ thấy dưới chế độ mới, ai cũng đều có chỗ đứng của mình. Đất nước đã hoang tàn đổ nát quá nhiều rồi, bây giờ thời điểm của xây dựng chứ không phải là của phá hoại.
Thế là vì quá tự tin vào thiện chí trong sáng của mình, anh đã lội ngược dòng mà không hay.
Dù hoàn toàn không đồng ý với anh ở luận điệu "Tội ác của chế độ cũ là gây chia rẽ, hận thù", nhưng tôi cũng chia sẻ với anh về cái nhìn "Đất nước đã hoang tàn đổ nát quá nhiều rồi, bây giờ thời điểm của xây dựng chứ không phải là của phá hoại". Chỉ tiếc là, thay vì phải đi động viên, khuyến khích những người thuộc chế độ cũ, thì điều chính yếu là anh cần phải thuyết phục ngay chính những kẻ đang cùng với anh có nhiệm vụ vận hành guồng máy vừa mới tiếp thu được.
Bởi họ đâu có chia sẻ với anh những điều mà anh hằng tâm niệm. Họ tiếp tục đàn áp người của chế độ cũ để trả thù và lợi dụng danh nghĩa trả thù ấy để chiếm đoạt, vơ vét…vào quỹ chung thì ít mà túi riêng thì nhiều. Chỉ riêng việc khi lập biên bản tịch thu những lạng vàng trong cuộc đánh Tư sản, cán bộ chỉ ghi là "Kim loại có mầu vàng" là đủ thấy rõ.
Cho nên, những lời động viên và khuyến khích có tính đi ngược trào lưu của Thành vừa được loan truyền ra thì bỗng nhiên không ai thấy anh lui tới nhà trường nữa. Trước thì chúng tôi tưởng anh ốm đau bệnh hoạn sao đó, sau lại thắc mắc tại sao nhà trường cứ êm ả không nói năng gì về sự vắng mặt của anh. Rồi đùng một hôm Ban Giám Hiệu tổ chức hội họp giáo viên để chính thức giới thiệu viên Hiệu trưởng mới. Bấy giờ thì chúng tôi mới hiểu số phận của anh Thành đã ra sao rồi.
Có thể nói mãi mãi sau này, dù có để tâm dò hỏi, cũng không bao giờ chúng tôi còn nghe được bất cứ tin tức gì của anh nữa, ngoại trừ những lời đồn đoán lúc ban đầu, không được kiểm chứng là anh đã bị đem đi mất tích.
Người thay thế anh như đã tả trong một chương trước, là một tay bộ đội, tuổi trung niên, khi lui tới nhà trường vẫn mặc đồ lính và đeo súng kè kè. Nhân viên Ban Giám Hiệu gọi ông này là "đồng chí Vũ".
Ông Vũ không đeo quân hàm, nhưng tác phong thì khinh khỉnh với mọi người và sẵn sàng tỏ thái độ hách dịch với đám giáo viên chế độ cũ, như hỏi điều gì cũng nói trống không. Một lần ông ta chỉ vào dàn máy ghi âm khá tối tân đặt trong phòng gắn máy lạnh :
- Cái này là cái gì ? Nó phục vụ chức năng gì trong nhà trường cũ ?
Rồi quát tháo :
- Ai lo quản thủ những thứ này đây ? Sao cứ để máy lạnh chạy cả ngày lẫn đêm không lo tắt bớt lúc không cần đến.
Cũng có nhiều nhân viên cũ có thể đứng ra giải thích đấy. Nhưng ai cũng thấy sợ sệt, mong được yên thân nên không ai dại gì mà cứ ráo riết tranh biện vì lẽ phải. Vì thế, một lệnh của ông Vũ ban ra, bất cứ là thứ lệnh gì, mọi người đều cứ răm tắp tuân theo. Có thể nói, từ ngày ông Vũ được cử về công tác, bầu không khí trong nhà trường cứ như lúc nào cũng bao trùm một vẻ vừa u ám, vừa nặng nề.
Phải chăng ở ngôi trường này, dù là một cơ sở giáo dục, chúng tôi cũng đã bắt đầu ngửi được mùi vị của cái gọi là "chuyên chính vô sản".