Tính cách không thể được hình thành trong yên bình. Chỉ có trải nghiệm mới hun đúc tâm hồn, làm rõ tầm nhìn, sản sinh ra tham vọng, và giúp đạt được thành tựu.

Helen Keller

 
 
 
 
 
Tác giả: S.e. Hinton
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Outsiders
Dịch giả: Thiên Nga
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3423 / 85
Cập nhật: 2016-06-18 07:56:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
hiên tòa không giống như tôi tưởng chút nào. Ngoài Darry, Soda và tôi ra, chẳng có ai khác ngoài Randy, Cherry Valance cùng gia đình và thêm vài thằng đã chặn đánh Johnny và tôi đêm đó. Tôi chẳng biết mình chờ thấy toàn bộ chuyện này như thế nào - tôi nghĩ chắc tôi đã xem quá nhiều phim Perry Mason(6). Ồ, phải rồi, bác sĩ có mặt ở đó và ông đã nói chuyện rất lâu với ông thẩm phán trước phiên tòa. Lúc đấy tôi không biết ông có liên quan gì tới chuyện này, nhưng giờ thì tôi rõ rồi.
Đầu tiên thằng Randy bị thẩm vấn. Nó trông hơi căng thẳng, và tôi ước gì họ cho phép nó hút một điếu. Tôi ước gì họ cho phép tôi hút một điếu; chính tôi cũng run. Anh Darry đã dặn tôi ngậm miệng bất luận thằng Randy và mọi người có nói gì, sẽ đến lượt tôi thôi. Hết thảy mấy thằng Soc đều thuật lại câu chuyện như nhau và chủ yếu theo đúng sự thật, trừ việc chúng khai là Johnny đã giết thằng Bob; nhưng tôi nghĩ tôi có thể giải quyết điểm đó khi đến phiên mình. Cherry kể lại cho họ những gì đã xảy ra trước và sau khi Johnny và tôi bị hành hung - tôi nghĩ tôi đã thấy ít nước mắt lăn dài trên má nó, nhưng tôi không chắc. Giọng nó hết sức điềm tĩnh dù nó đang khóc. Ông thẩm phán thẩm vấn kỹ lưỡng tất cả mọi người, nhưng chẳng có gì vô cùng xúc động hay thú vị xảy ra như trên truyền hình cả. Ông hỏi hai anh đôi chút về Dally, tôi nghĩ để kiểm tra hoàn cảnh chung của anh em tôi và tìm hiểu xem bọn tôi giao du với loại bạn bè nào. Nó có phải là bạn thật tốt của anh em tôi không? Darry nói, “Phải, thưa ngài,” và nhìn thẳng ông thẩm phán, không do dự; nhưng Soda thì nhìn tôi như thể anh đang tuyên án tôi lên ghế điện trước khi họ hỏi tôi cũng câu hỏi đó. Tôi hết sức tự hào về cả hai anh. Dally là một đứa trong băng bọn tôi và bọn tôi không thể bỏ rơi nó. Tôi đã tưởng thẩm phán sẽ chẳng bao giờ có thời gian mà thẩm vấn tôi. Trời ơi, đến lúc ổng hỏi tôi thì tôi sợ muốn đơ cả người. Và bạn biết sao không? Họ chẳng hỏi gì tôi về chuyện thằng Bob bị giết cả. Ông thẩm phán chỉ làm có mỗi một chuyện là hỏi tôi có thích sống với anh Darry không, tôi có thích đi học không, điểm của tôi ra sao, đại loại như thế. Lúc đó tôi chẳng hiểu mô tê ất giáp gì, nhưng về sau tôi biết ra chuyện bác sĩ đã nói với thẩm phán. Tôi nghĩ chắc trong bụng tôi quả tình sợ ra sao thì ngoài tôi cũng lộ ra vậy, vì ông thẩm phán nhăn răng cười với tôi và bảo tôi đừng có gặm móng tay nữa. Đó là thói quen tôi mắc phải. Rồi ông nói tôi được tha bổng và toàn bộ hồ sơ khép lại. Chỉ thế thôi. Thậm chí cũng chẳng cho tôi được nói gì mấy. Nhưng mà chuyện đó chẳng làm tôi phiền gì nhiều. Dù gì thì tôi cũng không thấy hứng thú nói.
Tôi ước giá như có thể nói rằng mọi sự đã trở lại bình thường, nhưng không phải. Nhất là tôi. Tôi bắt đầu va phải mọi thứ, ví dụ cái cửa, và cứ vấp vào bàn cà phê và để quên đồ. Lúc nào tôi cũng kiểu như đãng trí, nhưng trời ơi, tôi đi học mà cầm về đúng sách vở và cả hai chân đều mang giày thì là còn phước lắm. Có lần tôi đi bộ một mạch về nhà, hai chân chỉ mang tất mà không hề nhận ra cho đến khi Steve vui vẻ nhận xét về chuyện đó. Tôi tưởng mình đã để giày trong tủ đồ ở trường, nhưng tôi chẳng tìm thấy nữa. Còn một chuyện nữa, tôi bỏ ăn. Trước tôi từng ăn khỏe lắm, rồi bỗng đâu tôi không có cảm giác đói nữa. Cái gì cũng có mùi vị như xúc xích. Ngoài ra việc học hành của tôi cũng hết sức bết bát. Tôi không bê bối lắm trong môn toán, vì Darry kiểm tra bài làm và thường phát hiện ra hết chỗ sai rồi bắt tôi làm lại, nhưng trong môn tiếng Anh thì tôi quả là quá tệ đi. Tôi thường được điểm A môn tiếng Anh, chủ yếu vì thầy tôi cho bọn tôi viết luận suốt. Ý tôi là, tôi biết mình nói tiếng Anh không khá (bạn đã bao giờ thấy một thằng du côn nói tiếng Anh khá chưa?), nhưng tôi lại có thể viết khá khi cố gắng. Ít nhất, trước đây thì thế. Giờ thì may lắm tôi mới kiếm được một điểm D cho bài luận.
Chuyện đó khiến thầy tiếng Anh của tôi bận lòng, ý tôi là kiểu tôi mắc lỗi ngớ ngẩn ấy. Thầy rất tốt, là người khiến bọn tôi phải suy nghĩ, và có thể nói rằng thầy còn quan tâm đến ta như một con người. Một hôm thầy bảo tôi nán lại sau khi mấy đứa khác trong lớp đã ra về.
“Ponyboy, thầy muốn nói với em về điểm của em.”
Trời ạ, tôi ước gì mình được chuồn khỏi đó. Tôi biết mình sắp bị đuổi khỏi giờ học đó, nhưng trời ơi, tôi không tránh được.
“Chẳng có gì nhiều để nói cả, nếu xét điểm của em, Pony, thầy sẽ nói thẳng với em đây. Ngay bây giờ em đang trượt môn này, nhưng xét hoàn cảnh thì, nếu em làm được một bài luận học kỳ khá, thầy sẽ cho em đậu với điểm C.”
“Xét đến hoàn cảnh” - anh em ơi, có phải đó là cách thầy muốn nói là thầy biết tôi đang làm hỏng bét cả vì tôi đã trải qua nhiều chuyện không hay không? Ít nhất thì đó cũng là một cách nói vòng vo. Tuần học đầu tiên sau phiên tòa thật kinh khủng. Những người tôi quen không nói chuyện với tôi, còn những người tôi không quen thì cứ sấn tới mà hỏi đầu đuôi sự vụ. Đôi khi ngay cả các giáo viên cũng thế. Còn cô giáo Sử của tôi - cô làm như thể cô sợ tôi ấy, dù tôi chưa hề phá phách gì trong giờ cô cả. Bạn có thể tin chắc là chuyện đó khiến tôi cảm thấy hết sức oách.
“Vâng thưa thầy,” tôi nói, “em sẽ cố. Đề bài là gì ạ?”
“Bất cứ gì em thấy quan trọng phải viết ra. Không có đề bài gợi ý; thầy muốn đọc ý nghĩ và kinh nghiệm của riêng em.”
Chuyến tham quan sở thú đầu tiên của tôi. Ô là la, ô la la. “Vâng thưa thầy,” tôi nói, và biến khỏi đó nhanh hết sức có thể.
Giờ ăn trưa tôi hẹn gặp Ba Láp và Steve ở bãi xe sau, cả lũ chạy xe đến tiệm tạp hóa nhỏ bên khu lân cận để mua thuốc lá, Coca và mấy thanh kẹo. Cửa hiệu này là một chốn lui tới thường xuyên của dân Mỡ và bọn tôi gần như chỉ có bấy nhiêu đó cho bữa ăn trưa. Bọn Soc phá phách trong quán ăn của trường - ném đồ đạc và các thứ - và ai cũng cố đổ chuyện đó lên đầu bọn Mỡ chúng tôi. Cả bọn tôi đã được một trận cười về chuyện đó. Tụi Mỡ thậm chí còn chẳng mấy khi đến ăn ở quán đó.
Tôi đang ngồi trên cái chắn bùn xe của thằng Steve, hút thuốc và uống Pepsi trong khi nó và thằng Ba Láp ở trong tiệm trò chuyện với mấy đứa con gái thì một chiếc xe hơi chạy lại gần, ba thằng Soc bước ra. Tôi chỉ ngồi đó nhìn chúng và ực một hơi Pepsi nữa. Tôi không thấy sợ. Đó là cái cảm giác kỳ cục nhất trên đời. Tôi không cảm thấy gì - sợ, nổi khùng, hay bất cứ cảm giác gì cả. Chỉ là một con số không.
“Mày là thằng đã giết Bob Sheldon,” một thằng trong bọn nói. “Và nó là bạn của bọn tao. Bọn tao chẳng khoái ai giết bạn bọn tao cả, nhất lại là tụi Mỡ.”
Dữ chưa. Tôi đập bể đít vỏ chai rồi nắm chặt cổ chai và liệng điếu thuốc qua một bên. “Trở lại xe đi nếu không tụi bay sẽ bị chẻ xác ra đó.”
Tụi nó coi bộ khá ngạc nhiên, rồi một trong mấy thằng lùi lại.
“Tao không nói chơi đâu.” Tôi nhảy phóc khỏi xe. “Tao chịu gần hết nổi tụi bay rồi.” Tôi tiến về phía chúng, cầm cái chai như kiểu Tim Shepard cầm roi - huơ ra xa thân mình, cầm lơi nhưng chắc. Tôi nghĩ tụi nó biết tôi nói thật chứ chẳng chơi, vì cả bọn lên xe chạy mất.
“Mày chắc dùng cái chai đó thật chứ chẳng chơi, phải không?” Ba Láp đã quan sát từ ô cửa ở cửa hiệu. “Steve và tao đang định yểm trợ mày, nhưng tao nghĩ bọn tao chẳng cần nữa. Mày chắc sẽ chẻ xác tụi nó thật, hả?”
“Tao nghĩ vậy,” tôi thở dài. Tôi chẳng hiểu thằng Ba Láp đang nghĩ gì - ai cũng sẽ làm vậy thôi, thằng Ba Láp thì chắc còn chẳng buồn phải nghĩ tới nghĩ lui.
“Ponyboy, nghe này, đừng có trở nên dữ dằn. Mày chẳng giống mấy thằng khác trong bọn mình, đừng cố làm...”
Có chuyện gì với Ba Láp vậy chớ? Tôi biết cũng như nó là nếu ta trở nên dữ dằn thì ta sẽ không bị hại. Khôn ra thì sẽ chẳng gì động tới ta được...
“Mày đang làm cái quái gì vậy?” Giọng Ba Láp xen vào những ý nghĩ của tôi.
Tôi ngước nhìn nó. “Nhặt miểng chai.”
Nó trố mắt nhìn tôi một lát, rồi cười toe. “Thằng nhãi ranh này thiệt,” giọng nó trở nên nhẹ nhõm. Tôi không biết nó đang nói về chuyện gì, nên tôi chỉ tiếp tục nhặt miểng chai từ cái đít chai và bỏ vào thùng rác. Tôi chẳng muốn ai bị xì lốp xe.
Tôi cố viết bài luận đó khi về đến nhà. Tôi quả đã cố, chủ yếu là vì Darry bảo tôi phải làm. Tôi tính viết về bố, nhưng không nổi. Đã từ rất lâu rồi, thậm chí tôi còn chẳng nhớ nổi về bố mẹ mình. Lâu nữa. Tôi cố viết về con ngựa của anh Soda, Chuột Mickey, nhưng không viết ra cho xuôi được; nó cứ nghe ra sướt mướt. Vậy là tôi bắt đầu ghi tên ra khắp trang giấy. Darrel Shaynne Curtis, Jr. Soda Patrick Curtis, Ponyboy Michael Curtis. Rồi tôi vẽ ngựa lên khắp trên đó. Cái đó chắc sẽ kiếm được điểm cao đây.
“Nè, thư đã tới chưa?” Soda đánh sầm cửa và la to hỏi thư, như anh vẫn vậy mỗi ngày khi đi làm về. Tôi đang trong phòng ngủ, nhưng tôi biết anh sẽ ném trượt cái áo khoác vào ghế sofa, cởi giày ra, đi vào bếp uống một ly sô cô la sữa, đó là điều anh làm mỗi ngày trong đời. Anh luôn mang tất chạy quanh nhà - anh không thích mang giày.
Rồi anh làm một chuyện là lạ. Anh vào phòng, ngả vật xuống giường và bắt đầu hút thuốc. Anh hầu như không bao giờ hút, trừ khi có gì đó thực sự làm anh bực hay khi anh muốn trông có vẻ ngầu. Và anh đâu cần gây ấn tượng với bọn tôi; bọn tôi biết anh ngầu rồi. Nên tôi nghĩ có gì đó đang làm anh bận lòng. “Công việc sao rồi?”
“Tốt.”
“Có gì sao anh?”
Anh lắc đầu. Tôi nhún vai và quay qua vẽ ngựa.
Tối đó Soda làm bếp, và mọi thứ đều có vẻ bình thường. Chuyện đó thật bất thường, vì anh lúc nào cũng thử làm cái gì đó khác đi. Có lần bọn tôi được ăn bánh màu xanh lá. Xanh lá. Tôi có thể nói bạn nghe một điều: bạn mà có một ông anh như Sodapop thì bạn sẽ chẳng bao giờ thấy nhàm chán đâu.
Suốt bữa ăn tối Soda nín thinh, và anh ăn ít. Chuyện đó quả là không bình thường. Thường thì hầu như ta chẳng thể làm anh im miệng hay làm anh no. Anh Darry dường như không để ý thấy, nên tôi chẳng nói gì.
Thế rồi sau bữa ăn tôi và anh Darry lại ầm ĩ lên, khoảng lần thứ tư trong tuần đó. Chuyện này, ban đầu là do tôi chưa động gì đến bài luận, và tôi muốn chạy một vòng xe. Thường thì tôi chỉ đứng đó để anh Darry quát mắng, nhưng gần đây tôi đã to tiếng lại.
“Sao mà phải lo về bài vở của em chứ?” Rốt cuộc tôi lớn tiếng. “Dù gì thì em cũng phải kiếm một việc làm ngay khi em ra trường. Xem anh Soda kìa. Ảnh có sao đâu, mà ảnh cũng bỏ học ngang đó thôi. Anh thôi đi được rồi.”
“Mày sẽ không bỏ học ngang đâu. Nghe đây, với đầu óc mày và điểm của mày, mày có thể kiếm được học bổng, và bọn tao có thể cho mày học hết đại học. Nhưng vấn đề không phải là bài vở. Mày đang sống trong khoảng chân không, Pony à, và mày phải thôi đi. Johnny và Dallas cũng là bồ ruột của bọn tao nữa, nhưng mày đâu thể chỉ thôi sống vì mày mất một ai. Tao tưởng giờ thì mày đã hiểu ra điều đó rồi. Vậy mà mày không chịu buông! Và bất cứ khi nào mày không ưng cách tao hành xử mọi chuyện thì mày có thể biến đi.”
Tôi đờ người, lạnh ngắt. Bọn tôi chưa hề nhắc đến Dallas hay Johnny. “Anh muốn vậy, phải không? Anh chỉ muốn em cút đi. Chà, đâu dễ vậy, phải không, anh Soda?” Nhưng khi tôi nhìn anh Soda thì tôi dừng. Mặt anh tái mét, và khi anh nhìn tôi mắt anh mở to với một vẻ đau đớn. Tôi chợt nhớ mặt thằng Curly Shepard khi nó té từ cột điện thoại xuống và bị gãy tay.
“Đừng... Ôi, hai người, sao hai người không thể...” Anh bất thần chồm dậy và lao ra cửa. Anh Darry và tôi lặng người đi. Anh Darry nhặt lá thư anh Soda thả lại lên.
“Đó là thư nó viết cho con Sandy,” giọng anh Darry không chút cảm xúc. “Trả lại còn nguyên chưa mở.”
Vậy ra đó là cái đã làm anh Soda buồn bực cả buổi chiều. Và tôi thậm chí còn không để tâm tìm hiểu. Đến đây, tôi mới nhận ra rằng mình chưa hề để tâm gì nhiều đến những vấn đề của anh Soda. Anh Darry và tôi chỉ xem đương nhiên là anh chẳng có vấn đề gì.
“Khi Sandy đi Florida... đó không phải là vì Soda, Ponyboy. Nó bảo tao nó yêu con bé, nhưng tao đoán con bé không yêu nó như nó tưởng, con bé không vì Soda.”
“Anh không phải giải thích cặn kẽ cho em đâu,” tôi nói.
“Dù gì thì nó đã muốn cưới Sandy, nhưng con bé cứ bỏ đi.” Anh Darry nhìn tôi với một vẻ khó hiểu. “Sao nó không kể cho mày nghe? Có lẽ nó không kể cho thằng Steve hay thằng Ba Láp, nhưng tao tưởng chuyện gì nó cũng nói với mày cả mà.”
“Chắc anh ấy đã định kể,” tôi nói. Đã bao lần rồi anh Soda định nói với tôi cái gì đó, nhưng rồi lại thấy tôi đang mơ mộng hay chúi đầu vào sách? Ảnh luôn lắng nghe tôi, bất kể ảnh có đang làm gì.
“Tuần đó khi tụi mày bỏ đi đêm nào nó cũng khóc,” Darry chậm rãi nói. “Cả mày và Sandy trong một tuần.” Anh để phong thư xuống. “Nào, mình đuổi theo nó đi.”
Bọn tôi đuổi theo Soda đến tận công viên. Bọn tôi đuổi sát anh, nhưng anh đã chạy trước cả một khối nhà.
“Đi vòng rồi chặn đầu nó,” Darry ra lệnh. Dù đang không khỏe thì tôi vẫn là thằng chạy cừ nhất. “Tao sẽ ở ngay sau nó.”
Tôi đâm đầu qua cây cối và chặn đầu được anh ở nửa đường công viên. Anh quặt qua phải, nhưng tôi tung người ra bắt được anh trước khi anh kịp thêm vài bước nữa. Chuyện đó làm cả hai anh em tôi đứt cả hơi. Bọn tôi nằm đấy thở hồng hộc vài phút, và rồi anh Soda ngồi dậy phủi cỏ trên áo sơ mi.
“Mày đáng ra phải chọn chơi bóng bầu dục chứ đâu phải chạy bộ.”
“Anh nghĩ anh đang đi đâu vậy chứ?” Tôi nằm thẳng cẳng nhìn anh. Anh Darry tới nơi và ngồi phịch xuống cạnh bọn tôi.
Anh Soda nhún vai. “Tao không biết. Chỉ là... tao không chịu nổi nghe hai người lục đục. Đôi khi... tao chỉ phải chạy đi hoặc... như thể tao là kẻ đứng giữa trong một trò kéo co và tao bị xé đôi ra. Mày hiểu không?”
Anh Darry giật mình nhìn tôi. Cả hai anh em tôi đã không nhận thấy Soda ra sao khi nghe bọn tôi cãi cọ. Tôi khổ sở đến lạnh người vì xấu hổ. Cái anh nói là sự thật. Anh Darry và tôi quả đã chơi trò kéo co với anh mà chẳng hề nghĩ điều đó làm tổn thương anh thế nào.
Anh Soda nghịch mấy cọng cỏ úa. “Ý tao là, tao không thể về phe nào. Sẽ dễ hơn nhiều nếu tao làm được, nhưng tao hiểu cả hai phía. Anh Darry cứ quát mắng hoài, lúc nào cũng cố quá sức, hơn nữa quá xem nặng mọi chuyện, còn Ponyboy, mày chưa nghĩ thấu đáo, mày không nhận ra là Darry đã từ bỏ mọi thứ chỉ để cho mày một cơ hội ảnh đã bỏ lỡ. Ảnh có thể nhét mày vào một trại đâu đó và cứ học tiếp lên đại học. Ponyboy, tao đang nói sự thật với mày đó. Tao thôi học vì tao tối dạ. Ở trường tao quả đã cố gắng rồi, nhưng mày thấy điểm tao rồi đó. Nghe này, tao bằng lòng làm việc ở trạm xăng với xe xiếc. Nhưng mày thì đừng bao giờ như vậy. Về anh Darry, mày phải cố mà hiểu ảnh hơn, và đừng có bực ảnh về mọi lỗi lầm vặt vãnh của ảnh nữa. Darry cảm nhận mọi chuyện khác với mày.” Anh nhìn bọn tôi van nài. “Trời ơi, hai người ơi, phải nghe không cũng đã đủ chán rồi, vậy mà khi hai người bắt đầu cố bắt tui phải về phe...” Nước mắt Soda tuôn tràn. “Chỉ còn có mấy anh em mình đây với nhau thôi. Anh em mình phải làm sao mà đấu lưng với nhau chống chọi lại tất cả. Nếu anh em mình không có nhau, anh em mình sẽ chẳng có gì. Nếu anh em mình không có gì, anh em mình sẽ có cái kết cục như Dallas... mà tui không có ý nói là chết đâu. Tui muốn nói như nó lúc trước. Và cái đó còn tệ hơn cả chết nữa. Làm ơn” - anh đưa cánh tay lên quẹt nước mắt - “đừng cãi cọ nữa.”
Darry trông thật sự buồn. Tôi chợt nhận ra là anh chỉ mới hai mươi, cũng không già gì hơn hai đứa còn lại, không đủ già dặn để không cảm thấy sợ, bị tổn thương hay bơ vơ lạc lõng. Tôi nhận ra mình chỉ biết chờ Darry hiểu mình mà chưa bao giờ thử cố hiểu anh. Anh đã hy sinh rất nhiều vì anh Soda và tôi.
“Hẳn rồi, bồ tèo,” anh Darry nói nhẹ nhàng. “Tụi tao sẽ chẳng lục đục nữa đâu.”
“Nè, Ponyboy” - Soda nước mắt lưng tròng cười toe toét với tôi - “đừng có mà bắt đầu khóc nữa đi. Một đứa con nít khóc nhè trong nhà là đã đủ rồi.”
“Em đâu có khóc,” tôi nói. Chắc tôi đang khóc. Tôi chẳng nhớ nữa. Soda đấm đùa lên vai tôi.
“Không đánh nhau nữa. Chịu không, Ponyboy?” Darry nói.
“Chịu,” tôi nói. Và tôi nói thật lòng. Darry và tôi có lẽ vẫn sẽ còn những hiểu lầm - anh em tôi quá khác nhau nên không thể không vậy - nhưng không cãi nhau nữa. Bọn tôi không thể khiến Soda tổn thương nữa. Sodapop sẽ luôn là trọng tài, nhưng điều đó không có nghĩa là anh cứ phải bị giằng co. Thay vì anh Darry và tôi giằng co Soda, ảnh kéo bọn tôi lại với nhau.
“Thôi nào,” anh Soda nói, “tui lạnh quá. Đua về nhà chứ hả?”
“Chấp hai anh đó,” tôi thách, bật dậy. Hôm đó là một đêm thật đẹp để chạy thi. Không khí trong trẻo, lạnh và sạch đến độ lấp lánh. Trăng chưa lên nhưng các vì sao soi sáng vạn vật. Tất cả đều tĩnh lặng trừ tiếng bước chân bọn tôi trên xi măng và tiếng lá xào xạc lùa trên đường. Đó là một đêm thật đẹp. Tôi nghĩ mình vẫn còn chưa khỏe, bởi cả ba anh em tôi đều hòa. Không phải. Tôi nghĩ cả ba anh em tôi chỉ muốn ở lại bên nhau.
Thế nhưng tối đó tôi vẫn chưa muốn làm bài tập. Tôi tìm quanh một cuốn sách để đọc, nhưng tôi đã đọc hết thảy sách có trong nhà đến cả năm chục triệu lần rồi, ngay cả cuốn The Carpetbaggers(7) của anh Darry, dù anh bảo tôi vẫn chưa đủ lớn để đọc. Tôi cũng nghĩ vậy sau khi đã đọc hết quyển. Cuối cùng tôi cầm Cuốn theo chiều gió lên và nhìn nó một hồi lâu. Tôi biết Johnny đã chết. Tôi vẫn luôn biết chuyện đó, ngay cả khi tôi bệnh và vờ như nó chưa chết. Là Johnny, không phải tôi, đã giết thằng Bob - tôi biết cả điều đó nữa. Tôi chỉ nghĩ là biết đâu nếu tôi làm như thể Johnny chưa chết thì sẽ không đau đớn nhiều. Như kiểu thằng Ba Láp, khi cảnh sát mang xác Dally đi rồi, nó cứ ca cẩm vì đã mất luôn con dao bấm khi họ khám người thằng Dallas.
“Mày chỉ bận lòng có mỗi thứ đó thôi, con dao bấm, hả?” Thằng Steve mắt đỏ hoe đã quát nó.
“Không,” Ba Láp nói với một tiếng thở dài run run, “nhưng tao ước đó là tất cả những gì làm tao bận tâm.”
Nhưng nói gì thì chuyện đó vẫn đau đớn. Ta quen một gã một thời gian dài, và tôi muốn nói là thực sự biết gã, ta sẽ không thể quen với cái ý nghĩ là gã mới đó đã chết. Với tất cả bọn tôi Johnny là cái gì đó còn hơn cả một người bạn thân. Tôi nghĩ nó đã lắng nghe nhiều kêu ca và nhiều vấn đề của nhiều đứa hơn bất kỳ đứa nào trong bọn tôi. Một gã thực sự lắng nghe ta, lắng nghe và quan tâm đến cái ta nói, là một cái gì đó hiếm hoi. Và tôi không thể quên được nó đã bảo tôi là nó vẫn chưa làm được gì nhiều, cả đời nó chưa hề bước chân ra khỏi xóm - và rồi đã quá trễ. Tôi hít một hơi thật sâu và mở sách. Một mẩu giấy rơi ra sàn và tôi nhặt lên.
Ponyboy, tao đã nhờ cô y tá trao lại cho mày cuốn sách này để mày đọc nốt. Đó là chữ viết của Johnny. Tôi đọc tiếp, gần như nghe được cái giọng nhỏ nhẹ của Johnny. Lúc nãy ông bác sĩ đến nhưng đằng nào thì tao cũng đã biết rồi. Tao cứ mỗi lúc một mệt hơn. Nghe này, giờ tao chẳng sợ chết nữa. Đáng lắm mà. Thật đáng khi cứu mấy nhóc đó. Đời tụi nó đáng hơn đời tao, tụi nó có nhiều thứ hơn để mà sống. Một vài ông bố bà mẹ tụi nó đã ghé cám ơn tao và tao biết chuyện đó đáng lắm. Hãy nói với thằng Dally là đáng lắm. Chỉ có điều tao sẽ nhớ mấy thằng bay. Tao đã nghĩ đến điều đó, và bài thơ đó, gã đã viết bài thơ đó, ổng muốn nói ta là vàng khi ta trẻ con, như màu xanh lá. Khi ta trẻ con thì mọi sự đều mới mẻ, bình minh. Chỉ khi ta trở nên quen với mọi thứ thì mới là ngày. Như cách mày để tâm đến mặt trời lặn đó, Pony. Đó là vàng. Hãy giữ lấy cách sống ấy, đó là cách sống rất đáng giữ. Tao muốn mày bảo Dally hãy ngắm mặt trời lặn một lần. Nó biết đâu chừng sẽ tưởng mày dở hơi, nhưng hãy nói nó giùm tao. Tao không nghĩ nó đã có lúc nào thực sự thấy hoàng hôn. Và đừng buồn phiền vì là một thằng Mỡ. Mày vẫn còn rất nhiều thời gian để trở thành cái mày muốn. Vẫn còn rất nhiều điều tốt đẹp trên cõi đời này. Hãy nói với Dally vậy. Tao không nghĩ nó hiểu. Bạn thân của mày, Johnny.
Nói cho Dally. Đã quá trễ không nói cho Dally nghe được nữa rồi. Mà rồi nó có nghe không? Tôi không tin. Bỗng tôi thấy đây không chỉ là một vấn đề cá nhân nữa. Tôi có thể mường tượng ra hàng trăm hàng trăm thằng con trai sống ở khu thua thiệt trong thành phố, những thằng con trai mắt đen giật mình hoảng hốt vì cái bóng của chính mình. Hàng trăm thằng con trai có lẽ nhìn mặt trời lặn, ngắm sao trời và khao khát một cái gì đó tốt đẹp hơn. Tôi có thể thấy những thằng con trai gục xuống dưới đèn đường vì chúng xấu xa, dữ dằn và hận đời, và đã quá trễ để nói với chúng rằng vẫn còn có điều tốt đẹp trên đời, mà đằng nào chúng cũng chẳng tin ta nếu ta nói. Vấn đề đó quá lớn không thể chỉ là vấn đề cá nhân nữa. Cần có sự giúp đỡ nào đó, ai đó nên nói với chúng trước khi đã quá trễ. Ai đó cần kể lại câu chuyện ở phía chúng, rồi biết đâu bấy giờ mọi người sẽ hiểu và sẽ không quá vội vàng đánh giá một thằng dựa vào lượng dầu tóc nó bôi. Điều đó quan trọng đối với tôi. Tôi cầm cuốn danh bạ điện thoại lên và gọi cho thầy dạy tiếng Anh.
“Thưa thầy Syme, là Ponyboy đây ạ. Bài luận đó phải viết dài chừng nào?”
“Sao thế, à ừ, không được ngắn hơn năm trang.” Thầy nghe có vẻ hơi ngạc nhiên. Tôi quên là đã khuya rồi.
“Dài hơn được không thầy?”
“Dĩ nhiên, Ponyboy, dài bao nhiêu tùy em.”
“Cám ơn thầy,” tôi nói và cúp máy.
Tôi ngồi xuống, cầm bút lên và nghĩ một lát. Nhớ lại. Nhớ lại một thằng con trai ngăm đen, bảnh trai với nụ cười toe toét bất cần và tính tình nóng nảy. Một thằng con trai tóc trắng, bặm trợn với một điếu thuốc trên môi và nụ cười cay đắng trên gương mặt chai sạn. Nhớ lại - và lần này thì nó không còn làm tôi đau nữa - một thằng con trai mười sáu tuổi trầm lặng có cái vẻ thua cuộc, mái tóc dày và hai mắt đen với vẻ hoảng sợ. Một tuần đã cướp đi cả ba đứa nó. Và tôi nghĩ tôi có thể kể lại cho mọi người, bắt đầu từ thầy dạy tiếng Anh của mình. Tôi phân vân một hồi lâu không biết nên bắt đầu bài luận như thế nào, làm sao để bắt đầu viết về một cái gì đó quan trọng vô cùng đối với tôi. Và cuối cùng tôi đã bắt đầu như thế này: Khi tôi từ bóng tối của rạp chiếu phim bước ra ngoài ánh nắng rực rỡ, tôi chỉ có hai thứ trong đầu: Paul Newman và một cuốc xe về nhà...
________________________
Chú thích:
(6) Phim truyền hình những năm 1960 nói về vị luật sư cùng tên.
(7) Tiểu thuyết của Harold Robbins.
Ngựa Chứng Đầu Xanh Ngựa Chứng Đầu Xanh - S.e. Hinton Ngựa Chứng Đầu Xanh