Số lần đọc/download: 1845 / 41
Cập nhật: 2017-05-20 09:11:27 +0700
Khói Hương
Đ
I cỏ là một công việc ao ước trong trại giam Vụ bản. Riêng có hai anh người Thổ phụ trách công việc ấy nhưng thỉnh thoảng họ lại nhường cho bạn bè được nếm qua cái thú nên thơ.
Sáng hôm nay, lão đồn già đã phải mỉm cười nhìn Linh và Khanh, trong bộ quần áo «gôn» màu cỏ, nhẹ nhàng vác trên vai đôi lẵng tre lồng một, trong đựng hai cái liềm và một cuộn giây Iạt. Và lão nháy hỏi đùa một câu tiếng Việt:
- Đi cỏ?
Rồi lão tiếp liền một câu tiếng Pháp, như để tỏ rằng đã bằng lòng ban cho hai người cái ơn huệ ấy:
- Được! Chơi cho thỏa thích đi nhé l
Lần này là lần đầu Khanh đi cỏ, nhưng vì được anh em tả cho biết mọi chi tiết của công việc ấy nên y đã đem theo một điều kiện cần thiết: tiền mà y cẩn thận giấu vào trong tất để phòng sự lục khám bất thần của lão đồn già.
Sương còn dày đặc khi Linh và Khanh ra đi với người lính Mường. Dãy núi Hoành sơn như nổi trôi trên biển tuyết.
Bị cỏ đồi dài và sắc nhuốm ướt tất và ống quần, hai chàng đến ngồi nghỉ ở một gốc đa bên cái giếng nước suối, để hong gió cho khô. Trong khi ấy người lính Mường đến góp chuyện với mấy hàng gánh gà vịt ra chợ Trào bán.
- Hắn có nhà đấy, các thầy ạ.
Y quay ra bảo hai chàng.
- Thế à? May quá nhỉ!
Hắn là người mà chú lính «Sáu ba», sắp Çưa hai chàng đến nhà và người đàn bà báo tin kia là vợ hắn.
Vượt một cánh đồng rộng, theo ven một khu rừng rậm, leo hai quả đồi cỏ nữa, ba người mới tới làng Nghĩa. Linh thật thà hỏi:
- Phải đi xa thế này mới cắt được cỏ cho trâu ăn?
Khanh cười:
- Việc chính có là việc cắt cỏ đâu.
Và «Sáu ba» nghiêm trang tiếp, y như không cười không đùa bao giờ:
- Các thầy không phải cắt cỏ. Cả tôi cũng vậy, chỉ việc chén say rồi ngủ một giấc, chiều về thế thôi.
Làng Nghĩa, một làng chết. Lũy tre sơ sác, lèo tèo vài chục nóc nhà. Người ở lưa thưa, không một móng trẻ con nào ra đường. Khanh buồn rầu hỏi «Sáu ba»:
- Ở đây làng nào cũng tiêu điều như thế này à?
- Không đâu, thầy ạ, đây là một xóm nghèo nhất vùng này.
Linh cười:
- Tôi có cảm tưởng đến một nơi vừa có bọn cướp đi qua. Chúng vét sạch của cải và nhân dân bỏ trốn hết.
Người lính thật thà đáp.
- Không đâu, thầy ạ, trên chúng tôi không có cướp bao giờ. Còn thầy thấy vắng như thế này là vì hôm nay là ngày phiên chợ Trào, cả làng đi chợ, chiều mới về cơ mà.. Nhưng đây rồi, đến nhà hắn rồi.
Nhà hắn là một căn nhà sàn bằng gỗ, làm trên một miếng đất nhỏ hẹp; lũy tre lụi từng đám, khiến người ta có thể qua đó mà vào chứ không cần phải đi lối cổng. Cái cổng chỉ là một công trình mỹ thuật mà nhà nào hình như cũng chăm chú đến. Nó cao, d* bằng tre hay bằng gổ, và phần trên là một cái miễu con xinh xắn.
Một con chó vàng, lông dài, đuôi vòng lên lưng như cái dấu hỏi, uể oải lên tiếng sủa, có lẽ không phải để sua đuổi mà để báo cho chủ biết có khách đến chơi. Quả nhiên chủ nhân thò đầu qua cửa sổ và khi nhìn thấy ba người, y vội vả chạy ra cầu thang đón tiếp:
- Mời hai quan với bác lên chơi. Hôm nay hai quan mới đến đây?
Thì ra nơi này là nơi tụ họp hằng ngày của anh em đi cỏ.
- Hai ông lên trước đi, tôi cất các thức rồi tôi lên sau..
Các thức là ba đôi lẵng tre bé xíu và hai cái liềm đem theo để có vẻ đi cắt cỏ.
Linh và Khanh tấm tắc khen cái nhà sàn đẹp và sạch sẽ. Nó khác nhà sàn Thổ ở chổ gian bếp và gian đàn bà cách biệt, có phên liếp ngăn ra. Và nó sáng sủa hơn, vì mặt cái cửa sổ hình chữ nhật đặt ngang mở rộng ra phía Đông Nam để đón ánh mặt trời và không khí.
Trên cửa sổ, một cái chiếu hoa cạp xanh giải xuống sàn, gổ ghép xít. Trên chiếu là một cái khay thuốc phiện, với ngọn đèn dầu le lói trong cái chụp pha lê sáng bóng. Khanh thì thầm bảo Linh: «Cái anh chàng này chừng là tay ăn chơi»
Chủ nhân cười hỏi:
- Hai quan muốn làm cái này? Nhà cháu xin tiêm hầu hai quan xơi?
Linh mỉm cười:
- Cảm ơn ông. Chúng tôi xin vô phép.
Khanh tưởng nên khen một câu làm thân:
- Cái nhà của ông đẹp lắm l Bức sàn ghép toàn bằng gỗ quí.
Sáu-ba vừa lên nói vọng vào:
- Ấy từ ngày ông ta ra làm lý trưởng đấy.
Linh nói:
- Ở dưới chúng tôi cũng vậy, ai ra làm lý trưởng là cũng tốn kém hao hụt.
Chủ nhân cười;
- Bẩm hai quan, chúng tôi ở nơi sơn cước, bì thì nào được với quê quan.
Nhưng phải nghĩ đến việc chính đã. Việc chính là đưa tiền cho chủ nhà nhờ sửa soạn một bữa ăn. Khanh tháo giầy tất lấy đưa cho Sáu ba một tờ giấy năm đồng. Y giao ngay cho chủ nhà và nói:
- Này, ông làm giúp hai thầy bữa chén nhá.
Cái khách sáo phong lưu bỗng thức dậy trong người Mường. Y giơ tay ra gạt:
- Ấy! ai lại thế! Nhà cháu đã có gà, chả phải mua gì đâu mà hai thầy đưa tiền.
Cả ba người phải nói khéo mãi, y mới chịu cầm tờ giấy bạc gập nhỏ bỏ túi. Rồi chủ và khách ngồi nói chuvện chung quanh bàn đèn. «Sáu-ba» yên lặng nằm tiêm thuốc, và xong mỗi điếu y lại quay mồi Linh, Khanh và người Mường. Nhưng lần nào ba người này cũng từ chối và mời lại. Như thế y kéo luôn một lúc đến năm sáu điếu. Giữa câu chuyện gia thế của người Mưòng, Linh quay sang Sáu-ba hỏi chen một câu:
- Thì ra bác bếp cũng hương khói phụng thờ thần Phù dung đấy à?
Y không hiểu. Linh phải giảng nghĩa:
- Bác nghiện thuốc phiện à?
Y cười nhạt nhẽo:
- Không, hút chơi đấy thôi, thầy ạ, ở đây cần phải hút. Anh em chúng tôi hễ ai
không hút là thế nào rồi cũng đi tiểu ra máu mà chết.
Chủ nhà gật gù
- Bác ấy nói đúng...!..Mà lại hút nhiều cơ chứ! Với lại làm cái nghề của chúng tôi, không ăn không được cơ!
Cái nghề ấy là nghề nấu thuốc phiện lậu, một nghề không nguy hiểm như người ta tưởng tượng vì, - lời người Mường - « đã có quan Châu và các quan Lang che chở!» Y cho biết rằng quan Châu đã kịch liệt phản đối việc xông xáo vào làng bắt thuốc phiện của bọn lính thương chánh, và yêu cầu quan Tây mỗi khi đi bắt đâu phải báo cho quan Châu biết.
- Hai quan đã thấy chưa? Tây nó phải chịu nghe theo. Thế rồi mỗi khi nó định đi bắt đâu thì quan Châu lại báo cho quan Lang biết, rồi quan Lang báo ngay cho mình biết để mình giấu hàng đi. Vì thế mà sở thương chánh lập ra ở Vụ Bản phải bãi đi vì chả có việc gì nữa. Bắt đâu ra thuốc phiện mà ở mãi đấy, ăn tốn tiền lương của Tây phải không thầy?
Bốn người cùng cất tiếng cười thích chí. Rồi đến lượt Sáu ba thuật chuyện buôn bán thuốc phiện của y thưở xưa, cái nghề mà y yêu mến nhất trên đời.
- Thế sao lại ra lính?
- Ấy, vì thế này. Tây nó bắt quan Lang tuyển lính. Nhưng trên tôi chả ai muốn đi lính cả. Quan Lang liền lập mưu, làm một bữa tiệc mời những người danh vọng đến ăn. Thế rồi nó ép chúng tôi phải ra.
Chủ nhân sau một điếu thuốc phiện, nằm ngửa nhìn khói tỏa bồng bồng trước mặt, vẻ nghĩ ngợi. Bỗng y ngồi nhỏm dậy hỏi:
- À ban nãy hai quan nói cái gì khói hương phụng thờ thế nhỉ? Phụng thờ thần gì thế?
Khanh cười đáp:
- Ở Trung Châu, nghiện thuốc phiện người ta nói hoa mỹ là:khói hương phụng thờ ả Phù dung. Phù dung là thuốc phiện……(1)
- Ừ! mà mình phụng thờ có thật, hai quan ạ. Nói đến khói hương, tôi lại nhớ một lần đã khổ sở, mất ăn mất ngủ vì nó.
Và y thuật lại câu chuyện cho Linh và Khanh nghe:
Người Mường trọng sự thờ phụng tổ tiên. Và tuy mấy năm nay giá dầu quá cao, người vợ chủ nhà này cũng cố mua được thứ dầu tốt, trong trẻo, thơm tho về thấp đèn thờ. Chai dầu ấy nàng cất vào trong một rương khóa kỹ, sợ chồng lấy dùng vào ngọn đèn thuốc phiện.
Sự lo ngại của nàng quả một hôm thành sự thật. Hôm ấy, nàng đi chợ vắng, người chồng ở nhà đến cơn nghiện mà hết dầu. Hắn biết vợ có một chai dầu còn gần đầy mà nàng cất trong rương. Nhưng rương khóa, biết làm thế nào? Hắn cáu kỉnh toan lấy rìu phá rương ra để tìm chai dầu. Về sau vớì cái giây thép hắn cũng mở được khóa.
Thế là bắt đầu từ hôm ấy, hắn dùng toàn dầu cúng tổ tiên vào việc cúng ả Phù dung. Rồi hôm chai dầu gần cạn hắn đâm lo sợ nghĩ thầm: «Con mụ mà nó biết thì khổ với nó ». Hắn liền nhờ người đàn bà hàng xóm mua hộ một chai dầu cá với một giá rất rẻ, để thế vào chỗ dầu đã dùng vào đèn thuốc phiện: « dầu gì thì cũng đến đốt có ngọn là được! Can chi lại đi dùng dầu ăn thuốc để mà thắp đèn, phí quá! Đàn bà rõ lẩn thẩn quá!»
Nhưng hôm dùng đến dầu để cúng, người vợ mở nút chai, bỗng chun mũi lại kêu:
- Sao mà dầu hôi thế này?
- Hôi à? Người chồng vờ hỏi. Sao lại hôi?
- Hôi quá. Ngửi xem đây này!
Người chồng ra ngửi thử cũng chun mũi lại như vợ.
- Hôi mà lại còn tanh nữa.
- Tại sao thế nhỉ?
- Ai mà biết. Chắc mình mua phải thứ dầu xấu, nó lên men nên nó ra thế.
- Để rồi phải mắng cho lão hàng dầu mới được. Nó lại cậy nó là người Kinh nó đánh lừa dân Mường à. Để chai dầu đây, phiên chợ sau đem ra phố bắt nó đổi.
Người chồng mỉm cười giàn xếp:
- Thôi, sinh chuyện với người Kinh làm gì? Với lại dầu nào mà chả thắp được, quý hồ cháy thì thôi. Có ăn đâu mà cần thơm tho.
Người vợ chau mày, giận dỗi:
- Thế thì mất nhiều tiền mua dầu tốt làm gì. Việc thờ cúng mà hôi tanh thế này, sao được.
Người chồng cố tìm lý để tránh cho vợ một cuộc đôi co bất công với người Kinh.
- Dẫu sao cũng lỗi tại mình. Ai bảo mình nhầm. Người ta có thể đổ cho mình đem về thay dầu khác vào để bắt đền người ta cơ mà.
Nói dứt câu ấy và nghĩ đến sự thực hắn cười vui vẻ đổ dầu ra đĩa:
- Ở chai thì nó hôi, chứ rót ra đĩa cũng không đến nỗi mình ạ.
Đến đây, người Mường ngừng lại kéo hơi thuốc phiện, rồi hắn nhớn nhác nói:
- Chính cái việc ấy đã làm cho tôi khốn khổ đấy.
Khanh ngơ ngác hỏi:
- Sao vậy? Bà ấy làm ông khổ, phải không?
- Không, đâu có thế. Nhưng mà cũng được vài lần thì các Ngài không về nữa.
- Ai kia? Ai không về?
- Các Ngài. Tổ tiên ấy mà!
- Tổ tiên!Sao ông biết các Ngài không về?
- Sao lại không biết!
Hắn nhắc đi nhắc lại mãi một câu như còn đang ở dưới sức đe dọa của Tổ tiên:
- Thế mới chết chứ! Các Ngài bỏ đi biệt, thế mới chết chứ. Các Ngài không về nữa thế mới chết chứ!
Khanh và Linh cố giữ để khỏi bật cười, vì hai chàng cũng không thể tưởng tượng được người Mường kia làm thế nào mà biết rằng các Ngài không về. Muốn hỏi để biết nhưng lại sợ làm phật lòng con người tín ngưỡng.
- Thế rồi sau các Ngài có về không?
Khanh có giữ vẻ trang nghiêm hỏi lại một câu.
- Ôi giời ôi, tôi khổ sở mất một tháng, kêu cầu van lạy các Ngài mới lại chịu về. Vợ tôi thì khóc lóc mãi.
- Thế bây giờ các Ngài đi về rồi, thì hẳn ông kệch đến già không dám dùng mỡ hôi thắp đèn thờ nữa chứ?
- Vâng. Cái chỗ dầu hôi tôi đem vứt xuống suối cho chảy đi mất tích. Nhưng một đêm nguy quá hai quan ạ, tôi lại bị con ma thuốc phiện xúi dục làm càn. Các quan có tin rằng có ma thuốc phiện không? Đêm hôm ấy tôi hút mới được hai điếu thì hết dầu. Mua dầu ư? Mua ở đâu. Chẳng lẽ đương đêm mò ra phố… Mà khuya khoắt ai người ta bán cho! Tôi đương mơ màng nằm nghĩ cách làm thế nào để hút được cho đủ cơn nghiện, thì bỗng tôi chập chờn ngủ thiếp đi. Ấy chính lúc bấy giờ con ma thuốc phiện nó hiện về đấy, hai quan ạ.
- Nó hiện về? Thế hình thù nó thế nào? Khanh hỏi.
Người nghiện mắt mở to như còn đương bị ma nạt. Và hắn kể tiếp:
- Nó cao lênh khênh, đầu nó to như cái dành mà hốc hác giơ xương ra. Mắt nó sâu như hai cái hang, răng nó nhe ra. Nó giơ tay trỏ mãi vào cái rương để xui tôi đến mở mà lấy dầu. Thấy tôi làm thình nó lay tôi dậy. Tôi mở mắt ra thì nó đã biến mất. Ánh giăng chiếu xiên qua cửa sổ, gian nhà sáng rõ và tôi đăm đăm nhìn cái rương kê làm bàn thờ tổ tiên. Đã hai ba lần tôi lần ra ngắm nghía cái khóa rồi nghĩ đến các cụ tôi lại sợ hãi quay về chiếu nằm bên khay đèn tắt lửa. Nhưng động chợp mắt thì con ma lại hiện lên. Lần này nó ghé hẳn vào tai tôi nó thì thầm: « Mày sợ ông vải mày hơn sợ tao à? Mày mà để lửa thờ tao tắt lụi, thì tao bóp cổ, tao vật chết tươi bây giờ ».
Chẳng đừng được tôi phải đánh liều đi lấy cái chìa khóa giây thép mở rương lôi chai dầu ra, chiết vào phẩu đèn, đánh diêm thắp lửa. Ngọn đèn lúc bấy giờ sao mà đẹp thế, cứ sáng tươi mà trong vắt lên thôi. Tôi cằm chai dầu giơ lên xem. Còn những già một nửa. Và tôi vui vẻ nghỉ thầm: « Thế mà mình cứ lo sợ vẩn vơ. Cứ dùng rồi mai kia ra phố mua bù vào, đã sao » Hút luôn một lúc năm, sáu điếu tôi lại ngủ thiếp đi. Thì nó lại đến.
- Con Ma?
- Vâng con ma, nó lại đến. Lần này nó reo mừng nhảy múa. Rồi con nữa, rồi con nữa, một lát sau đến gần một chục con ma hiện về nắm tay nhau mà nhảy chung quanh cái bàn đèn mà hát những bài ca thuốc phiện và cười khanh khách. Mãi gà gáy sáng chúng nó mới đi và tôi mới thức dậy.
Rồi tối sau cũng thế hai quan ạ, ma nó lại về nó xúi tôi lấy dầu cúng để thắp đèn thuốc phiện. Tôi sợ hãi quá phải đánh thức vợ tôi dậy kể cho nghe câu chuyện. Vợ tôi giận tôi phát khóc lên. Và sáng hôm sau đi phố sớm mua chai dầu khác cất kỹ không cho tôi biết chỗ. Nó không biết cái ám ảnh ghê gớm của con ma thuốc phiên nên nó chỉ sợ ông vải thôi. Nó bảo lần sau mà còn đem dầu hôi rẻ tiền ra cúng các Ngài thì các Ngài đi hẳn đấy không về nữa đâu. Các Ngài đã báo cho nó biết thế.
Sợ quá! hai quan ạ! Các quan tính ông vải thì còn thương con cháu. Các Ngài giận thì các Ngài bảo thế thôi. Chứ con ma thuốc phiện thì nó thương gì mình phải không, hai quan? Không vâng theo mệnh lệnh của nó thì nó bóp chết thật đấy, hai quan ạ. Ở dây chán người làm trái ý nó, nó đưa đường cho lính đoan bắt giam, chết khô ở trong nhà pha vì không có thuốc hút cơ đấy.
Rồi hắn ta nhắc đi nhắc lại mãi một câu:
- Gớm thật con ma thuốc phiện!
Trong khi hắn kể câu chuyện thuốc phiện cho Linh và Khanh nghe thì Sáu-ba nằm ngủ kéo một giấc ngon lành. Mãi lúc con gái hắn bưng mâm lên hắn mới lay dậy. Khanh mỉm cười hỏi:
- Thế nào Sáu ba có thấy con ma thuốc phiện hiện về không?
Hình như Sáu ba đã nhiều lần được nghe câu chuyện vừa kể nên y mỉm cười hỏi chủ nhân:
- Lại chuyện con ma thuốc phiện và chai dầu hôi, phải không?
- Vâng, nó ghê gớm lắm đấy, cái con ma thuốc phiện, trêu vào nó thì cứ là chết!
Buổi chiều khi mặt trời đã khuất núi, ba người gánh ba gánh cỏ nhẹ thênh thang trở về trại giam, Khanh hỏi Sáu ba:
- Này ông Sáu ba, làm thế nào mà cái ông chủ nhà ấy biết rằng các Ngài không về?
Sáu ba ngơ ngác hỏi lại:
- Các Ngài nào thế?
- Tổ tiên ấy mà! Ông vải ấy mà!
- À! lại chuyện chai dầu hôi. Biết chứ! Xin âm dương thì biết các Ngài về hay không về chứ!
- À ra thế.
Khanh và Linh cùng cất tiếng cười vui thú.
- Thế mà mình nghĩ mãi không ra.
Từ đó thỉnh thoảng Linh và Khanh lại xin đi cắt cỏ để ăn cháo gà và nghe những câu chuyện thật thà của người bạn Mường trong làng Nghĩa.
Chú thích:
( 1) Những chỗ có ghi dấu chấm chấm là do bản thảo bị mối xông mất một dòng. Truyện này mấy năm trước, tôi đã có cho in đầy đủ trong một tờ báo mà chưa tìm lại được. (Chú thích của Nguyễn Thạch Kiên)