Số lần đọc/download: 0 / 50
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Chương 12: Luật Pháp Bắt Kịp Abdullah Và Người Lính
Luật pháp bắt kịp Abdullah và người lính
Tới buổi tối, Abdullah gần như đã quen với Nửa Đêm. Không như chó của Jamal, nó không hề có mùi, và rõ ràng nó là một mèo mẹ tuyệt vời. Nó xuống khỏi vai Abdullah chỉ để cho con bú. Nếu không phải vì thói quen đáng ngại của nó là hóa to dọa nạt khi anh làm phiền nó, Abdullah cảm thấy dần dần anh có thể chịu đựng được nó. Còn mèo con thì anh phải thừa nhận là đáng yêu thật. Nó loạng choạng nghịch đuôi bím tóc của người lính và cố đuổi theo bươm bướm khi họ dừng lại ăn trưa. Thời gian còn lại trong ngày nó ở trước áo người lính, háo hức ngó ra nhìn cây cỏ và ngọn thác viền đầy dương xỉ họ đi qua trên đường xuống vùng đồng bằng.
Nhưng Abdullah hoàn toàn ghê tởm trò nhặng xị về hai con thú nuôi mới của người lính khi họ dừng lại nghỉ đêm. Họ quyết định nghỉ lại nhà trọ họ gặp ở thung lũng đầu tiên, và tại đây người lính quả quyết rằng lũ mèo của lão phải có được mọi thứ tốt nhất.
Ông chủ nhà trọ và bà vợ có cùng quan điểm với Abdullah. Họ có dáng người ục ịch và dường như tâm trạng không được tốt vì bị trộm mất một bình sữa và cả một con cá hồi buổi sáng hôm đó một cách bí ẩn. Họ phục vụ với sự bất mãn hiện rõ, lấy cái rổ chỉ vừa vặn đúng cỡ và một cái gối mềm để nhét vào trong. Họ sầm mặt và vội vàng mang đến kem, lòng gà và cá. Họ miễn cưỡng mang đến một ít thảo dược mà người lính tuyên bố có thể ngăn bệnh loét tai cho thú nuôi. Họ thình thịch đi ra tìm thêm thảo dược được cho là có thể trị giun cho mèo. Nhưng họ hoàn toàn không tin nổi khi bị yêu cầu đun nước nóng để tắm vì người lính ngờ rằng Đuôi Vụt có rận.
Abdullah buộc phải đàm phán. “Thưa hoàng tử và công chúa giữa các chủ nhà trọ,” anh nói, “xin hãy chịu đựng tính lập dị của người bạn tuyệt vời này của tôi. Khi ông ấy nói nước tắm, dĩ nhiên ý ông ấy là nước tắm cho ông ấy và cho tôi. Chúng tôi đều bị vấy bẩn do đi đường và sẽ rất vui nếu có nước nóng - dĩ nhiên chúng tôi sẽ trả thêm bất cứ phụ phí nào cần thiết.”
“Cái gì? Tôi á? Tắm á?” người lính thốt lên khi ông chủ và bà vợ đã rầm rập bỏ đi để đun nước nóng.
“Đúng thế. Ông đấy,” Abdullah nói. “Nếu không tôi sẽ chia tay ông và mèo của ông ngay tối nay. Con chó mà anh bạn Jamal của tôi nuôi ở Zanzib còn không hôi bằng ông, thưa chiến binh lười tắm, và Đuôi Vụt, dù có rận hay không, cũng còn sạch hơn ông.”
“Nhưng còn cô công chúa của tôi và cô nàng công chúa của cậu sẽ thế nào nếu cậu bỏ đi?” người lính hỏi.
“Tôi sẽ nghĩ ra cách nào đó,” Abdullah nói. “Nhưng tôi sẽ vừa lòng hơn nếu ông đi tắm, và nếu ông muốn, mang Đuôi Vụt vào bồn tắm với ông. Đấy là mục đích của tôi khi yêu cầu nước tắm.”
“Tắm làm người ta yếu mềm đi,” người lính hoài nghi nói. “Nhưng tôi đoán trong khi tắm tôi cũng có thể rửa ráy cho cả Nửa Đêm nữa.”
“Cứ dùng cả con mèo làm miếng bọt biển chà người nếu ông thích, thưa người lính bộ binh si mê.” Abdullah nói rồi đi tận hưởng thời gian tắm của riêng mình.
Ở Zanzib người ta tắm rất nhiều bởi khí hậu quá nóng nực. Abdullah đã quen đi nhà tắm công cộng cách ngày, và anh thấy nhớ điều đó. Ngay cả Jamal cũng tới nhà tắm một tuần một lần, và nghe đồn rằng anh ta mang cả chó xuống nước với mình.
Trong lúc nước nóng làm dịu thân thể, Abdullah nghĩ người lính thực ra say mê lũ mèo của lão cũng chỉ như Jamal say mê con chó của anh ta. Anh hy vọng Jamal và chú chó đã xoay xở trốn thoát được, và nếu trốn được, giờ phút này họ đang không phải chịu khốn khổ trong sa mạc.
Người lính không có vẻ yếu ớt hơn chút nào sau khi tắm, dù làn da nâu của lão đã sáng hơn nhiều. Có vẻ Nửa Đêm đã trốn mất ngay khi nhìn thấy nước, nhưng theo người lính thì Đuôi Vụt đã yêu thích từng khoảnh khắc. “Nó chơi với bong bóng xà phòng!” lão mê mẩn kêu lên.
“Tao hy vọng mày nghĩ mày đáng giá tất cả những rắc rối này,” Abdullah nói với Nửa Đêm khi nó ngồi trên giường anh, duyên dáng tự liếm sạch mình sau bữa kem và gà. Nửa Đêm quay lại ném cho anh cái nhìn ghét bỏ với đôi mắt tròn xoe - dĩ nhiên nó đáng giá! - rồi quay lại công việc hết sức nghiêm túc là làm sạch tai.
Hóa đơn vào sáng hôm sau quả thực khổng lồ. Hầu hết phụ thu đều từ nước nóng, nhưng gối đệm, rổ và thảo dược cũng chiếm kha khá trên danh sách. Abdullah run rẩy trả tiền và lo lắng nghĩ xem còn bao xa nữa mới tới Kingsbury.
Người ta bảo anh là sáu ngày, nếu đi bộ.
Sáu ngày! Abdullah suýt thì rên rỉ thành tiếng. Sáu ngày với mức độ tiêu pha này thì anh còn chẳng thể cho Hoa Đêm nổi cuộc sống nghèo khổ nghiệt ngã nhất khi anh tìm thấy nàng. Và anh còn phải chuẩn bị tinh thần cho sáu ngày mà người lính cứ nhặng xị lên vì lũ mèo như thế này, trước khi họ có thể tìm được một pháp sư và thậm chí bắt đầu cố gắng tìm kiếm Hoa Đêm. Không, Abdullah nghĩ. Điều ước tiếp theo của anh với linh thần sẽ là đưa tất cả họ thẳng đến Kingsbury. Thế có nghĩa là anh chỉ phải chịu đựng thêm hai ngày nữa.
Được suy nghĩ này an ủi, Abdullah sải bước xuống đường với Nửa Đêm bình thản ngồi trên vai và cái chai linh thần đung đưa bên hông. Mặt trời tỏa nắng chói chang. Sắc xanh của vùng quê khiến anh thấy thoải mái sau khi đi qua sa mạc.
Abdullah thậm chí bắt đầu thấy thích những ngôi nhà lợp mái cỏ. Quanh chúng là những khu vườn sum suê um tùm xinh đẹp và rất nhiều ngôi nhà có hoa hồng hay các loài hoa khác trồng quanh cửa. Người lính nói với anh rằng lợp mái cỏ là tập tục ở đây. Nó được gọi là mái tranh, người lính trấn an anh rằng nó thực sự có thể che mưa, dù Abdullah thấy rất khó tin được điều này.
Không lâu sau, Abdullah lại chìm sâu vào một mơ mộng khác, trong đó anh và Hoa Đêm sống trong lều tranh lợp cỏ và hoa hồng trồng quanh cửa. Anh sẽ dựng cho nàng một khu vườn khiến dân chúng hàng dặm quanh đó ghen tị. Anh bắt đầu lên kế hoạch cho khu vườn.
Thật không may, đến cuối buổi sáng, mộng tưởng của anh bị cắt ngang bởi những giọt mưa lúc càng nặng hạt. Nửa Đêm ghét mưa. Nó ầm ĩ phản đối bên tai Abdullah.
“Hãy cho nó vào trong áo choàng của cậu,” người lính nói.
“Tôi không làm thế đâu, thưa nhà yêu động vật,” Abdullah nói. “Nó chẳng yêu quý tôi nhiều hơn là tôi yêu quý nó. Nó chắc chắn sẽ tóm lấy cơ hội để cào vài phát lên ngực tôi.”
Người lính đưa cái mũ đựng Đuôi Vụt cho Abdullah, được phủ cẩn thận bằng một cái khăn tay không sạch, và cho Nửa Đêm vào trong áo khoác của mình. Họ đi tiếp nửa dặm nữa. Tới lúc này, mưa đổ xuống như trút nước.
Linh thần lơ lửng thành một luồng khói tơi tả bên cái chai. “Ngươi không thể làm gì đó mà cứ để chỗ nước này nhỏ vào ta hay sao?”
Đuôi Vụt cũng lấy hết sức bình sinh gào lên y như thế bằng giọng meo the thé. Abdullah gạt tóc ướt ra khỏi mắt và cảm giác tinh thần bị khủng bố.
“Chúng ta phải tìm chỗ trú,” người lính nói.
Thật may có một nhà trọ đơn độc ở khúc quanh tiếp theo. Họ mừng rỡ lẹp bẹp đi vào quầy rượu của quán trọ, Abdullah hài lòng nhận ra mái tranh của ngôi nhà ngăn mưa rất tốt.
Ở đây, như Abdullah bắt đầu quen, người lính đòi một phòng khách riêng có lò sưởi để lũ mèo có thể được thoải mái, và bữa trưa cho cả bốn thành viên trong đoàn. Abdullah, cũng bắt đầu quen, tự hỏi lần này hóa đơn sẽ nhiều đến thế nào, dù anh phải thừa nhận đúng là họ đang cần lò sưởi. Trong khi họ đợi bữa trưa, anh đứng trước ngọn lửa, nước nhỏ giọt từ quần áo, tay cầm cốc bia - ở quán trọ này, bia có vị như thể lấy từ một con lạc đà không khỏe. Nửa Đêm liếm khô mèo con, rồi chính mình. Người lính hơ ủng trước ngọn lửa và để chúng bốc khói, trong khi chai linh thần được đặt bên ngọn lửa và cũng nhẹ nhàng bốc khói. Ngay cả linh thần cũng không phàn nàn.
Họ nghe thấy tiếng vó ngựa bên ngoài. Đây không phải chuyện bất thường. Hầu hết dân xứ Ingary cưỡi ngựa đi lại nếu họ có thể. Việc những kỵ sĩ đó có vẻ sắp dừng chân lại quán trọ này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Chắc họ cũng ướt nhẹp. Abdullah mới chỉ nghĩ đến việc đáng ra hôm qua anh nên kiên quyết yêu cầu linh thần ban cho ngựa thay vì sữa và cá hồi, thì nghe thấy mấy kỵ sĩ hét lên với ông chủ nhà trọ bên ngoài cửa sổ phòng khách.
“Hai người - một tên lính người Strangia và một tên tóc đen ăn mặc bảnh bao - bị truy nã vì tội hành hung và cướp bóc - ông có thấy ai như chúng không?”
Trước khi các kỵ sĩ nói xong, người lính đã tới bên cửa sổ phòng khách, lưng áp vào tường để có thể nhìn nghiêng qua cửa sổ mà không bị nhìn thấy, và không biết làm thế nào lão đã xách ba lô trên một tay, và mũ trong tay kia.
“Bốn tên,” lão nói. “Nhìn đồng phục thì chúng là cảnh binh.”
Abdullah chỉ biết đứng đó há hốc miệng hoảng hốt, nghĩ rằng đây chính là hậu quả của việc nhặng xị lên đòi rổ cùng nước tắm cho mèo và cho chủ nhà trọ lý do để nhớ rõ họ. Và đòi phòng ở riêng, anh nghĩ trong khi nghe giọng ông chủ nhà trọ từ xa xun xoe trả lời đúng là cả hai kẻ bị truy nã đều đang ở đây, trong phòng khách nhỏ.
Người lính chìa mũ về phía Abdullah. “Đặt Đuôi Vụt vào đây. Rồi ôm Nửa Đêm và sẵn sàng leo qua cửa sổ ngay khi chúng vào trong nhà trọ.”
Đuôi Vụt chọn đúng lúc đó để thám hiểm dưới một cái ghế dài bằng gỗ sồi. Abdullah lao xuống sau nó. Khi lùi lại trên hai đầu gối với con mèo con vùng vẫy trong tay, anh có thể nghe được tiếng ủng lộp cộp xa xa trong quầy rượu. Người lính đang mở then cửa sổ. Abdullah thả Đuôi Vụt vào cái mũ lão chìa ra và quay lại tìm Nửa Đêm. Và thấy cái chai linh thần đang hơ ấm bên ngọn lửa. Nửa Đêm đang ngồi trên cái giá cao bên kia phòng. Thật vô vọng. Tiếng ủng giờ ở gần hơn nhiều, rầm rập đi về phía cửa phòng khách nhỏ. Người lính đang đập thình thịch vào cửa sổ, có vẻ nó bị kẹt.
Abdullah giật lấy cái chai linh thần. “Tới đây, Nửa Đêm!” anh hô và chạy về phía cửa sổ, rồi va phải người lính đang lùi lại.
“Đứng tránh ra,” người lính nói. “Nó bị kẹt rồi. Phải đá thôi.”
Khi Abdullah lảo đảo lùi sang bên, cánh cửa phòng khách bật mở và ba gã to con mặc cảnh phục lao vào phòng. Cùng lúc ấy, ủng của người lính đập rầm vào khung cửa sổ. Khung cửa sổ bật ra, và người lính trèo qua bệ cửa. Ba gã cảnh binh la lên. Hai gã chạy ra cửa sổ và một gã lao vào Abdullah. Abdullah xô đổ cái ghế gỗ sồi chặn cả ba lại và rồi lao vụt ra cửa sổ, anh trèo qua bệ cửa ra ngoài làn mưa nặng hạt mà không dừng lại nghĩ ngợi.
Rồi anh nhớ ra Nửa Đêm. Anh quay lại.
Nó lại hóa lớn, lớn hơn mọi lần anh từng thấy nó biến hình, sừng sững như một cái bóng đen khổng lồ trong khoảng không dưới cửa sổ, răng nanh khổng lồ trắng nhởn nhe ra về phía ba gã cảnh binh. Chúng ngã chồng lên nhau khi cố chạy trốn qua cửa phòng phía sau. Abdullah cảm kích quay lưng chạy theo người lính. Anh vắt chân lên cổ lao về góc nhà trọ xa hơn. Gã cảnh binh thứ tư đang trông ngựa bên ngoài bắt đầu đuổi theo họ, rồi nhận ra việc đó thật ngu ngốc và quay lại đám ngựa, lúc này đã tản ra khi gã lao về phía chúng. Khi Abdullah chạy theo người lính qua vườn rau ướt sũng nước mưa, anh có thể nghe thấy tiếng cả bốn gã cảnh binh la hét trong khi cố bắt lại ngựa.
Người lính chạy trốn rất chuyên nghiệp. Lão tìm được một lối đi từ vườn rau dẫn vào vườn hoa quả, và từ đó cánh cổng mở ra một cánh đồng rộng lớn, vậy mà lão không hề lãng phí một giây nào. Xa xa bên kia cánh đồng, dưới cơn mưa, là một khu rừng hứa hẹn sự an toàn.
“Cậu đón được Nửa Đêm chứ?” người lính thở hổn hển khi họ chạy qua nền cỏ ướt của cánh đồng.
“Không,” Abdullah nói. Anh chẳng còn đủ hơi để giải thích.
“Cái gì?” người lính kêu lên. Lão dừng chân và quay phắt lại.
Đúng lúc đó, bốn con ngựa, mỗi con chở một gã cảnh binh trên yên, nhảy qua hàng rào của vườn hoa quả và lao vào cánh đồng. Người lính to tiếng chửi thề. Lão và Abdullah lao về phía khu rừng. Tới lúc họ đến được bìa rừng đầy cây bụi, đám cảnh binh đã đi được nửa cánh đồng. Abdullah và người lính đâm xuyên qua các bụi cây rồi nhảy vào khoảng rừng rộng lớn, Abdullah kinh ngạc phát hiện nền rừng được tạo thành từ hàng ngàn cây hoa xanh dương tươi tắn, mọc dày như tấm thảm xanh trải tít tắp về phía xa.
“Chúng là hoa... gì vậy?” anh thở gấp.
“Hoa chuông,” người lính nói. “Nếu cậu để lạc Nửa Đêm, tôi sẽ giết cậu.”
“Tôi không làm thế. Nó sẽ tìm được chúng ta. Nó biến to. Tôi đã bảo ông rồi. Phép thuật đó,” Abdullah hổn hển.
Người lính chưa bao giờ thấy Nửa Đêm làm trò này. Lão không tin Abdullah. “Chạy nhanh lên,” lão nói. “Chúng ta sẽ phải vòng lại để đón nó.”
Họ lao về phía trước, giẫm nát hoa chuông, ngập chìm trong mùi hương kỳ lạ và hoang dại của chúng. Nếu không phải vì cơn mưa xám xịt đang trút nước và tiếng la hét của bọn cảnh binh, Abdullah hẳn sẽ tin rằng anh đang chạy trên mặt đất ở thiên đường. Anh nhanh chóng trở lại với những mộng tưởng của mình. Khi dựng khu vườn quanh túp lều anh sẽ ở với Hoa Đêm, anh sẽ trồng hàng ngàn đóa hoa chuông trong vườn, như những đóa hoa này. Nhưng mộng tưởng này không che mắt anh trước việc trong khi chạy họ để lại sau lưng một vệt cành hoa trắng bị giẫm gãy và những bông hoa đứt tung. Mộng tưởng cũng không bịt tai anh trước tiếng cành cây gãy khi bọn cảnh binh thúc ngựa vào rừng theo anh.
“Quá vô vọng!” người lính nói. “Bảo linh thần của cậu làm bọn cảnh binh mất dấu chúng ta đi.”
“Tôi phải chỉ ra... thưa viên ngọc bích giữa những người lính... rằng sẽ không có điều ước nào cho tới tận ngày kia,” Abdullah hổn hển.
“Hắn có thể lại cho cậu trước một điều ước,” người lính nói.
Làn hơi xanh tức giận phụt ra khỏi cái chai Abdullah đang cầm. “Ta đã cho ngươi điều ước gần đây nhất chỉ với điều kiện ngươi để ta yên,” linh thần nói. “Ta chỉ yêu cầu mỗi một việc là để yên cho ta gặm nhấm nỗi đau khổ của mình ở trong chai. Và ngươi có để yên cho ta không? Không. Ngay khi có dấu hiệu rắc rối đầu tiên, ngươi bắt đầu la hét đòi thêm điều ước. Không ai ở đây nghĩ cho ta à?”
“Chuyện khẩn cấp... thưa đóa dạ hương... đóa hoa chuông giữa những linh thần trong chai,” Abdullah hổn hển. “Hãy đưa chúng tôi đi... xa khỏi...”
“Ồ không, không được làm thế!” người lính nói. “Cậu không được ước chúng ta đi xa khỏi đây mà không có Nửa Đêm. Hãy khiến linh thần biến chúng ta thành vô hình cho đến khi chúng ta tìm thấy nó.”
“Hỡi viên ngọc bích giữa các linh thần...” Abdullah thở gấp.
“Nếu có điều gì,” linh thần cắt ngang, khẽ đung đưa bụng trong đám mây màu oải hương, “ta ghét hơn cả cơn mưa này và việc cứ bị quấy rầy để đòi trước điều ước, thì đó là việc bị dỗ ngọt để xin điều ước bằng ngôn từ hoa mỹ. Nếu ngươi muốn ước gì thì nói thẳng ra đi.”
“Khiến bọn cảnh binh mất dấu chúng ta,” người lính nói cùng lúc đó.
Họ trừng mắt nhìn nhau trong khi chạy.
“Quyết định đi,” linh thần nói. Hắn khoanh tay và khinh khỉnh bốc khói sau lưng họ. “Với ta, các ngươi muốn lãng phí điều ước tiếp theo cho cái gì thì cũng thế thôi. Có điều ta phải nhắc các ngươi rằng đó sẽ là điều ước cuối cùng của ngươi trong hai ngày tới.”
“Tôi sẽ không bỏ lại Nửa Đêm,” người lính nói.
“Nếu chúng ta... lãng phí một điều ước,” Abdullah thở hồng hộc, “thì nó cần... hữu ích... thưa người thợ săn số phận... ngu ngốc... phải tới nơi... ta cần đi... Kingsbury.”
“Vậy cậu có thể đi mà không có tôi,” người lính nói.
“Lũ người cưỡi ngựa chỉ còn cách mười lăm mét thôi,” linh thần nhắc.
Họ ngoái nhìn qua vai và thấy đúng là như thế. Abdullah vội nhượng bộ. “Thế thì khiến bọn họ không thấy được chúng tôi,” anh thở gấp.
“Hãy để chúng tôi không bị trông thấy cho tới khi Nửa Đêm tìm được chúng tôi,” người lính bổ sung. “Tôi biết nó sẽ làm được mà. Nó thông minh đến như thế cơ mà.”
Abdullah thoáng thấy một nụ cười ác ý hình thành trên gương mặt khói sương của linh thần, và đôi cánh tay sương khói làm cử chỉ quen thuộc.
Rồi theo sau đó là cảm giác kỳ lạ, ướt át và dinh dính. Thế giới đột nhiên vặn vẹo quanh Abdullah và trở nên mênh mông, xanh mướt, nhòe nhoẹt. Anh khom người bò chậm chạp, vất vả, giữa những thứ có vẻ là hoa chuông khổng lồ, đặt mỗi bàn tay khổng lồ và đầy mụn xuống cực kỳ cẩn thận, bởi không biết vì sao, anh không thể nhìn xuống, chỉ có thể nhìn lên và sang ngang. Anh di chuyển vất vả đến nỗi muốn ngừng lại và núp mình ngay chỗ đang đứng, nhưng mặt đất rung lên kinh hoảng. Anh có thể cảm thấy sinh vật khổng lồ nào đó lao nước kiệu về hướng mình nên anh vội vàng bò tiếp. Thậm chí ngay cả khi đã làm vậy, anh suýt nữa đã không kịp tránh khỏi đường đi của chúng.
Một móng guốc khổng lồ, to như một tòa tháp tròn, ở dưới có kim loại, đập rầm xuống ngay bên cạnh anh trong khi anh bò. Nó làm Abdullah khiếp hãi đến nỗi anh đờ cả người và không di chuyển nổi. Anh có thể thấy sinh vật khổng lồ cũng dừng lại, rất gần. Có những âm thanh ầm ĩ bực bội mà anh không thể nghe rõ. Âm thanh tiếp tục trong một lúc. Rồi tiếng móng guốc đập rầm rập lại tiếp tục, và cũng kéo dài trong một lúc, giẫm đạp chỗ này chỗ kia, lúc nào cũng khá gần, cho tới khi sau một quãng thời gian tưởng như cả ngày, những sinh vật đó có vẻ bỏ cuộc, không tìm kiếm anh nữa, và sầm sập bì bõm bỏ đi.