Americans like fat books and thin women.

Russell Baker

 
 
 
 
 
Tác giả: William Colby
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Lost Victory
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Ngoc Hai
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần IV: Đi Tìm Một Chiến Lược – Chương 1: Hỗn Độn Và Lẫn Lộn
rong chuyến đi dài từ Washington đến Sài Gòn, tôi tự hỏi: chúng tôi đang ở chỗ nào trong cuộc chiến tranh này và không có Diệm, chúng tôi làm thế nào để tập họp được các lực lượng cho nỗ lực chiến tranh? Về nguyên tắc, tôi vẫn có thể có một quyết định bỏ ngỏ trước mắt: đó là từ chức để phản đối các chính sách đã dẫn chúng tôi đến tình trạng khủng khiếp này. Nhưng như thế cũng chẳng có ích gì. Qua Mc Cone, tôi đã có dịp bày tỏ quan điểm của tôi với Hội đồng An ninh quốc gia và có lúc trực tiếp với tổng thống. Song mặc dù không đồng tình với kết quả, tôi cũng hiểu được những lý do đã thúc đẩy tổng thống phải đi theo con đường trái ngược với con đường tôi đề nghị (trong các sức ép ông phải chịu đựng, còn có cuộc tấn công thường ngày của giới báo chí phê phán chế độ độc tài chuyên quyền của Diệm). Cho nên tốt hơn hết là tôi nên quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trước mắt chúng tôi, còn hơn là cứ quay lại kêu ca phàn nàn đối với quá khứ.
Điểm trước hết là phải xác định xem ai sẽ lãnh đạo Nam Việt Nam và lãnh đạo theo hướng nào. Người tôi đến thăm đầu tiên là đại sứ Lodge. Ông đã nhiệt liệt khen ngợi các nhân viên C.I.A ở Sài Gòn, theo đúng chỉ thị của tôi, đã chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh của ông và đóng góp tích cực vào thành công của cuộc đảo chính. Ông cũng cho tôi biết ông đã rõ về nhiệm vụ tổng thống Kennedy giao cho tôi và qua đó ngụ ý rằng trái với lần trước, lần này ông không ngăn cấm tôi tiếp xúc với người Việt Nam.
Đi cùng các nhân viên C.I.A. tới gặp các tướng Sài Gòn, tôi hết sức ngạc nhiên về sự đón tiếp của họ. Chẳng những họ tỏ ý phấn khởi về sự giúp đỡ của C.I.A. trong cuộc đảo chính, mà còn coi tôi như một người bạn đã từng ủng hộ họ trước đây trong việc thực hiện nhiều dự án mà họ mong muốn, và hơn thế nữa, cho rằng tôi là một “xếp” của C.I.A. đã tích cực giúp họ làm đảo chính thành công và tới đây sẽ là người truyền đạt đầy thiện chí cho những nhu cầu của họ tới Washington. Tướng Trần Văn Đôn vui vẻ nhắc lại chuyến sang Sài Gòn lần gần đây nhất của tôi mà ông đã mời tôi đến nhà ông ở. Tướng Lê Văn Kim thì nói về những cuộc thảo luận về chiến lược giữa chúng tôi. Còn tướng Tôn Thất Đính thì không quên chương trình “Thám báo miền núi” mà chúng tôi cùng nhau xây dựng ở Tây Nguyên với những bộ lạc thiểu số và sau đó để cảm ơn tôi, ông đã tặng tôi một con hổ nhồi rơm. Riêng tướng Minh “lớn”, người thủ lĩnh trên danh nghĩa, thì lúc đầu tỏ ra hơi dè dặt. Nhưng sau đó, trong những buổi họp tiếp theo mà chúng tôi tổ chức để trình bày những chương trình của C.I.A và chỉ rõ lợi ích của nó đối với chính quyền mới, thì Minh “lớn” đã tỏ ra cởi mở và nồng nhiệt hơn. Không một ai ám chỉ điều gì về những mối quan hệ giữa tôi và Diện, Nhu trước đây.
Công khai trước mọi người, tôi giữ thái độ tích cực nhất mà tôi có thể. Nhưng những lúc riêng tư, tôi cảm thấy lo ngại khi thấy chính quyền mới có thể có quá ít những “chất liệu” để tạo ra một sự hợp tác hữu hiệu. Các tướng lĩnh có vẻ bị vượt qua bởi khó khăn của cái gánh nặng là vừa quản lý đất nước lại vừa tiếp tục chiến tranh. Họ lo lắng hướng về phía người Mỹ, chờ đợi người Mỹ sẽ chỉ vẽ cho họ nên giải quyết công việc ra sao, thậm chí họ còn mong là người Mỹ sẽ làm thay cho họ, theo như cái truyền thống “ưu việt” của chủ nghĩa thực dân Pháp mà trước đây họ đã quá quen thuộc và lệ thuộc vào nó. Minh “lớn” có vẻ như không có ý định tự mình nắm lấy công việc và đảm đương chính quyền. Ông chỉ thích hỏi ý kiến các cộng sự và các cuộc họp của họ thường chẳng đưa ra được một quyết định nào hết. Đối mặt với sự bất định của các tướng lĩnh, Lodge giữ thái độ dửng dưng một cách lạ lùng, và thậm chí cũng chẳng cố thúc đẩy phái bộ Mỹ vạch ra một chiến lược nào và xây dựng một cơ cấu cần thiết để thực hiện nó. Cuối chuyến đi của tôi, tôi điện cho Mc Cone phát biểu những cảm tưởng của mình, trong đó nhấn mạnh vào khối công việc khổng lồ đang chờ đợi chúng tôi, nếu chúng đơn giản chỉ muốn thấy cỗ máy vận hành và thực hiện một hành động chính trị đích thực. Tôi nói thêm rằng mặc dù có những phẩm chất, nhưng Lodge chẳng hề làm gì theo hướng ấy. Sau này Mc George Bundy có thổ lộ với tôi là Mc Cone có cho ông xem bức điện ấy và ông rất hiểu vấn đề tôi nêu ra.
Tôi vẫn cố luôn luôn tìm hiểu những sự kiện mới của vấn đề Việt Nam. Tất nhiên, nhiều điều đã thay đổi trong cái tháng Mười một năm 1963 định mệnh ấy. Một trong những thay đổi ấy là sự tiến triển về tình hình ở Việt Nam. Không đến nỗi trầm trọng như việc lật đổ Diệm và cái chết của ông ta mà chúng tôi vừa phải chịu đựng, nhưng tác động của sự tiến triển ấy cũng không kém phần quan trọng.
Thật kỳ cục là nguyên nhân của nó lại bắt nguồn từ thất bại Vịnh Con Lợn ở Cuba năm 1961 do C.I.A. tiến hành. Sau sự sỉ nhục đó, Tổng thống đã chỉ định một phái đoàn có nhiệm vụ rút ra những hệ quả đối với chính sách sẽ đề ra. Tướng Maxwell D. Taylor lúc đó đã về hưu, được cử cầm đầu phái đoàn. Phái đoàn bắt đầu bằng việc nhận xét rằng C.I.A. đã không có người cũng như tổ chức thích hợp để tiến hành một chiến dịch quy mô lớn như thế, một chiến dịch đòi hỏi phải có kế hoạch hậu cần chu đáo, có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba quân chủng và một hệ thống chỉ huy đầy đủ nhất định. Và kết luận của phái đoàn đã được chấp nhận: khi tới một quy mô nào đấy, một chiến dịch bán quân sự dù chỉ được tiến hành một cách lén lút, thì nó vẫn cần phải được đặt vào bàn tay của Lầu Năm góc, trong đó vai trò của C.I.A. chỉ hạn chế trong việc giúp đỡ nó trong những lĩnh vực cụ thể mà kinh nghiệm của C.I.A. tỏ ra hữu ích.
Thế mà những chương trình bán quân sự của C.I.A. ở Việt Nam trên thực tế là đã đạt tới một quy mô nào đấy vào giữa 1963. Nhờ chương trình vũ trang cho những thôn ấp, ba mươi nghìn vũ khí đã được phân phát khắp đất nước và bốn trăm năm mươi binh sĩ trong lực lượng đặc biệt Mỹ đã được phối thuộc cho C.I.A. để giúp vào việc huấn luyện cho các lực lượng bảo vệ xóm làng. Các chương trình khác của C.I.A, như giúp Cẩn xây dựng đội quân “áo đen” ở miền Trung, tổ chức các đội thám báo miền núi và đưa người thâm nhập miền Bắc, đều được các nhà lãnh đạo Việt Nam quan tâm và đòi hỏi sự trợ giúp, tuy khiêm tốn, nhưng có ích của C.I.A. trong các mặt tổ chức các trại huấn luyện, giúp máy bay chuyên dụng và cung cấp các phương tiện hậu cần.
Thậm chí nếu gần hết các chương trình ấy đều được vận hành trôi chảy, thì tính chất bí mật cố hữu của C.I.A. vẫn làm cho kết quả của các chương trình ấy không được ai biết tới, nếu không thì may ra chỉ có mấy quan chức cao cấp Mỹ và Việt Nam biết. Một số người khác lại cho rằng các chương trình của C.I.A. đã gây chồng chéo cho việc chỉ huy và các tổ chức tại chỗ, xà xẻo vào kinh phí và làm lạc hướng sự quan tâm mà lẽ ra người ta phải dành cho những chương trình dân sự và quân sự tầm cỡ lớn hơn. Ngay cả trong nội bộ C.I.A., khá nhiều người còn lo ngại rằng thật nguy hiểm cho C.I.A. nếu họ cứ dựa vào các hoạt động có thể gây tranh cãi. Một minh chứng nổi bật cho những rủi ro mà C.I.A. gặp phải (và bài học này không trừ một ai), đó là việc Diệm, Nhu sử dụng Lực lượng đặc biệt Việt Nam trong cuộc tấn công vào các chùa chiền hồi tháng Tám năm 1963. Thế mà Lực lượng đặc biệt này lại do C.I.A. tổ chức và huấn luyện, cùng song song với quân đội chính quy Nam Việt Nam.
Vậy là một trong những nhiệm vụ quản lý của tôi giữa năm 1963 là đàm phán với các quan chức Lầu Năm góc về chiến dịch Switchback, qua đó những chiến dịch bán quân sự của C.I.A. ở Việt Nam phải được đặt dưới sự điều khiển của Lầu Năm góc. Trong quá trình đàm phán, người ta mới thấy rõ ràng việc chuyển giao không đơn giản như người ta tưởng. Đương nhiên những con đường trực tiếp và không chính thức mà C.I.A dùng để đưa được tiền nong, vũ khí, phương tiện tới nơi người ta cần là không thể áp dụng được cho quân đội. Các thủ tục Lầu Năm góc đặt ra là để chuyển những món hàng cần thiết đó cho chính phủ Việt Nam, hy vọng là nó sẽ đến đúng địa chỉ họ cần. Nhưng về điểm ấy, người ta thường phải hạ bớt yêu cầu. Cuối cùng để được việc, chúng tôi đành có sự dàn xếp là người ta tiếp tục sử dụng những đường dây của C.I.A. để phân phát cho những người lính đang làm nhiệm vụ những thứ cần cho chương trình, trong khi quân đội thì kiểm soát một cách có hiệu lực ngân sách và các chương trình và báo cáo trực tiếp với Washington.
C.I.A. cũng đã từng có những kinh nghiệm về việc này mà quân đội có thể vận dụng được. Nhưng khi C.I.A. đề nghị cử nhân viên của mình để giúp cho quân đội về việc chuyển giao, thì tuy bên quân đội lịch sự nhận lời đấy, song rồi họ lại phớt lờ đi, bởi vì sự giúp đỡ ấy của C.I.A. không phù hợp với những chương trình đầy tham vọng mà bên quân đội có trong đầu. Điều này đặc biệt thích hợp với những chiến dịch chống Bắc Việt Nam. Như tôi đã nói trước đây, nếu việc nhảy dù và đổ bộ nhân viên của chúng tôi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tỏ ra có hiệu quả ở chiến trường Châu Âu và Châu Á, là nơi nhân dân tích cực tham gia kháng chiến chống quân chiếm đóng (trong trường hợp của tôi là ở Pháp và Nauy), thì ở Bắc Việt Nam, nơi cộng sản hoàn toàn kiểm soát được dân chúng, những hoạt động đó lại không thể tiến hành trôi chảy.
Vì vậy trong một cuộc thảo luận về chiến lược họp ở Honolulu để bàn về những biện pháp chống Bắc Việt Nam và về cách thức mà Switchback có thể đưa được nỗ lực đó lên một tầm cỡ mới tôi đã đứng dậy và phát biểu thẳng với bộ trưởng Mc Namara và các chỉ huy quân sự cùng dự: “Rất đơn giản là việc đó không ổn, thưa ngài bộ trưởng”. Rồi tôi nói thêm rằng các chiến dịch bí mật có tác dụng tốt nhất để chống Bắc Việt Nam là phải thuộc loại có tính chất tâm lí - truyền đơn, tin tức qua rađio và các thủ đoạn tuyên truyền khác - chứ không phải là tiến hành bằng các điệp viên và thuốc nổ. Trong lúc mà người ta đang ra sức tìm cách để “làm cho Bắc Việt Nam những gì mà họ đã làm đối với chúng tôi ở miền Nam” thì đề nghị của tôi quả là không được hoan nghênh và Mc Namara đã bỏ qua nó không trả lời. Tuy nhiên, hoạt động chiến tranh tâm lí tôi đề nghị vẫn được đưa vào chương trình nhưng giao cho C.I.A., còn phần lớn chương trình là dành cho việc thả người xuống phá hoại miền Bắc.
Hiệu quả chủ yếu của chiến dịch Switchback chỉ được thể hiện sau này. Chiến lược cơ bản của những chương trình bán quân sự của C.I.A. ở Nam Việt Nam là củng cố các cộng đồng nông thôn, bắt đầu từ cơ sở bằng vũ trang cho dân các làng để họ có thể tự phòng thủ và dần dần mở rộng vùng an ninh theo như lý thuyết “Vết dầu loang” của Lyautey. Trong những chương trình ấy, dân làng có vũ khí trong tay và có đủ chiến đấu viên thường xuyên làm nhiệm vụ để khi có tấn công của Việt cộng là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ xóm làng, nhưng tính chất và biện pháp chiến đấu của họ là phòng thủ chứ không phải tấn công, là chính trị chứ không phải quân sự. Mục tiêu là gắn kết dân làng vào một nỗ lực chung để tự bảo vệ, chứ không phải để tiêu diệt địch.
Các Lực lượng đặc biệt của quân đội rất hiểu quan niệm này trong khi họ làm việc dưới sự chỉ đạo của C.I.A. và đã áp dụng nó một cách tinh tế và sáng tạo. Vào tháng sau ngày 1 tháng Mười một, ngày bắt đầu chiến dịch Svritchback, chiến lược này có sự điều chỉnh. Vì những lý lẽ mà tôi không biết và đến giờ tôi vẫn không biết, từ “công dân” được thay bằng từ “dân sự” trong cách gọi trước đây là “Đội phòng thủ song hành của các công dân”1. Điều đó có lẽ phản ánh ý tưởng cho rằng, trong ý thức của quân đội, vì những lực lượng này không phải là quân sự, cho nên nó tất phải là dân sự. Điều rõ ràng hơn nữa là trong cách xác định nhiệm vụ: từ nay các lực lượng này sẽ có nhiệm vụ tiến hành các “hoạt động tấn công của du kích”. Chương trình vũ trang cho dân các làng vào loại tin cậy nhất theo chiến thuật “vết dầu loang” bị bỏ, và người ta cũng thu lại nốt số vũ khí mà chúng tôi đã phân phát cho những đội dân vệ được chúng tôi huấn luyện để tự bảo vệ. Những đơn vị chiến đấu chúng tôi tổ chức để tăng cường cho các làng bị uy hiếp thì nay cũng bị điều đi đóng ở các đồn hẻo lánh xa xôi ở dọc biên giới với Lào và Campuchia, và ở đó người ta giao cho họ làm nhiệm vụ tuần tra lùng sục, phục kích, tấn công quân Bắc Việt xâm nhập vùng rừng núi. Đương nhiên đó là một nhiệm vụ quân sự, nhưng nó lại để bỏ trống các làng không ai bảo vệ trước chiến lược chiến tranh nhân dân của cộng sản. Có vẻ như chúng tôi đã quyết định đánh theo cách đánh của mình, chứ không đánh theo cách đánh của kẻ địch.
Trong bối cảnh ấy, hội đồng các tướng lĩnh lại phải đương đầu với một vấn đề khác. Trong suốt mùa hè và thu 1963, cộng sản đã tập trung nỗ lực vào đánh phá và làm mất tác dụng chương trình ấp chiến lược của Nhu. Họ đã thấy ở đấy nguy cơ to lớn cho chiến lược lật đổ của họ. Nhưng họ cũng hoàn toàn phát hiện được những điểm yếu của nó trong khâu thực hiện, vì thấy Nhu muốn xúc tiến nhanh nên để lấy lòng chủ, nhiều viên chức địa phương đã vội vã xây dựng ấp một cách hình thức, trong khi lẽ ra nó phải được xây dựng một cách từ từ nhưng vững chắc. Qua báo cáo của một cuộc điều tra được tiến hành độc lập, chúng tôi biết rằng, Diệm, Nhu đã ý thức được khuyết điểm đó và trong lúc trò chuyện với tôi và Richardson, Diệm, Nhu đã cay đắng phàn nàn về điều đó. Họ đã muốn sửa chữa lỗi lầm, nhưng phải làm dần dần, vì Nhu cho rằng điều quan trọng lúc này là phải giữ được tính năng động của chương trình chiến lược, chứ không phải là quay ra hoàn thiện nó một cách chi tiết.
Khi nổ ra cuộc khủng hoảng Phật giáo và quan hệ với Mỹ trở nên căng thẳng, Diệm, Nhu đã không thể chú ý được nữa đến chương trình ấp chiến lược. Sự bất lực trong giám sát của cấp trên, những cái yếu của chương trình và của những người thực hiện và việc cộng sản tăng cường đánh phá đã làm cho chương trình bị đình trệ trong thời gian mùa hè và thu 1963.
Tuy nhiên, cộng sản cũng không sẵn sàng để tận dụng thời cơ của việc lật đổ Diệm. Nhiều người trong họ không tin là Mỹ lại có thể bỏ rơi Diệm, một kẻ chống cộng quyết liệt nhất. Thậm chí Chủ tịch Mặt trận giải phóng Nguyễn Hữu Thọ còn nói đây là một “quà tặng trời cho”. Thiếu chuẩn bị sẵn sàng cho một cơ hội không thể ngờ tới, sửng sốt và hoài nghi, họ đã không nắm được thời cơ để đánh một đòn quyết định.
Nhưng trái lại, điều mà cộng sản không biết làm, thì chính chính phủ mới lại đứng ra làm cho họ. Chương trình ấp chiến lược là một biểu tượng nổi bật của chế độ Diệm - đặc biệt là vai trò của Nhu - cho nên việc “kết án” nó tất nhiên là một bằng chứng rõ rệt có tính nghi thức để thể hiện “thiện chí cách mạng” của các tướng mới lên cầm quyền. Trong khi thảo luận với các nhà lãnh đạo mới tôi đã cố gắng thuyết phục họ là nên ủng hộ các chương trình địa phương của C.I.A., trong khi tôi vẫn chú ý nêu những điểm đồng nhất giữa chúng tôi với họ về vai trò của ấp chiến lược. Nhưng các tướng lĩnh chẳng mấy quan tâm đến các chương trình địa phương mà họ chỉ chăm chăm ngó vào những chỗ yếu và những điều dối trá trong chương trình ấp chiến lược. Với quyết định xoá bỏ bộ máy đã nuôi sống nó, chương trình ấp chiến lược đã biến mất khỏi nông thôn.
Kết quả của quyết định xoá bỏ ấy, cộng với tác động của chiến dịch Switchback, là bỏ ngỏ nông thôn cho cộng sản kèm theo các hoạt động quân sự của họ. Khi họ đã nhận thức được rõ sự sụp đổ của Diệm cùng với sự tê liệt và mất ổn định mà nó kéo theo, họ bắt đầu tập trung nỗ lực vào khai thác tình hình đó. Cứ nhìn vào số vụ tấn công của cộng sản vào người và các cơ sở của chính quyền, sự gia tăng của quân đội cộng sản nhờ từ miền Bắc đưa vào hay tuyển mộ tại chỗ và sự cô lập của nhiều vùng rộng lớn ở nông thôn, là người ta thấy rõ cộng sản đã lợi dụng sự rối loạn và tình hình mới ở Sài Gòn để tích cực khai thác nó thế nào.
Cố gắng tìm hiểu tình hình mới này, tôi mời một trong những nhà sư xuất sắc nhất ở Sài Gòn tới dùng trà. Ông ta tới trong bộ cà sa vàng rực, đi một chiếc xe hòm bóng nhoáng ghế đệm phủ vải trắng tinh, y hệt như xe của một bộ trưởng thời Diệm. Chúng tói có một buổi nói chuyện kéo dài và dễ chịu, trong đó tôi cố khêu gợi để ông giải thích rõ những mục tiêu mà ông theo đuổi để góp phần làm cho đất nước Việt Nam phát triển, và đồng thời tìm hiểu tính chất những mối quan hệ của ông với các tướng lĩnh đang cầm quyền. Tôi gắng sức một cách dũng cảm để san lấp cái hố ngăn cách giữa sự huyền bí phương Đông của ông với tính thực dụng phương Tây của tôi, bằng cách vận dụng tất cả số vốn kiến thức mà tôi có được về thuyết giáo đạo Phật cùng những chi phái của nó. Nhưng tất cả đều vô ích.
Chúng tôi chia tay nhau với đủ mọi kiểu cách thể hiện sự tôn kính và hữu nghị đối với nhau. Rồi tôi nhận thấy tôi chẳng có gì để mà ghi chép về cuộc trò chuyện của chúng tôi. Không những tôi không hiểu những gì ông ta nói mà tôi có cảm giác là chính ông ta, ông cũng chẳng hiểu mình muốn nói gì nốt. Ông chỉ phát biểu một lô những câu không đầu không cuối, những câu theo công thức định sẵn nói về tầm quan trọng của Phật giáo và về sự thiện tâm thiện ý.
Vừa trở về Washington được không lâu sau chuyến đi điều tra về những hậu quả của cuộc đảo chính ở Sài Gòn, thì cú sốc thứ hai của tháng Mười một định mệnh ấy giáng vào tôi như một roi quất ngang người. Từ một chiếc đài bán dẫn nhỏ của C.I.A. ở tổng hành dinh ở Langley, tôi nhận được tin về vụ ám sát phi lý tổng thống Kennedy (Chớp lấy cơ hội này bằng một giọng gay gắt, bà vợ goá của Nhu đã lập tức tuyên bố rằng đó đúng là chuyện “trời quả báo” tổng thống Mỹ về cái chết của người anh và người chồng của bà ta, một lời tuyên bố mà chắc chắn là nó chẳng có lợi gì cho vấn đề của Việt Nam ở Mỹ).
Nhận được tin, tôi thổ lộ với Bob Myers rằng sự ra đi của Kennedy, mà sự có mặt có tính khích lệ của ông đã làm say lòng toàn thế giới, sẽ có những tác động ghê gớm. Sẽ chẳng còn gì của những hy vọng mà ông đã dấy lên, của sức mạnh trẻ trung mà ông đã đưa ra để mang đến một thế giới tự do và tốt đẹp hơn. Những trở ngại mà ông đã lôi kéo chúng tôi vượt qua giờ có vẻ sẽ lớn hơn và đầy hiểm nguy hơn. Thậm chí nếu có bị phân tâm giữa hai phe các cố vấn của mình, ông có bị chao đảo trong chính sách đối với Việt Nam, tôi tin chắc rằng ông sẽ rất nhạy cảm đối với những khía cạnh chính trị của cuộc chiến do cộng sản tiến hành và cuối cùng ông sẽ tìm ra một chiến lược của Mỹ có thể đương đầu với nó. Tôi cũng nghĩ rằng, nếu còn ông, ông sẽ không để cho sự can thiệp của chúng tôi đối với Việt Nam sẽ biến thành một cuộc chiến tranh quân sự khổng lồ như sau này chúng ta sẽ thấy.
Sự ra đi kế tiếp sát nhau của Diệm và Kennedy đã vạch ra con đường cho các năm tới. Nếu Diệm không bị lật đổ, ông ta sẽ hướng nỗ lực của mình vào chương trình ấp chiến lược và sẽ kiên quyết đương đầu với mọi âm mưu của Phật giáo chống lại ông ta. Theo ý tôi, có năm mươi phần trăm vận may là ông sẽ khắc phục được những cái yếu của chương trình để qua đó kiểm soát lại được tình hình nông thôn. Điều đó sẽ cho phép ông kìm cuộc chiến tranh ở mức độ du kích trong vài năm với sự giúp đỡ của quân đội Mỹ mà không phải đòi hỏi tới mức độ tham gia ồ ạt. Nếu Kennedy không bị ám sát, ông ta sẽ có thể thắng trong cuộc chiến tranh mà vẫn hạn chế được vai trò của người Mỹ trong phạm vi ủng hộ và hỗ trợ, không cần phải đổ quân ào ạt vào Nam Việt Nam (Kennedy đã thổ lộ với nhiều người thân tín của mình là ông mong muốn ngăn cản chúng tôi tham gia hơn nữa vào Việt Nam, và thậm chí ông còn muốn chúng tôi rút chân ra). Và nếu chẳng may thất bại, thì thất bại đó sẽ là của Việt Nam, chứ không phải của Mỹ.
Ở Sài Gòn, kế tiếp Diệm là một hội đồng tướng lĩnh và một sự hỗn độn. Còn ở Washington, theo đúng hiến pháp,Lyndon B. Johnson lên thay Kennedy. Nhiều nhà sử học đã có lý khi coi Johnson là một gương mặt bi thảm hơn là một kẻ ác ý. Niềm tin cá nhân của ông đã sản sinh ra Xã hội lớn và khiến ông đi theo một chính sách giúp đỡ những người chẳng may, như luật năm 1964 về những quyền công dân (một giai đoạn quyết định trong quá trình sửa chữa những sự phân biệt không thể chấp nhận được đối với đồng bào da đen chúng tôi) và theo đuổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam như chúng ta đã biết.
Trong những cuộc tranh luận trước đây ở Nhà Trắng bàn về đường lối, Lyndon Johnson đã công khai ủng hộ Diệm, cho rằng chúng tôi không nên nhào nặn Diệm theo khuôn mẫu của một nhà lãnh đạo dân chủ tân tiến như quan niệm của chúng tôi. Johnson đã đi tới kết luận này khi ông tới thăm Sài Gòn năm 1961 theo cách nói cường điệu quen thuộc của ông, ông đã ví Diệm như một Winston Churchill Châu Á đứng vững trên mặt trận chống cộng. Linh tính và cảm quan chính trị của ông đã mách bảo ông rằng có Diệm nắm quyền, ông ta sẽ biết cách xoay xở tốt và ông ta cần đến sự giúp đỡ chứ không phải là những lời chỉ trích của chúng tôi. Trong những cuộc họp mùa hè năm 1963 của Hội đồng An ninh quốc gia, Johnson giữ thái độ dè dặt, một thái độ thích hợp với cương vị của một phó tổng thống trong khi Kennedy chủ trì cuộc họp đang phải vật lộn với những ý kiến trái ngược nhau của các cố vấn của mình. Tuy nhiên, những nhận xét chua cay thỉnh thoảng Johnson thốt ra cũng đủ để mọi người hiểu rõ là ông thấy công việc mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã chẳng ra làm sao.
Bây giờ Diệm đã không còn nữa và công việc là ở tay ông, tuy nhiên ông đã không thể được chơi con bài mà trước đây ông ưa thích. Trong bối cảnh đặc biệt ấy, những tính cách khác của ông được lộ rõ: đó là sự kiên trì và lòng quyết tâm có tính huyền thoại của dân Texas, và tài điều khiển khéo léo rất có ích cho ông khi ông còn cầm đầu phe đa số của “triều đình các ông vua con”, tức thượng viện Hoa Kỳ. Quan tâm tập họp lại một đất nước bị tổn thương, ông cố gắng giữ một sự tiếp nối với vị tổng thống vừa quá cố bằng cách vẫn sử dụng kíp cố vấn cũ của ông ta - Mc Namara, Rusk, Bundy, Mc Cone và cả các phụ tá ngày trước của họ. Tuy nhiên ông gạt Roger Hilsman, người mà ông cho là đã tiến hành chiến dịch chống Diệm, nhưng dù sao thì bây giờ việc ấy cũng chẳng làm thay đổi được điều gì. Nếu ông đã phạm phải một sai lầm khi vẫn giữ lại bên mình cái êkíp cũ ấy của người tiền nhiệm thì không phải là họ thiếu khả năng hay phẩm chất cá nhân mà đơn giản là bằng việc làm ấy, ông muốn làm giảm nhẹ tác động của quyền lực cá nhân ông và khuyến khích chính phủ tiếp tục có một sự tiếp cận đối với vấn đề Nam Việt Nam, là một vấn đề rõ ràng đang có nhiều điểm yếu. Người ta có thể thấy rằng sự lựa chọn những người cộng sự ấy của ông đã phản ánh cách nhìn chính trị và tính đơn giản Texas của ông hơn là đầu óc mang nhiều tính trí thức của phe nhóm Kennedy.
Từ cuối tháng Một năm 1964, mọi người đều thấy rõ là hội đồng các tướng lĩnh đã thất bại. Bằng các cuộc tấn công ngày càng gia tăng, cộng sản mở rộng sự kiểm soát của họ ra khắp vùng nông thôn. Hội đồng các tướng lĩnh chẳng những không có một chiến lược nào mà họ còn không có khả năng đưa ra một quyết định bất kỳ. Họ thảo luận, tranh cãi với nhau hàng giờ, hàng buổi, rồi sau đó lại gác cuộc họp lại mà chẳng đưa ra được một chỉ thị nào cho cấp dưới. Chính trong tình hình ấy mà lời tiên đoán của tôi trở thành hiện thực: tướng Nguyễn Khánh, Tổng Tham mưu trưởng của Diệm hồi đang có âm mưu đảo chính năm 1960, leo lên nắm chính quyền. Khánh bất ngờ bắt giữ các tướng, đưa lên giam lỏng trên Đà Lạt rồi đứng ra làm thủ tướng.
Nhưng Khánh nhanh chóng tỏ ra bất lực, chẳng những không động viên được nỗ lực chung, mà còn không đủ sức đương đầu với các lực lượng được giải phóng sau khi Diệm đổ. Đất nước suy sụp trong gần ba năm của những cuộc rối loạn chính trị và nội chiến. Sở dĩ Khánh đảo chính thành công là do các tướng lĩnh tin rằng cái hội đồng tướng lĩnh đầu tiên không có khả năng lãnh đạo đất nước, trong khi Khánh có vẻ như làm được. Nhưng Khánh vốn là người thân cận với Diệm và với người cộng sự chính của Diệm là tướng Trần Thiện Khiêm, nên giới Phật giáo rất lo sợ về sự quay trở lại của một chế độ Diệm mà không có Diệm. Họ tung ra một loạt các vụ gây rối. Người của họ và sinh viên tấn công mọi biểu hiện quyền lực của chính quyền mà không đưa ra được một biện pháp tích cực nào có khả năng giúp cho đất nước vượt được ra khỏi ngõ cụt.
Mới đầu, Khánh cố đấu tranh chống lại chủ nghĩa trung lập, một thứ chủ nghĩa do người Pháp mớm, và thuyết phục quân đội tiếp tục cuộc chiến chống cộng. Trước các cuộc tấn công của Phật giáo, ông tỏ ra mềm dẻo và cố gắng tranh thủ họ bằng cách chấp nhận một số yêu cầu của họ. Nhưng tất cả đều vô ích. Tuy nhiên Khánh có vẻ cho rằng giải pháp đó dù sao cũng tốt hơn chính sách đàn áp thẳng cánh trước đây của Diệm. Bởi nói cho cùng, chính sách mà Diệm lựa chọn đã làm người Mỹ phật ý, và chính vì lẽ đó - ít ra đó cũng là cách xem xét của người Việt Nam - mà người Mỹ phản ứng lại bằng cách lật đổ Diệm.
Nhưng Khánh không biết rằng, những người Mỹ mà Khánh làm việc bây giờ đã không còn là những người Mỹ thời Kennedy. Tân đại sứ Johnson cử sang Việt Nau không phải ai khác, mà chính là tướng Maxwell D. Taylo. Cả Johnson và Taylor đều không có thiện cảm với giới Phật giáo, những người mà giờ đây gần như toàn bộ ngươi Mỹ đều coi là khó hiểu và đầy ác cảm. Mối lo ngại chính của Johnson và Taylor là tình trạng vô chính phủ đang ngự trị ở Sài Gòn mà lẽ ra một chính phủ biết làm việc (có lẽ như Diệm) đã có thể chấm dứt. Taylor gần như không buồn giấu giếm sự khinh miệt của mình đối với Khánh, người mà ông coi là phải chịu trách nhiệm về tình trạng hỗn loạn của Sài Gòn và chê trách là Khánh đã không biết làm gì để tạm ổn định được trật tự cho đô thành và thúc đẩy nỗ lực chiến tranh.
Taylor thử dùng ảnh hưởng của mình để tạo cho chính quyền Sài Gòn một cái gì đấy có vẻ là chính đáng, là hợp pháp. Nhưng buồn thay, kế tiếp nhau lên làm thủ tướng là một loạt các chính trị gia, người này lo hất cẳng người kia để leo lên đứng đầu cái gọi là “chính phủ”, mà chỗ dựa duy nhất của họ là ý muốn của người Mỹ được thấy họ ngồi vào cái ghế đó. Khi các tướng, những người còn nắm được chút quyền còn lại của chính quyền ở Nam Việt Nam, định đứng ra thế chân họ thì người Mỹ đã tập họp họ lại và xát xà phòng cho một trận. Trong một buổi họp như thế, Taylor mạnh tay đến nỗi mà sau đó nhiều tướng đã phàn nàn rằng ông ta đối xử với họ chẳng khác gì như đối với các viên cai đội. Mà có lẽ Tayor đã coi họ như thế thật.
Khánh cũng phải chống đỡ với hai âm mưu đảo chính của người công giáo. Lần thứ nhất là của đại tá Phạm Ngọc Thảo, viên tỉnh trưởng bất hạnh của tỉnh Kiến Hoà ở đồng bằng Cửu Long, người đã cùng Trần Kim Tuyến mưu phản Diệm năm 1963. Tháng Hai năm 1965, Thảo định làm một cuộc đảo chính nữa nhưng thất bại. Buộc phải chạy trốn, Thảo đã bị bắt và hành quyết. Sau cái chết của Thảo, có một tấm màn bí ẩn bao phủ con người ông. Có tin đồn ông là người của cộng sản và hoạt động cho cộng sản. Nhưng thực ra ông là một người công giáo ngoan đạo, ôm ấp những ý đồ đấu tranh cho một Việt Nam quốc gia, đấu tranh chống Diệm và các tướng quân đội kế tiếp, chứ không phải làm việc cho cộng sản.
Nguồn chính tạo nên tình trạng hỗn loạn ở thời kỳ này là sự hồi sinh của nhiều đảng phái chính trị và sự nổi lên - trong một vài trường hợp là sự tái hiện - của nhiều chính trị gia dân sự. Một số đã từng phục vụ chế độ thuộc địa Pháp, có một số lại từng là thành viên của Việt Minh nhưng không nhất thiết phải là cộng sản. Một vài người năm 1960 đã tham gia nhóm Caravelle đối lập với chế độ Diệm. Cái “uy tín” chính trị của họ là chống Diệm nhưng lẽ ra phải đoàn kết trong chế độ mới thì họ lại đối đầu với nhau và chia rẽ thành nhiều phe có tham vọng khác nhau và đòi hỏi trái ngược nhau. Tất cả họ đều là những người thích làm chính trị, họ tham gia mưu phản một cách rất nhiệt tình và họ có thể bàn luận hàng buổi về cách đưa lên sân khấu chính trị một thứ “đạo đức học”. Một số người còn khẳng định họ có thể trông cậy vào sự ủng hộ của dân chúng, nhưng vì thiếu một cơ quan thăm dò, nên họ không thể đo đếm được một cách khách quan để biết được lực lượng cũng như sự ủng hộ đó tới mức nào (!) Đại sứ quán Mỹ và cơ quan C.I.A. thường xuyên cảm thấy khó khăn trong việc dung hoà được những tham vọng tham gia chính trị với thiếu hụt thực tế của họ về cơ sở và ủng hộ chính trị. Điều duy nhất hiển nhiên đối với họ là họ chẳng có tý chút quyền lực nào hết.
Chú thích
1. Bản tiếng Pháp là “Groupes de défense parallèle de citoyens” (N.D).
Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ - William Colby Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ