Số lần đọc/download: 222 / 15
Cập nhật: 2020-01-25 21:17:45 +0700
Ta Chưa Từng Thấy Thanh Gươm Nào Đáng Sợ Hơn Trong Lâu Đài Của Ta
D
ỂN MỘT LÚC NÀO ĐÓ, có lẽ tôi sẽ quên được điều này. Đến một lúc nào đó có lẽ tôi sẽ thôi hồi tưởng về Nam tước Kato. Tôi sẽ quên bộ mặt khủng khiếp của hắn, con mắt khủng khiếp của hắn, và Bộ Vuốt Sắt khủng khiếp của hắn. Tôi mong đến ngày đó, ngày mà tôi sẽ không còn nhớ đến hắn nữa. Khi ấy tôi cũng có thể quên đi căn phòng rùng rợn của hắn.
Nam tước Kato có một căn phòng trong tòa lâu đài, không khí đầy vẻ ma quái. Vì đó là nơi hắn ngày đêm ngồi vạch ra những mưu đồ hiểm ác. Ngày đêm, ngày đêm hắn ngồi đó bày mưu tính kế. Không khí đầy ma quái, không ai có thể thở được trong căn phòng của hắn. Tội ác ồ ạt tràn ra ngoài, giết chết mọi thứ tuyệt diệu và sống động ở xung quanh, làm khô héo cả những chiếc lá xanh, cả hoa tươi lẫn cỏ mềm. Nó trải ra thành một một bức màn ma quái che phủ mặt trời, vì thế không còn ngày mà chỉ có đêm, hay một thứ gì đó giống như đêm đen. Và chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ô cửa sổ trong tòa lâu đài trên mặt nước Hồ Chết sáng lóe lên như con mắt quỷ. Sự ác hiểm của Nam tước Kato chiếu rực ra bên ngoài qua cửa sổ như thế đó khi hắn ngồi suy tính những kế hoạch xấu xa ròng rã đêm ngày.
Tôi bị đưa vào chính căn phòng này. Nam tước Kato đã tóm được tôi khi tôi phải dùng cả hai tay để leo lên và không thể sử dụng thanh gươm của mình. Bọn lính canh đen ngòm của hắn lôi tôi vào giữa phòng. Pompoo đã đứng ở đó. Nó tái xanh và yếu ớt, nó thì thào, "Mio ơi, thế là hết."
Nam tước Kato bước vào, chúng tôi run lên trước vẻ hung ác của hắn. Hắn lặng thinh nhìn chúng tôi trừng trừng bằng đôi mắt rắn hung hiểm. Rồi vẻ hung ác của hắn lướt qua chúng tôi như một dòng sông băng giá, vẻ hung ác của hắn lan khắp cơ thể chúng tôi như ngọn lửa bùng bùng cháy, rồi nó lan đến mặt và tay chúng tôi, làm mắt chúng tôi đau buốt, rồi nó tràn xuống phổi khiến chúng tôi nghẹt thở. Tôi cảm thấy sự hung ác của hắn choán ngập con người tôi khiến tôi mệt mỏi và không còn đủ sức để nâng thanh gươm lên dù có cố gáng đến mấy. Bọn lính canh đưa thanh gươm của tôi cho Nam tước Kato. Hắn liếc thanh gươm và run rẩy thốt lên.
"Ta chưa bao giờ thấy thanh gươm nào đáng sợ hơn trong lâu đài của ta!"
Hắn bước lại gần cửa sổ, và đứng hồi lâu ở đó, tay nâng thanh gươm để ước lượng sức nặng.
"Ta nên làm gì với thanh gươm này?" Nam tước Kato nói. "Người tốt và kẻ vô tội không chết dưới thanh gươm này. Ta nên làm gì với nó?"
Hắn nhìn tôi bằng cặp mắt hung ác và hiểu rằng tôi khao khát giành lại thanh gươm của mình đến chừng nào.
"Ta sẽ nhấn chìm thanh gươm này dưới Hồ Chết," Nam tước Kato nói. "Ta sẽ nhấn chìm nó xuống nơi sâu nhất dưới đấy Hồ Chết, vì ta chưa bao giờ thấy thanh gươm nào đáng sợ hơn trong lâu đài của ta."
Hắn nhấc thanh gươm lên rồi ném vèo nó ra ngoài cửa sổ. Tôi trông thấy thanh gươm xoay tròn trong không khí và đau nhói trong lòng, ông Thợ Rèn Gươm đã rèn thanh gươm chém đá này hàng nghìn, hàng nghìn năm. Mọi người đã đợi hàng nghìn, hàng nghìn năm, hy vọng tôi sẽ đánh bại Nam tước Kato. Thế mà bây giờ hắn lại ném thanh gươm của tôi xuống Hồ Chết. Tôi sẽ không bao giờ còn trông thấy nó nữa, và thế là hết.
Nam tước Kato đến trước mặt chúng tôi, vẻ hung ác của hắn gần như làm tôi nghẹt thở vì hắn đứng quá gần.
"Bây giờ ta nên làm gì với kẻ thù của ta?" Nam tước Kato nói. "Ta nên làm gì với kẻ thù từ nơi xa xôi đến để giết ta? Ta có thế biến chúng thành chim rồi cho chúng bay trên Hồ Chết để than khóc hàng nghìn, hàng nghìn năm." Hắn trừng trừng nhìn chúng tôi bằng cặp mắt hung ác trong khi cân nhắc số phận của chúng tôi.
"Ừ, ta có thể biến chúng thành chim," hắn nói. "Hay là ta có thể moi tim chúng ra và cho chúng trái tim bằng đá. Ta có thể biến chúng thành lũ đầy tớ bé mọn trung thành của ta, nếu ta cho chúng trái tim bằng đá."
"Ôi, ta thà làm chim còn hơn," tôi suýt quát lên với hắn. Tôi nghĩ không gì tệ hơn là có một trái tim bằng đá. Nhưng tôi không nói. Tôi biết nếu tôi xin làm chim, Nam tước Kato sẽ cho tôi một trái tim bằng đá.
Nam tước Kato nhìn chúng tôi từ đầu đến chân bằng cặp mắt hung ác của hắn.
"Hay ta có thể quẳng chúng vào tháp cho chúng chết đói," hắn nói. "Ta đã có đủ chim rồi, ta đã có đủ tôi tớ rồi. Ta nghĩ ta sẽ ném hai tên tù này vào tháp cho chúng chết đói."
Hắn cứ đi đi lại lại trong phòng, suy nghĩ đăm chiêu, mỗi ý nghĩ lại làm bầu không khí trở nên ngột ngạt ma quái hơn.
"Trong lâu đài của ta các ngươi sẽ chết đói, chỉ trong một đêm," hắn nói. "Trong lâu dài của ta, đêm rất dài, cái đói rất dữ dội, chỉ cần một đêm là các ngươi sẽ chết."
Hắn dừng lại trước mặt tôi, đặt Bộ vuốt sắt lên vai tôi.
"Ta biết là ngươi, Hoàng tử Mio," hắn nói. "Ta biết ngươi đã đến ngay khi ta thấy con ngựa bạch của ngươi. Ta ngồi đây đợi ngươi. Và ngươi đã đến. Ngươi đã tưởng rằng đêm nay sẽ là đêm giao chiến với ta."
Hắn cúi xuống rít lên trong tai tôi, "Ngươi nghĩ đêm nay sẽ giao chiên với ta, nhưng ngươi đã nhầm, Hoàng tử Mio ạ. Đêm nay sẽ là đêm chết đói của ngươi. Khi đêm tàn, trong tháp của ta chỉ còn hai bộ xương trắng nhỏ. Đó là tất cả những gì Hoàng tử Mio và kẻ tùy tùng của hắn đề lại."
Hắn nện Bộ vuốt sắt xuống chiếc bàn đá to đặt giữa căn phòng, một hàng lính canh bước vào.
"Ném chúng vào tháp!" hắn vừa nói vừa chỉ Bộ vuốt sắt về phía chúng tôi. "Ném chúng vào ngọn tháp bảy khóa! Sai bảy lính canh gác cửa, bảy mươi bảy lính canh gác các đại sảnh, cầu thang, và hành lang nối ngọn tháp với căn phòng của ta."
Hắn ngồi phịch xuống mặt bàn.
"Ta sẽ yên tâm ngồi đây vạch kế hoạch cho những hành động ma quái của mình mà không bị Hoàng tử Mio phá đám nữa. Khi đêm tàn, ta sẽ đến liếc qua bộ xương trắng nhỏ trong tháp. Vĩnh biệt, Hoàng tử Mio! Chúc ngủ ngon trong Tháp Đói của ta!"
Bọn lính canh tóm lấy Pompoo và tôi, dẫn chúng tôi qua các đại sảnh tôi ngôi tháp, nơi chúng tôi sẽ chết. Khắp nơi, trong tất cả các sảnh đường và hành lang, bọn lính canh gác nghiêm ngặt đường dẫn vào căn phòng của Nam tước Kato. Nam tước Kato, hắn sợ tôi đến thế sao, đến nỗi hắn cần đến chừng ấy lính gác ư? Phải chăng hắn sợ tôi ngay cả khi tôi không có thanh gươm, bị nhốt sau bảy lần khóa, và có bảy tên lính gác ngoài cửa?
Bọn lính canh túm chặt cánh tay chúng tôi khi chúng tôi bước tới nhà tù. Chúng tôi cứ đi, đi mãi trong tòa lâu đài khổng lồ tối tăm. Có lúc chúng tôi đi ngang một ô cửa sổ có chấn song, qua cửa sổ, chúng tôi nhìn thấy mảnh sân ở phía trong tòa lâu đài. ở giữa sân có một con ngựa bị buộc vào cột. Con ngựa đen với một con ngựa non màu đen bên cạnh. Tôi đau lòng khi thấy con ngựa. Nó khiến tôi nghĩ đến con Miramis mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa, tôi tự hỏi bọn chúng đã làm gì với nó. Có lẽ nó đã chết. Nhưng một tên lính canh lôi tay tôi thúc tôi đi tiếp, và tôi không còn thời gian để nghĩ đến con Miramis nữa.
Chúng tôi đến ngọn tháp nơi chúng tôi sẽ sống đêm cuối cùng của mình. Cánh cửa sát nặng nề mở ra, chúng tôi bị ném vào bên trong. Cánh cửa đóng lại sau lưng một tiếng rầm, rồi chúng tôi nghe tiếng bọn lính canh vặn chìa của bảy ổ khóa. Chúng tôi còn lại cô đơn trong tù, Pompoo và tôi.
Nhà tù của chúng tôi là một căn phòng hình tròn, tường đá dày. Có một lỗ nhỏ gắn song sát kiên cố, và qua chấn song chúng tôi nghe thấy tiếng lũ Chim Bị Bùa Mê than vãn trên Hồ Chết.
Chúng tôi ngồi trên sàn. Chúng tôi cảm thấy mình nhỏ bé, sợ hãi, và biết rằng chúng tôi sẽ chết trước khi đêm tàn.
"Ước gì cái chết đừng quá đau đớn," Pompoo nói. "Ước gì cái chết đừng quá đau đớn, đừng quá đau đớn, và chúng mình đừng quá nhỏ bé và cô đơn."
Chúng tôi nắm tay nhau. Nắm chặt, chúng tôi nắm chặt tay nhau trong khi ngồi trên sàn đá lạnh lẽo. Cơn đói ập đến, cái đói không như bất kể cái đói nào khác. Nó gặm nhấm chúng tôi, giằng xé chúng tôi, hút hết sinh lực trong máu chúng tôi. Chúng tôi muốn nằm lăn ra sàn, thiếp đi và không bao giờ thức dậy nữa. Nhưng chúng tôi không được ngủ, chúng tôi phải hết sức chống lại giấc ngủ. Chúng tôi cố giữ mình tỉnh táo và bắt đầu nói về Xứ sở Xa Xăm trong khi chờ chết.
Tôi nghĩ về Đức Vua cha tôi, nước mắt tôi rơi xuống, cơn đói đã làm tôi quá yếu, và nước mắt lặng lẽ chảy xuống má tôi. Pompoo cũng lặng lẽ khóc như tôi.
"Ước gì Xứ Sở Xa Xăm đừng quá xa nơi này," Pompoo thì thào. "Ước gì Đảo Đồng Xanh đừng quá xa, và chúng mình đừng quá nhỏ bé và cô đơn."
"Cậu có nhớ khi chúng mình vừa đi vừa thổi sáo trên những ngọn đồi ở Đảo Đồng Xanh không?" tôi nói. "Cậu có nhớ không, Pompoo?"
"Có, nhưng đã lâu lắm rồi," Pompoo nói.
"Mình cũng có thể thổi sáo ở đây nữa," tôi nói. "Mình có thể thổi khúc nhạc cổ xưa đó, cho đến khi nào cơn đói quật ngã mình và mình thiếp vào giấc ngủ.”
"Ừ, chúng mình lại thổi sáo nhé,” Pompoo thì thào.
Chúng tôi lấy sáo ra. Đôi tay mệt mỏi của chúng tôi không còn sức để giữ chắc cây sáo nữa, nhưng chúng tôi vẫn cất tiếng. Pompoo vừa thổi vừa nức nở, nước mắt lặng lẽ tuôn trên má nó. Có lẽ tôi cũng khóc nhiều như thế, tôi không biết nữa. Khúc nhạc xưa hay tuyệt, nhưng nghe sao mà yếu ớt, như thể nó biết chẳng bao lâu nữa nó cũng sẽ tắt lịm vậy. Mặc dù chúng tôi thổi rất khẽ, đàn Chim Bị Bùa Mê vẫn nghe thấy chúng tôi. Chúng nghe thấy những nốt nhạc yếu ớt và bay đến bên ô cửa sổ nhỏ của chúng tôi. Qua chấn song tôi thấy những con mắt nhỏ của chúng thẫn thờ, sầu muộn. Nhưng rồi đàn chim biến mất và chúng tôi không còn hơi sức để tiếp tục thổi sáo nữa.
"Bọn mình đã thổi xong lần cuối rồi,” tôi vừa nói vừa nhét cây sáo vào túi.
Có một vật gì đó trong túi, tôi thò tay vào sờ xem là gì. Đó là chiếc thìa nhỏ mà em gái Totty vẫn dùng.
Tôi ước gì đàn Chim Bị Bùa Mê trở lại để tôi cho chúng xem chiếc thìa. Có lẽ em gái của Totty sẽ nhận ra nó. Nhưng đàn Chim Bị Bùa Mê không còn ở bên ô cửa sổ nhỏ của chúng tôi nữa.
Tôi buông chiếc thìa xuống sàn vì tay tôi quá mỏi.
"Xem này, Pompoo," tôi nói. "Bọn minh có một cái thìa."
"Bọn mình có một cái thìa," Pompoo nói, "nhưng mình làm gì với cái thìa này trong khi mình không có thức ăn?"
Pompoo nằm xuống sàn rồi nhắm mắt lại. Nó không còn sức để nói thêm. Tôi cũng vô cùng mệt mỏi. Tôi thèm có cái gì đó để ăn. Bất cứ cái gì, cái gì cũng được, miễn là ăn được. Tôi thèm nhất là Bánh Hết Đói, nhưng tôi biết mình sẽ không bao giờ được ăn nó nữa. Tôi cũng khát và nhớ đến nước trong Giếng Hết Khát. Nhưng tôi biết mình sẽ không bao giờ được uống nó nữa. Không bao giờ được uống, không bao giờ được ăn nữa. Tôi nghĩ đến món cháo cô Huida cho tôi ăn mỗi buổi sáng mà tôi vẫn cho là rất tệ. Nhưng nếu bây giờ mà có thi tôi sẽ ăn món cháo đó ngay và nghĩ là nó rất ngon, ôi, tôi muốn ăn một cái gì đó... bất cứ cái gì! Dồn chút hơi tàn, tôi cầm chiếc thìa nhét vào miệng và giả vờ là mình đang ăn.
Tôi cảm thấy có điều gì kỳ diệu trong miệng mình. Có thứ gì đó ăn được ở trong chiếc thìa. Thứ gì mùi vị như Bánh Hết Đói, như nước Giếng Hết Khát. Trong thìa có bánh và nước, mùi vị của nó tuyệt vời nhất. Nó mang lại cho tôi sức khỏe, và cơn đói của tôi biến mất. Thật kỳ lạ, chiếc thìa không bao giờ vơi cạn thức ăn. Nó lại đầy ắp lên mỗi lần tôi đưa vào miệng, và tôi ăn đến khi không còn ăn thêm được nữa.
Pompoo nằm trên sàn, mắt nhám nghiền. Tôi đặt chiếc thìa vào miệng nó, và nó ăn trong giấc ngủ. Nó nằm đó, vừa nhắm mắt vừa ăn. Khi ăn xong, nó nói, "Mio ơi, tớ có một giấc mơ kỳ diệu. Giấc mơ làm cho cái chết dễ dàng hơn. Tớ mơ thấy Bánh Hết Đói."
"Không phải mơ đâu," tôi nói.
Pompoo mở mắt rồi ngồi dậy. Nó biết nó còn sống và đã hết đói. Hai đứa chúng tôi sửng sốt, gần như hài lòng với nỗi bất hạnh của mình.
"Nhưng Nam tước Kato sẽ làm gì mình khi thấy mình không bị chết đói nhỉ?" Pompoo nói.
"Cầu mong hắn đừng cho mình trái tim bằng đá," tôi nói. "Tớ sợ có trái tim bằng đá lắm. Tớ nghĩ nó sẽ cào xé trong ngực rất đau."
"Đêm chưa tàn," Pompoo nói. "Phải nhiều giờ nữa Nam tước Kato mới đến đây.
Mình cứ ngồi đây nói về Xứ sở Xa Xăm để giết thời gian vậy. Chúng mình hãy ngồi xích lại gần nhau để sưởi ấm cho nhau đi."
Trong tháp rất lạnh và chúng tôi rét cóng. Tấm áo choàng của tôi tuột xuống. Nó nằm trên sàn, tôi cầm lấy quấn quanh người. Chiếc áo choàng đã được Bà Thợ Dệt vá bằng tấm vải thần tiên.
Đúng lúc đó tôi nghe tiếng Pompoo gọi, "Mio! Mio, cậu ở đâu thế?"
"Tớ đây," tôi nói. "Bên cạnh cánh cửa."
Pompoo giơ cao ngọn nến nhỏ mà bọn lính canh đã cho chúng tôi thắp trong đêm cuối cùng của mình. Ngọn nến chiếu sáng khắp căn phòng giam, trông Pompoo có vẻ cực kỳ sợ hãi.
"Tớ không nhìn thấy cậu," Pompoo nói, "tớ biết tớ không bị mù vì tớ vẫn nhìn thấy cánh cửa có cái ổ khóa kiên cố và những thứ khác ở trong này."
Đến lúc đó tôi mới nhận ra mình mặc áo trái. Tấm vải lót thần tiên lung linh mà Bà Thợ Dệt đã cho tôi lộn ngược ra ngoài. Tôi cởi áo choàng ra để mặc lại, và Pompoo kêu to.
"Đừng làm tớ sợ như thế nữa," nó nói. "Cậu vừa trốn ở đâu thế?"
"Bây giờ cậu đã thấy tớ chưa?" tôi hỏi.
"Tất nhiên tớ thấy cậu rồi," Pompoo nói. "Cậu trốn ở đâu thế?"
"Trong tấm áo choàng," tôi nói. "Chắc Bà Thợ Dệt đã biến nó thánh Áo Choàng Tàng Hình."
Chúng tôi thử thêm vài lần. Mỗi khi mặc làn vải lót thần tiên ra phía ngoài, chiếc áo choàng của tôi đều trở thành Áo Choàng Tàng Hình.
"Mình hãy hét lên thật to," Pompoo nói. "Có thể bọn lính canh sẽ vào để xem tại sao mình hét. Khi ấy cậu có thề lẻn qua chúng. Cậu có thể lẻn ra khỏi lâu đài của Nam tước Kato trong chiếc Áo Choàng Tàng Hình và an toàn trở về Xứ sở Xa Xăm."
"Thế cậu thì sao, Pompoo?" tôi nói.
"Tớ ở lại," Pompoo đáp, giọng nó run run. "Cậu có mỗi một chiếc Áo Choàng Tàng Hình thôi mà."
"Tớ chỉ có một chiếc Áo Choàng Tàng Hình," tôi nói, "tớ cũng chỉ có một đứa bạn. Bọn mình sẽ cùng chết nếu cả hai không được giải thoát."
Pompoo quàng tay ôm lấy tôi mà nói, "Tớ muốn cậu được an toàn ở Xứ Sở Xa Xăm, nhưng tớ cũng mừng vì cậu muốn ở lại với tớ. Tớ không sao nghĩ khác được."
Nó vừa dứt lời, thì xảy ra một điều kỳ lạ. Bầy Chim Bị Bùa Mê đã trở lại. Những đôi cánh đập liên hồi kề bên ô cửa sổ của chúng tôi. Đàn chim đang nặng nhọc mang theo vật gì đó trên mỏ. Cả đàn chim xúm vào cùng nhau khiêng. Một vật rất nặng. Đó là thanh gươm. Thanh gươm chém đá của tôi.
"Ồ, Mio ơi," Pompoo nói, "Đàn Chim Bị Bùa Mê đã mang thanh gươm của cậu từ dưới đáy Hồ Chết lên kia."
Tôi lao ra cửa sổ, nôn nóng đưa tay qua chấn song để nắm lấy thanh gươm. Nó rực sáng như lửa. Nước từ thanh gươm nhỏ giọt, những giọt nước lấp lánh như lửa.
"Cảm ơn đàn chim tốt bụng," tôi nói.
Nhưng đàn chim chỉ nhìn tôi đăm đăm bằng cặp mắt thẫn thờ sầu muộn, chúng vừa kêu khóc vừa bay trở lại Hồ Chết.
"Ồ, may quá vì chúng mình đã nghĩ ra phải thổi sáo," Pompoo nói. "Nếu không đàn chim sẽ không bao giờ tìm được đường tới tháp của mình."
Tôi gẫn như không nghe thấy nó nói gì. Tôi đứng trong ngục tối, nâng thanh gươm trên tay. Thanh gươm của tôi, Gươm Lửa của tôi! Trong đời, chưa bao giờ tôi thấy mình khỏe như thế. Đầu tôi hân hoan quay cuồng. Tôi nghĩ về Đức Vua cha tôi, và biết rằng Người cũng đang nghĩ về tôi.
"Nào, Pompoo," tôi nói, "thời khác trận chiến cuối cùng của Nam tước Kato đã điểm rồi đấy."
Pompoo xanh nhợt hẳn đi, mắt nó long lanh kỳ lạ.
"Nhưng làm sao cậu mở được bảy ổ khóa?" nó nói. "Làm sao cậu qua mặt được bảy mươi bảy tên lính canh?"
"Tớ sẽ dùng gươm mở bảy ổ khóa," tôi nói. "Và dùng Áo Choàng Tàng Hình để qua mặt bảy mươi bảy tên lính canh."
Tôi khoác áo choàng lên vai. Tấm vải thần tiên lung linh trong bóng tối, nó lung linh đủ để sáng cả tòa lâu đài của Nam tước Kato. Nhưng Pompoo kêu lên, "Tớ không nhìn thấy cậu, Mio ạ, mặc dù tớ biết cậu ở đó. Tớ sẽ dợi đến khi cậu trở lại."
"Thế nhỡ tớ không bao giờ trở lại..." tôi thốt lên rồi im bặt. Làm sao tôi biết được ai sẽ chiến thắáng trong trận chiến cuối cùng của Nam tước Kato.
Căn phòng giam giữ chúng tôi chợt lặng đi. Chúng tôi không nói gì suốt một hồi lâu. Rồi Pompoo thốt lên, "Nểu cậu không bao giờ trở lại, Mio, chúng mình vẫn sẽ nghĩ về nhau. Chúng mình sẽ nghĩ về nhau thật lâu cho đến khi không còn nghĩ được nữa."
"Ừ, Pompoo," tôi nói. "Tớ sẽ nghĩ về cậu và Đức Vua cha tớ cho tới giây phút cuối cùng."
Tôi vung gươm lên. Nó chém xuyên cánh cửa sắt như chém bún. Vì đối với một thanh gươm có thể chém đá thì cánh cửa sắt dù thế nào đi nữa cũng chỉ là bùn thôi. Im lìm, không phát ra tiếng động nào, như xuyên qua bùn đất, thanh gươm của tôi xẻ toang cánh cửa sắt cứng. Rồi với hai nhát gươm như chớp lòa, tôi chém rơi những ổ khóa khổng lồ.
Tôi mở cửa. Nó kêu cót két. Bảy tên lính canh đứng gác bên ngoài đồng loạt quay về phía cánh cửa khi nó phát ra những tiếng cót két. Về phía cánh cửa, về phía tôi. Tôi đứng đó trong tấm vải thần tiên lung linh và nghĩ là ánh sáng quanh áo quá rõ nên rất có thể bọn chúng sẽ thấy tôi.
"Tao nghe tiếng cót két trong đêm," một tên lính canh nói.
"Ừ, có tiếng cót két trong đêm," một tên khác nói.
Bọn lính canh nhìn dáo dác tứ phía, nhưng không thấy tôi.
"Có thể ý nghĩ ma quái của Nam tước Kato phát ra tiếng cót két ấy," một tên lính canh khác nói.
Nhưng tôi đã đi xa. Ghì chặt thanh gươm bên dưới tấm áo choàng, tôi chạy thật nhanh đến căn phòng của Nam tước Kato.
Khắp nơi, trong các đại sảnh, cầu thang, hành lang đều nhung nhúc bọn lính canh đứng gác. Tòa lâu đài khổng lồ tối âm u, đầy nhóc bọn lính canh đen ngòm. Nhưng chúng không nhìn thấy tôi. Chúng không hề nghe thấy tôi. Còn tôi cứ chạy mãi về phía căn phòng của Nam tước Kato.
Tôi không còn sợ hãi nữa. Tôi chưa bao giờ can đảm như thế. Tôi không còn là thằng bé Mio dựng lều trong Vườn Hoa Hồng và sống trên Đảo Đồng Xanh nữa. Tôi là chàng hiệp sĩ đang sẵn sàng lâm trận. Và tôi cứ chạy mãi về phía căn phòng của Nam tước Kato.
Tôi chạy như bay. Tấm áo bằng vải thần tiên phấp phới sau lưng. Nó lung linh bay trong bóng tối thâm u. Và tôi cứ chạy mãi về phía căn phòng của Nam tước Kato.
Thanh gươm cháy lên như ngọn lửa trong tay tôi, lấp lánh rực rỡ. Tôi nắm chắc chuôi gươm. Và tôi cứ chạy mãi về phía căn phòng của Nam tước Kato.
Tôi nghĩ đến Đức Vua cha tôi. Tôi biết Người cũng đang nghĩ về tôi. Chẳng bao lâu, chẳng bao lâu nữa, trận chiến sẽ bắt đầu. Nhưng tôi không sợ. Tôi là chàng hiệp sĩ can đảm với thanh gươm trên tay. Và tôi cứ chạy mãi về phía căn phòng của Nam tước Kato.
Đầu óc tôi bừng bừng phấn khích. Tôi đã đứng trước cửa phòng Nam tước Kato đây rồi.
Tôi mở toang cửa. Nam tước Kato đang ngồi bên chiếc bàn đá, quay lưng về phía tôi. Một quầng sáng ma quái bao quanh hắn.
"Hãy quay lại đây, Nam tước Kato," tôi thét lên. "Trận chiến cuối cùng của ngươi đã đến rồi."
Hắn quay lại. Tôi ném tấm áo choàng xuống, và hiện ra trước mặt hắn, thanh gươm nắm chắc trong tay. Khuôn mặt ghê sợ của hắn xám ngoét đi và nhăn nhúm lại. Đôi mắt kinh khủng của hắn lóe lên vẻ căm hận và đe dọa. Hắn chộp nhanh lấy thanh gươm trên bàn. Thế là trận chiến cuối cùng của Nam tước Kato bắt đầu.
Thanh gươm của hắn thật đáng sợ. Nhưng làm sao sánh được với thanh gươm của tôi. Thanh guơm của tôi lấp lánh, rừng rực lửa, rạch không khí như ánh chớp lòa, chạm nhau chan chát với thanh gươm của Nam tước Kato.
Trận chiến đã được chờ đợi từ hàng nghìn năm trước kéo dài trong một giờ. Thanh Gươm Lửa của tôi bay vút qua không trung, cuối cùng đã đánh bật gươm ra khỏi tay của Nam tước Kato. Hắn đứng sừng sững trước mặt tôi, trong tay không còn vũ khí. Hắn biết trận đấu đã kết thúc.
Hắn xé toạc tấm áo choàng nhưng đen, phơi ra bộ ngực tràn. "Ngươi phải đâm thủng tim ta!" hắn rít lên. "Ngươi phải chém thẳng vào trái tim bằng đá của ta! Nó đã hận thù quá lâu và đau khổ quá nhiều rồi."
Tôi nhìn vào mắt hắn và nhận thấy một điều gì kỳ lạ. Nam tước Kato đang khao khát được giải thoát khỏi trái tim bằng đá của mình. Có lẽ không ai ghét Nam tước Kato bằng chính hắn căm ghét hắn.
Tôi không chờ đợi nữa. Tôi vung thanh gươm rực lửa lên, rồi thọc sâu vào trái tim bằng đá khủng khiếp của Nam tước Kato.
Trong chớp mắt Nam tước Kato biến mất. Hoàn toàn mất dạng. Nhưng trên sàn nhà còn lại một tảng đá. Chỉ có một tảng đá và một bộ vuốt sắt.
Trên bệ cửa sồ trong phòng của Nam tước Kato có một con chim xám nhỏ đang vùng vẫy đập cánh vào tấm kính. Nó muốn bay ra. Trước đó tôi không hề nhìn thấy con chim, không biết nó ở đâu ra. Tôi bước tôi mở cửa sổ giải thoát cho nó. Nó vừa bay vút lên không trung, vừa cất tiếng hót vui mừng. Nó đã bị giam cầm quá lâu rồi.
Tôi đúng bên cửa sổ dõi theo con chim tung cánh bay đi. Đêm đã qua và ban mai đã hửng.