Có tiền và có những thứ tiền có thể mua được là điều tốt, tuy nhiên, đôi khi cũng nên xem lại và đảm bảo rằng mình không mất những thứ mà tiền không mua được.

George Horace Lorimer

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Dịch giả: Tuấn Việt
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 257 / 36
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12 - Vết Thương Nhức Nhối
gày kế tiếp, ngay sau bữa điểm tâm, tôi lên đường đến ngôi nhà tranh của Margaret Ernst gần sân nhà thờ Holly Saints tại Great Holling. Tôi phát hiện cánh cửa chính khép hờ, bèn gõ vào đó nhẹ hết cỡ, chỉ sợ mình lỡ tay xô nó mở rộng ra.
Không có ai trả lời nên tôi gõ lớn hơn. “Bà Ernst?” tôi cất tiếng gọi. “Bà Margaret?”
Im lặng.
Chẳng biết vì sao tôi quay lại, linh cảm có một chuyển động nào đó phía sau lưng, nhưng có lẽ chỉ là gió rung cây.
Tôi nhè nhẹ đẩy cửa và nó mở toang ra cùng một tiếng cọt kẹt. Thứ đầu tiên tôi thấy là chiếc khăn quàng cổ trên sàn đá phiến của nhà bếp: một dải lụa màu lam và lục thêu hoa văn rất công phu. Tại sao nó nằm đây? Tôi hít một hơi sâu rồi lấy gan bước vào, vừa lúc có giọng nói vọng ra: “Vào đi, ông Catchpool.” Tôi giật bắn cả mình.
Margaret Ernst xuất hiện trong căn bếp. “Ồ, tôi tìm nó nãy giờ,” bà nói, miệng mỉm cười, khom xuống nhặt chiếc khăn quàng. “Tôi biết ông đến nên đã để cửa ngỏ. Thật ra, tôi chờ ông từ năm phút trước đây cơ, nhưng tôi nghĩ đúng y boong chín giờ thì có vẻ háo hức quá, đúng không ạ?”
Bà quấn chiếc khăn lên cổ, dẫn đường cho tôi vào nhà. Có gì đó trêu chọc nơi bà ta – dù không có chủ định làm phật lòng người ta – thúc giục tôi phải thẳng thừng hơn so với bình thường.
“Tôi háo hức muốn phát hiện sự thật, và tôi cũng không ngại làm rõ sự thật,” tôi nói. “Ai là kẻ muốn giết Harriet Sippel, Ida Gransbury và Richard Negus? Tôi tin bà có biết gì đó về điều này, và rất mong bà nói cho tôi.”
“Những giấy tờ đó là gì vậy?”
“Sao cơ? Ồ!” Tôi quên béng mình đang cầm chúng trên tay. “Các bản danh sách ấy mà. Khách trọ tại khách sạn Bloxham vào khoảng thời gian các án mạng, nhân viên của Bloxham. Tôi đang định trước hết hỏi bà xem ai có khả năng là hung thủ, sau đó nhờ bà liếc qua và cho biết có cái tên nào mà bà thấy quen thuộc không.”
“Nancy Ducane,” Margaret nói. Bà đón lấy hai bản danh sách từ tay tôi rồi chăm chú xem, mày chau lại.
Tôi nói với bà cái câu hệt như Poirot đã nói với Samuel ngày hôm qua, dù lúc đó tôi không biết ông nói gì. “Danh họa Nancy Ducane ư?”
“Xin chờ một chút.” Tôi đứng im lặng trong lúc bà Margaret đọc hai bản danh sách. “Không có cái tên nào quen cả, tôi e là vậy.”
“Có phải bà ngụ ý Nancy Ducane, họa sĩ chân dung nổi tiếng, chính là người có động cơ sát hại Harriet Sippel, Ida Gransbury và Richard Negus?”
Margaret gập hai xấp giấy, trả lại, rồi ra hiệu cho tôi theo bà vào phòng khách. Khi chúng tôi đã thoải mái ngồi trên chính những chiếc ghế như hôm qua, bà nói: “Đúng vậy. Chính là họa sĩ Nancy Ducane. Tôi nghĩ bà ấy là người duy nhất có cả động cơ giết Harriet, Ida và Richard, lẫn năng lực để làm việc đó và thoát ra. Đừng ngạc nhiên thế chứ, ông Catchpool. Đâu phải cứ là người nổi tiếng thì không tàn bạo. Tuy vậy, phải nói rằng tôi không thể tin nổi Nancy lại làm việc tày đình như thế. Bà ấy là một phụ nữ có văn hóa – lúc tôi còn quen biết bà ấy. Không ai thay đổi nhiều đến thế. Bà ấy là một người phụ nữ quả cảm.”
Tôi không nói gì cả. Tôi nghĩ, oái oăm nằm ở chỗ một số kẻ sát nhân thông thường luôn là người có văn hóa và chỉ phá vỡ nếp văn hóa đó một lần duy nhất để ra tay giết người.
Bà Margaret nói: “Tôi đã thao thức suốt đêm qua, tự hỏi liệu có thể nào là do Walter Stoakley gây ra hay không, nhưng không, không thể nào. Ông ta đứng dậy còn phải có người đỡ, làm sao lết nổi đến London. Ba vụ án mạng là chuyện ngoài tầm với của ông ta.”
“Walter Stoakley ư?” Tôi nhổm dậy trên ghế. “Ông cụ say xỉn tại King’s Head mà tôi đã trò chuyện hôm qua? Tại sao ông ta muốn giết Harriet Sippel, Ida Gransbury và Richard Negus cơ chứ?”
“Vì Frances Ive là con gái của ông ta,” Margaret nói. Bà quay lại để nhìn nấm mộ của vợ chồng Ive qua cửa sổ. Một lần nữa dòng thơ trong bài sonnet của Shakepeare lại hiện lên trong đầu tôi: Những người tốt vẫn mãi luôn là bia miệng.
“Tôi sẽ rất mừng nếu Walter là hung thủ,” bà Margaret nói. “Tôi nói thế có kinh khủng lắm không? Tôi sẽ nhẹ nhõm biết bao nếu không phải là do Nancy. Walter già rồi, chẳng còn bao nhiêu sự sống, tôi nghĩ vậy. Ồ, tôi không muốn hung thủ đó là Nancy đâu! Tôi đọc báo thấy nói Nancy đã thăng hoa trong hội họa. Bà ấy đã rời nơi đây và thực sự làm nên tên tuổi của mình. Với tôi, bà ấy là một nguồn động viên. Tôi rất vui khi biết bà ấy thành đạt ở London.”
“Rời nơi đây?” tôi hỏi. “Vậy ra Nancy Ducane cũng từng sống ở Great Holling ư?”
Margaret Ernst vẫn đắm đuối nhìn qua cửa sổ. “Phải. Đến năm 1913.”
“Là cái năm mà Patrick và Frances Ive mất. Cũng là năm mà Richard Negus bỏ làng đi.”
“Phải.”
“Bà Margaret…” Tôi chồm tới, nỗ lực lôi kéo sự chú ý của bà khỏi mộ vợ chồng Ive. “Tự đáy lòng, tôi hy vọng bà sẽ chóng quyết định kể tôi nghe câu chuyện về Patrick và Frances Ive. Chắc chắn sau khi nghe xong, tôi sẽ hiểu ra nhiều điều hiện vẫn còn là bí ẩn với tôi.”
Bà ta hướng đôi mắt nghiêm trang sang tôi. “Tôi đã quyết định sẽ kể cho ông nghe câu chuyện đó, nhưng với một điều kiện. Ông phải hứa không kể lại cho bất kỳ ai trong làng. Những điều tôi nói với ông trong phòng này không được ra khỏi đây cho đến khi ông trở về London. Ở đó, ông muốn kể cho ai thì cứ việc.”
“Xin bà đừng lo,” tôi nói. “Cơ hội trò chuyện của tôi ở Great Holling này rất hạn hẹp. Vừa thấy tôi đến là mọi người đã lỉnh đi.” Điều đó đã diễn ra hai lần sáng nay, trên đường tôi đi đến ngôi nhà tranh của Margaret Ernst. Trong số những người né tránh tôi có một thằng bé chưa đầy mười tuổi đời, một thằng nhóc tì. Thế mà nó cũng biết tôi là ai, biết phải nhìn tránh đi và lướt nhanh qua tôi để được an toàn. Tôi tin chắc nó biết đầy đủ họ tên của tôi, biết luôn tôi đến Great Holling này để làm gì. Những ngôi làng nhỏ ít ra cũng có cái biệt tài mà London không có: chúng biết cách phớt lờ một người theo kiểu làm cho người đó cảm thấy mình quan trọng đến đáng sợ.
“Tôi cần một lời thề trang trọng chứ không phải lời nói suông, ông Catchpool ạ.”
“Cớ sao phải bí mật thế? Dân làng không biết gì về vợ chồng Ive và chuyện gì xảy ra với họ sao?”
Điều kế tiếp mà bà Margaret nói thể hiện rằng bà ta chỉ lo một người trong làng biết được mà thôi. “Một khi ông đã nghe những gì tôi kể, chắc chắn ông sẽ muốn trò chuyện với bác sĩ Ambrose Flowerday.”
“Cái ông mà bà thúc tôi hãy quên đi, nhưng lại liên tục nhắc đến hết lần này đến lần khác ấy à?”
Bà Margaret đỏ mặt. “Ông phải hứa không tìm đến ông ta, và nếu có gặp ông ta thì không được nêu đề tài Patrick và Frances Ive. Ông mà không cam kết điều này thì tôi không thể nói với ông điều gì đâu.”
“Tôi không chắc có cam kết được không. Tôi biết nói gì đây với sếp của tôi ở Scotland Yard? Ông ta cử tôi đến đây để đặt ra những câu hỏi.”
“Thế thì đành vậy. Chúng ta đành bó tay.” Margaret Ernst khoanh tay lại.
“Nếu tôi tìm đến cái ông bác sĩ Flowerday đó và yêu cầu ông ta kể câu chuyện này thay vì nhờ bà thì sao nhỉ? Ông ta cũng biết vợ chồng Ive mà, đúng không? Hôm qua bà đã nói rồi, ông ta khác bà ở chỗ là đã ở Great Holling khi họ còn sống.”
“Đừng!” Không thể nhầm lẫn vào đâu nỗi lo lắng trong đôi mắt bà. “Làm ơn đừng nói chuyện với Ambrose! Ông không hiểu đâu. Ông không thể hiểu được.”
“Bà lo gì vậy, bà Margaret? Tôi cứ nghĩ bà là người chính trực, nhưng… Tôi cứ băn khoăn mãi không biết liệu bà có ý đồ chỉ kể ra một phần câu chuyện hay không.”
“Ồ, những gì tôi kể là đầy đủ, không thiếu sót gì cả.”
Vì lý do nào đó, tôi tin lời bà ta. “Thế thì, nếu bà không có ý đồ giấu diếm một phần sự thật, tại sao tôi không thể trò chuyện với ai khác về Patrick và Frances Ive?”
Margaret Ernst bật dậy, bước đến cửa sổ và đứng đó, tì trán vào kính. Cơ thể bà chắn tầm nhìn của tôi đến nấm mộ vợ chồng Ive. “Điều xảy ra tại đây vào năm 1913 đã gây ra một vết thương nhức nhối cho cả làng,” bà chậm rãi nói. “Không ai ở đây thoát được cả. Sau đó Nancy Ducane bỏ làng lên London, Richard Negus thì chạy đến Devon, nhưng cả hai vẫn không thoát. Họ đã mang vết thương theo cùng. Dù không lộ trên da hay phần cơ thể nào đó, nhưng nó vẫn hiện diện. Vết thương vô hình chính là vết thương tồi tệ nhất. Với những người ở lại, như Ambrose Flowerday, nó cũng không kém phần khủng khiếp. Tôi không biết liệu Great Holling có hồi phục được hay không. Tôi chỉ biết là hiện thì chưa hồi phục.”
Bà quay lại để đối mặt tôi. “Thảm kịch đó không bao giờ được kể ra, ông Catchpool ạ. Bất kỳ ai nơi đây đều không kể hay nói trực tiếp về nó. Đôi lúc im lặng cũng là một cách. Im lặng và lãng quên, giá như người ta có thể quên.” Bà siết chặt hai bàn tay vào nhau rồi nhả ra.
“Bà lo câu hỏi của tôi có thể tác động đến bác sĩ Flowerday phải không? Ông ta đang tìm cách lãng quên sao?”
“Tôi nói rồi: lãng quên là điều không thể.”
“Dù vậy… Đó là chủ đề quá đau buồn đối với ông ta?”
“Vâng. Rất đau buồn.”
“Ông ta có phải là bạn thân của bà?”
“Tôi chẳng liên quan gì ở đây,” bà gay gắt nói. “Ambrose là người tốt nên tôi không muốn ông ta bị quấy rầy. Tại sao ông không đồng ý với yêu cầu của tôi?”
“Thôi được, tôi cam đoan với bà,” tôi miễn cưỡng nói. “Những gì bà kể tôi nghe, tôi sẽ không nói với bất cứ ai trong làng.” Thề xong, tôi bỗng mong cư dân của Great Holling cứ tiếp tục kiên quyết phớt lờ tôi như hiện nay, chứ đừng đặt ra những cám dỗ trên con đường tôi đi. Phải xem tôi có gặp may hay không, chứ vừa rời ngôi nhà tranh của bà Margaret mà đụng ngay ông bác sĩ Flowerday ba hoa đang rất muốn có một cuộc tán gẫu thì coi như xong chuyện.
Từ ba bức chân dung treo trên tường, ông Charles Ernst quá cố phóng xuống tôi những ánh mắt cảnh cáo: Thử thất hứa với vợ tao đi, mày sẽ phải hối tiếc cho coi, đồ vô lại, cặp mắt ông như muốn nói.
“Còn về sự thanh thản của chính bà?” tôi hỏi. “Bà không muốn tôi trò chuyện với bác sĩ Flowerday vì sợ làm ông ta đau lòng, nhưng tôi thì lại lo làm bà đau lòng. Tôi không muốn gây ra buồn đau nào cho bà đâu đấy.”
“Tốt.” Bà Margaret nhẹ nhõm thở phào. “Thật ra tôi cũng thích có cơ hội được kể ra câu chuyện cho một người ngoài cuộc giống như tôi.”
“Vậy thì xin mời bà,” tôi nói.
Bà gật đầu, trở lại ghế của mình, và bắt đầu kể câu chuyện về Patrick và Frances Ive. Tôi nghe một mạch, không hề ngắt lời bà. Tôi sẽ trình bày nó ngay sau đây.
Tin đồn khởi đầu cho mọi tai họa mười sáu năm trước đây xuất phát từ cô gái giúp việc nhà của mục sư Patrick Ive – vị mục sư quản nhiệm trẻ tuổi của Great Holling - và Frances, vợ ông. Nói là thế, nhưng cô gái giúp việc này không phải là người duy nhất hay thậm chí là người chịu trách nhiệm chính cho tấn thảm kịch. Cô ta đưa ra một lời nói dối đầy ác ý, nhưng chỉ nói với duy nhất một người và không hề tham gia vào việc lan truyền nó khắp ngôi làng. Thật ra, khi rắc rối bắt đầu, cô ta hầu như đã rút ra hoàn toàn và chẳng mấy khi xuất hiện. Một vài người đồn rằng cô ta xấu hổ – và như vậy cũng phải thôi – về thứ mà cô ta đã châm ngòi. Sau này, cô ta hối tiếc về vai trò của mình trong vụ việc và cố hết sức để sửa chữa, nhưng khi đó đã là quá muộn rồi.
Dĩ nhiên, nói dối đến mức vậy là xấu xa cho dù chỉ nói với một người duy nhất. Có lẽ cô ta đang bực bội sau một ngày làm việc cực nhọc ở nhà mục vụ, hay có thể cô ta ghét vợ chồng Ive vì là một người giúp việc không an phận. Có thể cô ta muốn tạo ra chút sóng gió trong cuộc đời ảm đạm bằng một câu chuyện phiếm ác ý, nhưng lại quá ngây thơ để mà hình dung được cái hậu quả nghiêm trọng nó có thể gây ra.
Rủi thay, người cô ta chọn để trút lời bịa đặt độc địa đó lại là Harriet Sippel. Một lần nữa, lựa chọn của cô ta có lẽ cũng dễ hiểu. Harriet, bức bối và đầy thù hận kể từ sau cái chết của chồng, là người luôn đón nhận những lời dối trá với tất cả sự hào hứng và tin tưởng. Dĩ nhiên, bởi vì bà mong nó là sự thật. Bà mong ai đó trong làng phạm lỗi lầm nghiêm trọng, và tốt hơn nữa (theo quan điểm của Harriet) nếu người đó lại chính là mục sư! Vâng, Harriet là thính giả hoàn hảo cho câu chuyện mà cô gái giúp việc muốn vu khống, và dĩ nhiên vì thế bà đã được chọn.
Cô giúp việc nói với Harriet Sippel rằng Patrick là một tay lừa đảo độc ác nhất, báng bổ nhất: ông ta, theo lời cô, thường dụ dỗ dân làng đến nhà mục vụ vào ban đêm, khi Frances – vợ ông – đi đâu đó để giúp đỡ giáo dân như bà vẫn thường làm. Tại nhà mục vụ, Patrick thu tiền của dân làng, đổi lấy việc lên đồng, giúp dân làng giao tiếp với người thân đã khuất. Linh hồn người đã khuất thông qua ông, Patrick Ive, để truyền về những thông điệp từ thế giới bên kia.
Harriet Sippel rỉ tai những người chịu nghe bà rằng Patrick đang dùng những trò bịp bợm để lừa đảo dân làng, nhưng đó có lẽ mới chỉ là khúc dạo đầu cho nỗ lực khuếch đại những sai trái của ông nhằm tạo ra một câu chuyện còn choáng váng hơn nữa. Sau này cô gái giúp việc một mực nói rằng cô ta chỉ nêu ra với Harriet một cái tên duy nhất: Nancy Ducane.
Nancy thuở đó chưa là họa sĩ chân dung nổi tiếng mà chỉ là một cô gái trẻ bình thường. Bà ấy chuyển đến sống ở Great Holling vào năm 1890 cùng chồng là William khi ông này nhậm chức hiệu trưởng trường làng. William lớn tuổi hơn Nancy rất nhiều. Khi họ lấy nhau, Nancy mới mười tám trong khi William đã gần năm mươi, và năm 1912 ông qua đời do một căn bệnh đường hô hấp.
Theo những tin đồn xấu mà Harriet Sippel bắt đầu lan truyền trong tháng giêng ngập tuyết năm 1913, thì Nancy đã bị bắt gặp nhiều lần ra vào nhà mục vụ vào chiều tối, luôn luôn vào lúc tối trời, luôn luôn với bộ dạng lén lút, và chỉ ban đêm Frances Ive mới không có nhà.
Chỉ cần dùng chút lý trí thì người ta hẳn lập tức ngờ vực câu chuyện này. Trong đêm đen thì chắc chắn không thể nào nhận ra biểu hiện lẩn lút hay bất kỳ biểu hiện nào trên khuôn mặt. Khó mà xác định danh tính một phụ nữ rời nhà mục vụ trong đêm đen trừ phi người này có dáng đi đặc biệt, mà Nancy Ducane thì không có. Thật ra, sẽ là hợp lý hơn nếu có người bắt gặp bà ấy trong một lần như thế, rồi đi theo bà ấy về và phát hiện bà ấy là ai.
Một câu chuyện được kể với đầy nhiệt huyết thì bao giờ cũng dễ được chấp nhận hơn là phản bác, và đó cũng là phản ứng của hầu hết cư dân Great Holling. Họ sẵn sàng tin vào lời đồn và về hùa với Harriet tố giác Patrick Ive về tội báng bổ và tống tiền. Hầu hết đều tin (hoặc làm ra vẻ tin để tránh những lời móc mỉa cay độc của Harriet) là Patrick Ive đã bí mật làm cầu nối giữa người sống và người chết, bỏ túi một khoản tiền công rất lớn từ những giáo dân cả tin. Dân làng Great Holling nghĩ rằng hoàn toàn có khả năng Nancy Ducane đã không cưỡng được khi thấy có phương cách giúp bà nhận thông điệp từ người chồng quá cố William, đặc biệt khi lời đề nghị lại đến từ mục sư quản nhiệm xứ đạo. Và, quả thật, bà ấy có khả năng chi trả hậu hĩnh cho một dàn xếp như thế.
Dân làng quên mất rằng họ đã từng biết, từng yêu mến và tin tưởng Patrick Ive. Họ phớt lờ cái sự thật rằng họ biết ông là người đứng đắn và tốt bụng. Họ quên cả cái thú vui sục sạo tìm tội đồ của Harriet Sippel mà họ luôn coi thường. Họ rơi vào chiến dịch hận thù của bà ta vì sợ cơn phẫn nộ của bà ta ập xuống họ. Nhưng đó không phải là điều duy nhất thuyết phục họ. Điều còn gây ảnh hưởng sâu hơn nữa là họ biết rõ Harriet được hậu thuẫn bởi hai đồng minh lớn: Richard Negus và Ida Gransbury.
Ida nổi tiếng là người phụ nữ sùng đạo nhất Great Holling. Cô không bao giờ dao động trong đức tin, và hiếm khi nào mở miệng mà không trích dẫn Kinh Tân ước. Tất cả mọi người đều ngưỡng mộ và kính trọng cô, dù cô không phải là loại phụ nữ mà người ta tìm đến khi muốn có một khoảng thời gian bù khú. Kết bạn với cô chẳng có gì là thú vị, nhưng đối với dân làng, cô là thứ gì đó gần gũi nhất với thánh thần. Hơn nữa, cô lại đính hôn với Richard Negus, một luật sư có tiếng là rất thông minh.
Trí tuệ sáng láng và cái dáng vẻ quyền uy thầm lặng của Richard giúp ông giành được sự tôn kính của cả làng. Ông tin vào lời nói dối khi Harriet trình bày với ông vì nó khớp với chứng cớ mà ông đã thấy tận mắt. Chính ông cũng đã từng hơn một lần thấy Nancy Ducane – hay ít ra là một phụ nữ na ná như Nancy Ducane – rời nhà mục vụ vào giữa đêm, khi vợ vị mục sư đang ở thăm cha của bà hay ở lại nhà các giáo dân.
Richard Negus tin vào lời đồn, và Ida Gransbury cũng thế. Cô ta bị sốc nặng khi nghĩ rằng một người của nhà thờ như Patrick Ive lại có thể hành xử một cách vô đạo như thế. Cô ta, Harriet và Richard tự cho rằng sứ mệnh của họ là trục xuất Patrick Ive khỏi vị trí mục sư quản nhiệm của Great Holling. Họ đòi ông phải ra mắt công chúng và thú nhận hành vì tội lỗi của mình. Ông từ chối điều đó vì những tin đồn này là không có thật.
Sự thù ghét của dân làng đối với Patrick Ive nhanh chóng lan cả sang Frances, vợ ông. Người ta rỉ tai nhau rằng bà hẳn phải biết những hoạt động tà giáo và lừa bịp của chồng. Frances thề rằng bà chẳng biết gì cả. Thoạt đầu bà còn cố bào chữa, nói rằng Patrick chẳng đời nào làm những việc như thế. Nhưng khi hết người này đến người khác khẳng định ông có làm, bà im lặng, không nói năng gì nữa.
Chỉ có hai người ở Great Holling từ chối tham gia vào cuộc vây hãm vợ chồng Ive: Nancy Ducane (vì những lý do hiển nhiên, một số người nói vậy) và bác sĩ Ambrose Flowerday, người tỏ ra đặc biệt năng nổ trong việc bảo vệ Frances Ive. Ông lập luận, nếu Frances biết những hoạt động báng bổ diễn ra trong nhà mục vụ, thế thì tại sao chúng chỉ diễn ra những lúc bà đi vắng? Điều đó cho thấy bà hoàn toàn vô can. Chính bác sĩ Flowerday đã chỉ ra rằng không thể nào thấy được biểu hiện lẩn lút trên khuôn mặt ai đó khi tối mịt. Chính bác sĩ Flowerday đã tuyên bố ông vẫn tin người bạn Patrick Ive của ông, trừ khi nào hoặc cho đến lúc nào có ai đưa ra được một bằng chứng không thể chối cãi về tội lỗi của Patrick. Cũng chính bác sĩ Flowerday đã nói với Harriet Sippel (vào một ngày nọ ở giữa phố, trước rất nhiều người chứng) rằng chỉ trong nửa giờ qua bà ta đã tập hợp nhiều cái ác hơn cả Patrick Ive trong suốt cả cuộc đời.
Với quan điểm như thế, Ambrose Flowerday không được mọi người ưa thích, nhưng ông là một trong những người hiếm hoi không quan tâm cả thế giới nghĩ gì về mình. Ông đã bảo vệ Patrick Ive trước các giáo chức nhà thờ, bảo họ rằng, theo thiển ý của ông, không hề có mảy may sự thật nào trong các lời đồn đại. Ông hết sức lo lắng cho Frances Ive, lúc đó rơi vào hoàn cảnh rất đáng thương. Bà thôi ăn uống, bị mất ngủ, và không chịu rời nhà mục vụ dù có thuyết phục thế nào. Patrick Ive nổi điên. Vị trí mục sư và uy tín cá nhân không còn quan trọng với ông nữa, ông nói thế. Mong muốn duy nhất của ông là sức khỏe vợ ông được phục hồi.
Nancy Ducane trong khi đó chẳng nói năng gì cả, không xác nhận mà cũng không chối cãi những tin đồn. Càng bị Harriet Sippel công kích, bà ấy càng quyết tâm im lặng. Rồi một ngày nọ, bà ấy chợt đổi ý. Bà ấy bảo Victor Meakin rằng bà ấy có chuyện quan trọng muốn nói ra để chấm dứt sự điên rồ đã kéo dài quá lâu đó. Victor Meakin xoa tay, cười khẩy, rồi lẳng lặng lách ra cửa sau của King’s Head. Rất nhanh sau đó, mọi người ở Great Holling đều biết Nancy Ducane muốn đưa ra một tuyên bố.
Patrick và Frances Ive là hai người duy nhất trong làng không xuất hiện thể theo lời triệu tập. Tất cả những người còn lại – thậm chí cả cô gái giúp việc đã tung ra tin đồn, người mà nhiều tuần qua chẳng ai thấy đâu cả – tập hợp tại King’s Head, háo hức chờ sự khởi đầu giai đoạn kế tiếp của màn kịch.
Sau khi nhoẻn một nụ cười nhanh và nồng ấm với Ambrose Flowerday, Nancy Ducane lấy lại dáng vẻ lạnh lùng và thẳng thắn để đối mặt với đám đông. Bà bảo họ rằng câu chuyện Patrick Ive lấy tiền của bà để đổi lấy việc giao tiếp với người chồng quá cố của bà là hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, bà nói, không phải tất cả những đồn đại đều là dối trá. Bà thú nhận đã viếng thăm Patrick Ive tại nhà mục vụ vào ban đêm không chỉ một lần, khi vợ ông không có mặt. Bà làm vậy vì bà và Patrick Ive đang yêu nhau.
Dân làng ai nấy há hốc mồm vì sốc. Một số bắt đầu huýt sáo. Vài người lấy tay bụm miệng hay chộp tay bất cứ ai đứng cạnh.
Nancy chờ cho sự huyên náo lắng dịu mới tiếp tục. “Chúng tôi đã sai khi bí mật gặp nhau và buông xuôi theo sự cám dỗ,” bà nói, “nhưng chúng tôi không thể xa lìa nhau. Khi gặp nhau ở nhà mục vụ, chúng tôi chỉ trò chuyện mà thôi – nói cảm xúc của mỗi người về nhau, về sự vô vọng… Chúng tôi lẽ ra phải thỏa thuận không bao giờ gặp riêng nhau lần nữa, nhưng rồi Frances lại đi đâu đó và… thật vậy, sức mạnh của tình yêu khiến chúng tôi không thể nào cưỡng lại được.”
Có ai đó la lên: “Các người chỉ trò chuyện thôi sao? Lửa gần rơm làm sao mà tin được!”
Một lần nữa, Nancy cam kết với đám đông rằng giữa bà và Patrick Ive không hề có tiếp xúc thân thể nào.
“Giờ thì tôi đã nói với các người sự thật,” bà nói. “Một sự thật mà tôi lẽ ra không bao giờ tiết lộ, nhưng đó lại là cách duy nhất để chấm dứt những dối trá hiểm độc. Ai trong các người hiểu được cảm xúc sâu lắng, nồng cháy của tình yêu thì người ấy không thể lên án tôi và không thể lên án Patrick. Những người có trái tim hằn học là những người không biết đến tình yêu, và tôi thấy thương hại họ.”
Rồi Nancy nhìn thẳng vào Harriet Sippel: “Harriet, tôi tin bà đã từng thực sự yêu, nhưng khi mất George, bà đã chọn cách quên đi những gì mình từng biết. Bà đã biến tình yêu thành sự hận đời và biến thù hận thành đồng minh.”
Như để quyết tâm chứng tỏ mình đúng, Harriet Sippel đứng bật dậy. Sau vài câu chửi bới Nancy là con điếm dối trá, bà bắt đầu lu loa kể tội Patrick Ive một cách ầm ĩ hơn bao giờ hết: ông ta không chỉ kiếm lợi từ những trò lừa bịp giao tiếp với người chết mà còn lang chạ với những con đàn bà mất nết trong lúc vợ đi vắng. Ông ta vừa tà đạo vừa gian dâm! Ông ta còn tồi bại hơn cả bà tưởng! Thật không thể chấp nhận được, Harriet nói, khi một kẻ ngập sâu trong tội lỗi lại được phép tự xưng mình là mục sư của Great Holling.
Nancy Ducane rời khỏi King’s Head vào nửa chừng bài phát biểu kích động của Harriet vì không thể chịu nổi. Vài giây sau, cô gái giúp việc cho vợ chồng Ive lao ra cửa, khuôn mặt đỏ ửng và nước mắt đầm đìa.
Hầu hết dân làng không biết phải nghĩ sao. Họ lúng túng trước những gì nghe thấy. Và rồi Ida Gransbury bắt đầu lên tiếng để hậu thuẫn cho Harriet: mặc dù chưa rõ lắm đâu là tin đồn và đâu là sự thật, không nghi ngờ gì nữa, Patrick Ive kiểu gì cũng là một tội đồ, vì vậy không thể tiếp tục giữ cương vị mục sư quản nhiệm của Great Holling được nữa.
Đúng rồi, hầu hết dân làng tán thành. Đúng, đó chính là sự thật.
Richard Negus không nói gì cả, ngay cả khi vị hôn thê Ida mời ông lên phát biểu. Sau đó, trong cùng ngày hôm ấy, ông nói với bác sĩ Ambrose Flowerday rằng ông thấy lo ngại trước bước ngoặt sự kiện. Một người kiểu gì cũng là tội đồ mặc dù cũng là một lý lẽ tốt với Ida, nhưng lại không đủ tốt đối với ông. Ông tuyên bố bản thân thấy ghê tởm trước mưu đồ của Harriet Sippel, chộp cơ hội để phác họa Patrick Ive như một kẻ tội lỗi nhân đôi, tức cùng một lúc mang hai tội chứ không chỉ một. Bà ta đã biến lý lẽ không phải thế này mà là thế kia của Nancy Ducane thành ra vừa thế này vừa thế kia mà không hề có chứng cứ hay lý lẽ nào.
Ida đã dùng cụm từ không nghi ngờ gì nữa tại King’s Head. Thứ không nghi ngờ gì nữa đối với Richard Negus lúc này – ông thú nhận với Ambrose Flowerday - là dân làng (bao gồm cả chính ông, và ông rất xấu hổ về điều đó) đã hùa nhau nói dối về Patrick Ive. Nhưng nếu Nancy Ducane cũng nói dối thì sao? Nếu tình yêu của bà ấy đối với Patrick Ive là một chiều và ông đã bí mật gặp bà ấy theo khẩn nài của bà, chỉ nhằm mục đích bảo ban bà hãy từ bỏ những tình cảm dành cho ông thì sao?
Bác sĩ Flowerday tán thành: không ai biết chắc Patrick Ive có làm gì sai trái hay không, đó là ý kiến của ông ngay từ đầu. Ông là người duy nhất vợ chồng Ive đồng ý tiếp trong nhà mục vụ, và trong lần viếng kế tiếp, ông đã kể lại cho Patrick những lời của Nancy Ducane tại King’s Head. Patrick chỉ lắc đầu. Ông không bình luận gì về thật giả trong câu chuyện của Nancy. Frances Ive trong khi đó lại suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần.
Richard Negus không thuyết phục được Ida Gransbury nhìn sự việc giống như ông, từ đó mà quan hệ giữa hai người bắt đầu căng thẳng. Dân làng, do Harriet cầm đầu, tiếp tục quậy phá Patrick và Frances Ive. Họ ngày đêm gào rống những lời lên án từ bên ngoài nhà mục vụ. Ida tiếp tục kiến nghị nhà thờ tước vai trò mục sư quản nhiệm của Patrick, đuổi ông khỏi nhà thờ và làng Great Holling.
Rồi thảm kịch xảy ra: không chịu nổi nhục nhã, Frances Ive uống thuốc độc để kết thúc những chuỗi ngày khổ sở của bà. Chồng bà phát hiện ra và lập tức biết đã quá muộn. Gọi bác sĩ Flowerday chẳng ích gì. Không thể cứu được Frances nữa rồi. Patrick Ive biết ông sẽ không sống nổi với sự cắn rứt và đau khổ, vì vậy ông cũng lấy đi mạng sống của mình.
Ida Gransbury khuyên dân làng nên khoan dung, cầu nguyện cho linh hồn tội lỗi của Patrick và Frances Ive, tuy nhiên cô cho rằng Chúa khó mà dung thứ cho họ.
Harriet Sippel thấy không cần thiết để Chúa nhúng tay vào chuyện này. Bà nói với đám người về hùa rằng vợ chồng Ive phải bị thiêu đốt vĩnh viễn dưới hỏa ngục và như vậy là xứng đáng.
Vài tháng sau cái chết của vợ chồng Ive, Richard Negus hủy hôn ước với Ida Gransbury và rời khỏi Great Holling. Nancy Ducane bỏ lên London, và cô gái giúp việc tung tin đồn nhảm cũng biến mất khỏi làng.
Trong khi đó, Charles và Margaret Ernst đến làng và bắt đầu tiếp quản nhà mục vụ. Họ nhanh chóng trở thành bạn cửa bác sĩ Ambrose Flowerday, người đã miễn cưỡng kể cho họ biết toàn bộ tấn thảm kịch. Ông bảo họ rằng Patrick Ive – dù có lầm lạc thầm si mê Nancy Ducane hay không – là người rộng lượng và nhân từ nhất và không đáng là bia miệng chút nào cả.
Chính từ bia miệng mà ông dùng đã gợi ý cho Margaret Ernst khắc bài thơ lên bia mộ. Charles Ernst chống lại ý tưởng đó vì không muốn khiêu khích dân làng, nhưng Margaret vẫn kiên quyết giữ lập trường rằng nhà thờ Holly Saints phải thể hiện sự hậu thuẫn đối với Patrick và Frances Ive. “Em còn muốn gây ra điều gì đó tệ hại hơn cho Harriet Sippel và Ida Gransbury chứ khiêu khích thì đã nhằm nhò gì,” bà nói. Và, đúng vậy, khi thốt ra câu đó, ý nghĩ giết người đã có trong đầu bà dù đó chỉ là ý nghĩ chứ không phải là ý định phạm tội.
Kể xong câu chuyện, Margaret Ernst rơi vào im lặng. Mãi một hồi, cả hai chúng tôi không nói năng gì cả.
Cuối cùng, tôi nói: “Tôi đã hiểu vì sao bà cung cấp cho tôi cái tên của Nancy Ducane khi tôi hỏi ai là người có thể có động cơ. Nhưng bà ấy có cần thiết phải giết Richard Negus không? Ông ta đã rút lại sự hậu thuẫn đối với Harriet Sippel và Ida Gransbury ngay khi ông nghi ngờ sự gian dối của cô gái giúp việc.”
“Tôi chỉ biết mình cảm thấy thế nào nếu ở vào địa vị của Nancy,” bà Margaret nói. “Liệu tôi có tha thứ cho Richard Negus không? Không đâu. Tôi sẽ không tha thứ. Nếu ông ta không xác nhận những lời dối trá của Harriet và cô gái giúp việc thì Ida Gransbury có thể đã không tin những thứ vớ vẩn mà họ phun ra. Có ba kẻ đã gióng trống, khơi lên cơn thù hận đối với vợ chồng Ive tại Great Holling. Ba kẻ đó là Harriet Sippel, Ida Gransbury và Richard Negus.”
“Còn cô giúp việc?”
“Ambrose Flowerday không tin cô ta có ác ý khi khởi xướng cái mà cô ta đã khởi xướng. Cô ta rõ ràng khổ sở ngay khi trong làng bắt đầu nghĩ xấu về vợ chồng Ive.”
Tôi chau mày, không thỏa mãn. “Nhưng từ quan điểm của một Nancy Ducane giết người – thuần túy là lý luận thôi đấy – nếu bà ấy đã không dung thứ cho Richard Negus, người sau đó đã nhận ra lỗi lầm của mình, vậy cớ sao lại dung thứ cho cô kia, người đầu tiên tung ra lời dối trá?”
“Có lẽ bà ấy sẽ không dung thứ,” Margaret Ernst nói. “Có lẽ bà ấy sẽ giết nốt cô giúp việc. Tôi không biết số phận cô ta đi đến đâu nhưng Nancy Ducane có thể biết đấy. Có thể bà ấy sẽ săn lùng và giết nốt cô này. Sao thế? Mặt ông sao xám ngoét vậy?”
“Tên… tên cô gái tung tra lời nói dối là gì vậy?” tôi lắp bắp mà lòng e rằng mình đã biết câu trả lời. “Không, không, không thể nào,” giọng nói trong đầu tôi cất lên, “nhưng cớ sao lại không thể.”
“Jennie Hobbs. Ông Catchpool, ông có ổn không vậy? Trông ông không khỏe chút nào cả.”
“Ông ấy nói đúng! Cô ta đang gặp nguy.”
“Ông ấy là ai?”
“Là Hercule Poirot. Ông ta luôn luôn đúng. Sao lại như vậy được nhỉ?”
“Sao ông có vẻ cay cú thế? Ông mong ông ta sai sao?”
“Không. Không phải đâu.” Tôi thở dài. “Tôi chỉ thấy lo cho sự an toàn của Jennie nếu giả thiết cô ta hãy còn sống.”
“Tôi hiểu. Cũng lạ thật.”
“Lạ gì cơ?”
Margaret thở dài. “Bất chấp tất cả những gì tôi nói, tôi thấy khó mà tin có ai đó gặp nguy từ phía Nancy. Dù có hay không có động cơ, tôi vẫn không tin bà ấy là hung thủ. Chuyện đó nghe không thuận… người ta không thể giết người nếu không đắm mình trong những thứ kinh dị và khó chịu, ông nghĩ đúng không?”
Tôi gật đầu.
“Nancy thì lại thích vui nhộn, thích cái đẹp, thích sự thoải mái và thích yêu. Tất cả những thứ vui vẻ. Cô ta chẳng muốn dây dưa với những công việc xấu xa của một kẻ sát nhân đâu.”
“Nếu không phải Nancy thì là ai?” Tôi hỏi. “Ông cụ say xỉn Walter Stoakley thì sao? Là cha của Frances Ive, ông ta cũng có động cơ lớn vậy. Nếu ông ta bỏ nhậu vài ngày, việc giết ba người biết đâu không phải là ở ngoài tầm tay ông ta?”
“Walter không có khả năng bỏ nhậu thậm chí trong một giờ. Tôi có thể cam đoan với ông đấy, ông Catchpool, Walter Stoakley không phải là người ông tìm kiếm. Ông thấy rồi đó, không giống Nancy Ducane, ông ta không bao giờ trách cứ Harriet, Ida và Richard về những gì Frances đã gặp phải. Ông ta chỉ tự trách mình thôi.”
“Do rượu ư?”
“Phải. Walter Stoakley chính là người mà Walter Stoakley quyết giết sau khi mất con gái. Và tôi đoán ông ta cũng sắp thành công đến nơi rồi.”
“Có thể nào việc Frances tự tử là do lỗi của ông ta?”
“Walter xưa nay vốn không sống ở Great Holling. Ông ta chuyển đến đây để ở gần nơi yên nghỉ của Patrick và Frances. Ông sẽ khó tin nổi khi thấy ông ta như hiện nay, nhưng trước khi Frances chết, Walter Stoakley là một nhà kinh điển xuất chúng, hiệu trưởng trường Saviour thuộc Đại học Cambridge. Đó là nơi Patrick Ive đã được đào tạo làm thầy tu. Patrik không có cha mẹ. Ông ta mồ côi từ tấm bé, và Walter đã nhận nuôi ông kiểu như người giám hộ. Jennies Hobbs, khi đó chỉ mới mười bảy tuổi, là người dọn phòng ở trường. Cô là người dọn phòng giỏi nhất trường Saviour, vì vậy Walter Stoakley đã sắp xếp để cô ta chăm sóc phòng của Patrick Ive. Rồi Patrick Ive lấy Frances Stoakley, con gái của Walter, và khi họ chuyển đến nhà mục vụ của nhà thờ Holly Saints, Jennie cũng đi theo họ. Ông hiểu rồi chứ?”
Tôi gật đầu. “Walter Stoakley tự trách mình đã ghép Patrick Ive và Jennie Hobbs vào nhau. Giá như Patrick Ive và Frances đừng đem Jennie theo họ về Great Holling thì cô ta đã không có dịp đưa ra lời nói dối khủng khiếp, dẫn đến cái chết của họ.”
“Và tôi không phải dành cả cuộc đời canh giữ một nấm mộ để đảm bảo không ai phá phách nó.”
“Ai có thể làm một điều như vậy?” tôi hỏi. “Harriet Sippel chăng? Ý tôi là trước khi bà ta bị giết.”
“Ồ, không, vũ khí của Harriet là cái lưỡi tẩm độc của bà ta chứ không phải đôi tay. Bà ta chẳng đời nào đi phá mộ. Không, đó là mấy gã côn đồ trẻ tuổi ở trong làng. Cứ sơ sểnh ra là chúng phá. Khi Patrick và Frances mất, chúng còn là trẻ con, nhưng chúng đã bị cha mẹ nhồi nhét. Ông mà hỏi bất cứ ai ở đây, ngoại trừ tôi và Ambrose Flowerday ra, họ sẽ nói với ông rằng Patrick Ive là kẻ xấu xa, rằng ông ấy đã cùng vợ tiến hành tà thuật. Tôi nghĩ, thời gian trôi qua, hầu hết bọn họ càng tin tưởng điều đó hơn. Họ buộc phải vậy, đúng không ông nhỉ? Họ phải như thế nếu không họ sẽ tự căm ghét mình cũng sâu sắc chẳng kém gì tôi căm ghét họ.”
Có một điều mà tôi muốn làm sáng tỏ. “Có phải Richard Negus cắt đứt quan hệ với Ida Gransbury vì cô ta cứ tiếp tục tố giác Patrick Ive sau khi ông đã nhận thức ra mọi việc? Có phải sau công bố của Nancy tại King’s Head ông ta mới hủy hôn ước?”
Một biểu hiện kỳ lạ thoáng qua khuôn mặt Margaret Ernst. Bà nói: “Cái ngày hôm đó ở King’s Head là sự khởi đầu của…” rồi bà khựng lại và nói trớ đi. “Phải. Ông ta không chịu đựng được nữa sự khăng khăng phi lý của Ida trong công cuộc bảo vệ đức hạnh của cô ta và Harriet.”
Khuôn mặt bà Margaret chợt như đóng lại. Tôi có cảm giác bà ta vừa quyết định không nói ra điều gì đó quan trọng.
“Bà có nói Frances dùng thuốc độc,” tôi nói. “Bằng cách nào? Bà ấy kiếm nó đâu ra? Và Patrick Ive đã chết ra sao?”
“Theo cùng cách: uống thuốc độc. Chắc ông chưa nghe nói về Abrin đâu nhỉ?”
“Quả thật tôi chưa nghe.”
“Nó trích xuất từ một loại cây có tên là cây đậu hồng, rất phổ biến ở vùng nhiệt đới. Frances Ive kiếm được nhiều lọ chứa chất này từ đâu đó.”
“Xin lỗi, nhưng nếu hai người dùng cùng loại thuốc độc và được phát hiện ở bên nhau thì làm sao người ta xác định Frances tự sát trước rồi Patrick làm theo sau, khi phát hiện vợ chết?”
Margaret trông có vẻ cảnh giác. “Ông sẽ không thuật lại cho bất cứ ai ở Great Holling chứ? Chỉ với những người ở Scotland Yard tại London thôi?”
“Vâng.” Tôi quyết định rằng, vì mục đích hiện nay, Hercule Poirot cũng được coi là người của Scotland Yard.
“Frances Ive để lại một lá thư cho chồng trước khi tự sát,” bà Matgaret nói. “Thư đơn giản nói rằng bà mong ông tiếp tục sống không có bà. Patrick cũng để lại một lá thư…” Bà dừng lại.
Tôi chờ đợi.
Một lúc sau, bà nói: “Hai lá thư cho chúng ta biết trình tự các sự kiện.”
“Các lá thư đó ra sao rồi?”
“Tôi hủy chúng rồi. Ambrose Flowerday đưa chúng cho tôi, và tôi đã quẳng chúng vào lửa.”
Lời thú nhận này khiến tôi sửng sốt. “Vì lý do quái quỷ gì bà lại làm như vậy?” tôi hỏi.
“Tôi…” Margaret Ernst khụt khịt, quay mặt đi. “Tôi không biết,” bà cứng cỏi nói.
Chắc chắn bà ta biết, tôi thầm nhủ. Cái miệng mím chặt của bà đã nói rõ bà không có ý định nói thêm lời nào về chủ đề này. Nếu tôi cứ hỏi tới thì cũng chỉ tổ củng cố thêm quyết tâm giấu giếm của bà.
Tôi đứng dậy để duỗi đôi chân lúc này đã trở nên tê cứng. “Bà nói đúng,” tôi nói. “Bây giờ, khi tôi đã biết câu chuyện về Patrick và Frances Ive, tôi quả thật muốn trao đổi với bác sĩ Ambrose Flowerday. Ông ta ở trong làng này vào lúc câu chuyện đó diễn ra. Còn bà, dù câu chuyện của bà có đáng tin cách mấy…”
“Không được. Ông đã hứa với tôi.”
“Tôi rất muốn hỏi ông ta về Jennie Hobbs chẳng hạn.”
“Tôi có thể kể ông nghe về Jennie. Ông muốn biết gì nào? Hình như cả Patrick lẫn Frances Ive đều cho rằng cô ta là không thể thiếu. Họ rất quý mến cô ta. Tất cả mọi người đều nghĩ cô ta điềm đạm, lễ phép, khá là vô hại, cho đến khi cô ta đưa ra lời nói dối thâm hiểm. Cá nhân tôi không tin ai đó từng dựng đứng một lời nói dối kiểu này có thể là vô hại trong phần còn lại của cuộc đời. Và cô ta có những ý tưởng vượt quá địa vị của mình. Cách nói năng của cô ta đã thay đổi.”
“Thay đổi ra sao?”
“Ambrose nói cô ta thay đổi rất đột ngột. Hôm nay cô ta nói theo kiểu người giúp việc, hôm sau cô ta lại nói bằng giọng điệu lịch thiệp hơn hẳn, mà lại rất chuẩn nữa.”
Và với cấu trúc ngữ pháp chuẩn nữa chứ, tôi thầm nghĩ. Ôi, mong đừng ai mở miệng. Ba cái miệng, mỗi cái ngậm một chiếc khuy măng-xét có khắc chữ ở mặt trong: chuẩn về mặt ngữ pháp. Chết tiệt thật, cả trong chuyện này Poirot có lẽ cũng đã đúng.
“Ambrose nói rằng Jennie đổi giọng là nhại theo Patrick và Frances Ive. Cả hai đều là người có học và ăn nói chuẩn mực.”
“Bà Margaret, xin cho tôi biết sự thật: Tại sao bà lại kiên quyết không cho tôi trò chuyện với Ambrose Flowerday? Có phải bà sợ ông ta tiết lộ điều gì đó mà bà không muốn cho tôi biết?”
“Trao đổi với Ambrose sẽ chẳng giúp gì được cho ông, mà lại là trở ngại lớn đối với ông ta.” Margaret nói chắc nịch. “Nhưng tôi cho phép ông khủng bố cuộc sống của mọi dân làng mà ông gặp.” Bà mỉm cười nhưng ánh mắt đanh lại. “Họ đã sợ lắm rồi – những kẻ có tội đang bị thủ tiêu từng người một, và sâu thẳm trong lòng họ hẳn phải biết rằng họ có tội – nhưng họ sẽ còn sợ hơn nếu họ nghe ông nói, bằng ý kiến chuyên gia của ông, rằng hung thủ sẽ không ngơi nghỉ cho đến khi tất cả những ai góp phần hủy hoại vợ chồng Patrick và Frances Ive đều bị lôi xuống hố sâu rực lửa của địa ngục.”
“Nói vậy thì cực đoan quá,” tôi nói.
“Tôi có óc hài hước, không chính thống. Charles thường than phiền như vậy. Tôi chưa từng nói với ông ấy, nhưng tôi không tin có thiên đàng và địa ngục. Ồ, tôi tin là cod Chúa chứ, nhưng không phải Đức Chúa mà chúng ta nghe vẫn nghe truyền tụng quá nhiều.”
Hẳn trông tôi rất sốt ruột. Tôi không thích tranh luận về tôn giáo, tôi muốn trở về London càng sớm càng tốt để kể cho Poirot những gì tôi phát hiện được.
Bà Margaret nói tiếp: “Dĩ nhiên chỉ có một Đức Chúa mà thôi, nhưng tôi không giây phút nào tin rằng người muốn chúng ta mù quáng tuân theo những luật lệ. Chúa cũng không muốn chúng ta xử tệ với những người thất thế.” Bà mỉm cười với vẻ ấm áp hơn. “Tôi nghĩ Chúa cũng nhìn thế giới như cách tôi nhìn, chứ hoàn toàn không theo cách của Ida Gransbury. Ông có công nhận không?”
Tôi ầm ừ cho qua chuyện.
“Nhà thờ dạy rằng chỉ có Chúa mới được quyền phán xét,” bà Margaret nói. “Tại sao Ida Gransbury sùng tín lại không nhắc điều đó cho Harriet Sippel và đám người về hùa theo bà ta? Muốn thể hiện mình là mẫu mực của tính thánh thiện Cơ Đốc thì phải biết tuân thủ những giáo huấn cơ bản chứ.”
“Tôi thấy bà vẫn còn giận dữ về chuyện đó.”
“Tôi sẽ còn giận dữ cho đến ngày nhắm mắt, ông Catchpool ạ. Những kẻ nhiều tội đang nhân danh đạo đức mà hành hạ những kẻ ít tội hơn – đó là điều cũng đáng giận lắm chứ.”
“Đạo đức giả quả là điều xấu xa,” tôi đồng tình.
“Hơn nữa, ta có thể lập luận rằng chẳng có gì là sai trái nếu thực sự yêu một người nào đó.”
“Tôi không chắc điều đó đâu. Với một người đã lập gia đình…”
“Ồ, hôn nhân là vớ vẩn!” Bà Margaret nhìn lên các bức tranh trên bờ tường phòng khách và nói trực tiếp với chúng: “Em xin lỗi, Charles, anh yêu, nhưng nếu hai người yêu nhau thì dù nhà thờ có thấy bất tiện thế nào, dù điều đó có đi ngược lại luật pháp đi nữa thì… vâng, tình yêu vẫn cứ là tình yêu, đúng không anh? Em biết anh không thích nghe em nói vậy.”
Cả tôi cũng không thích. “Tình yêu có thể gây ra hàng đống rắc rối,” tôi nói. “Nếu Nancy Ducane đừng yêu Patrick Ive thì giờ đây tôi đã không có ba án mạng phải điều tra.”
“Thật vớ vẩn.” Margaret nhăn mũi với tôi. “Chính hận thù làm người ta bị giết, ông Catchpool ạ, chứ nào phải tình yêu. Không bao giờ là tình yêu cả. Xin ông hãy nhìn hợp lý.”
“Tôi luôn tin rằng những luật lệ hà khắc nhất chính là những thử thách cho tính cách,” tôi nói với bà.
“Phải, nhưng là thử thách tính cách nào của chúng ta cơ chứ? Nhẹ dạ ư? Hay ngu muội? Kinh Thánh, cùng tất cả những luật lệ trong đó, chỉ đơn giản là một cuốn sách viết ra bởi một hay nhiều người. Lẽ ra nó phải mang một dòng phê, thể hiện một cách nổi bật: ‘Lời của Chúa, do con người bóp méo và xuyên tạc’.”
“Tôi phải đi đây,” tôi nói, cảm thấy không thoải mái trước bước chuyển của cuộc trò chuyện. “Tôi phải về London. Cảm ơn bà đã dành thời gian giúp đỡ tôi. Những gì bà làm thật vô giá.”
“Xin ông thứ lỗi cho,” bà Margaret nói khi tiễn tôi ra cửa trước. “Tôi không thường nói ra suy nghĩ của mình một cách huỵch toẹt như thế, ngoại trừ với Ambrose và Charles-trên-tường.”
“Vậy thì tôi cảm thấy rất vinh hạnh,” tôi nói.
“Tôi đã trải cả cuộc đời tuân theo hầu hết các luật lệ trong cuốn sách cũ bụi bặm, ông Catchpool ạ. Chính vì vậy mà tôi biết đó là một việc ngu xuẩn. Khi những người yêu nhau quẳng những lời răn đe theo làn gió và gặp gỡ nhau khi lẽ ra không nên gặp… thì tôi thấy ngưỡng mộ họ! Cho dù kẻ giết Harriet Sippel là ai, tôi thấy ngưỡng mộ người đó. Tôi không cưỡng được. Điều đó không có nghĩa tôi dung thứ cho việc giết người. Không đâu. Giờ thì ông đi đi… trước khi tôi trở nên lắm lời hơn.”
Trong lúc tản bộ về King’s Head, tôi thầm nghĩ đây là một cuộc trò chuyện kỳ lạ, có thể dẫn ta đến bất cứ đâu. Thường thì ta sẽ kẹt lại cách điểm xuất phát đến hàng dặm mà chẳng có mảy may ý tưởng làm cách nào để quay về. Những lời của Margaret Ernst vẫn văng vẳng trong tai trong khi tôi rảo bước: “Dù điều đó có đi ngược lại luật pháp thì tình yêu vẫn cứ là tình yêu, đúng không anh?”
Đến King’s Head, tôi lên lầu để thu xếp hành lý, cắm cúi bước qua một Walter Stoakley đang ngáy ran và một Victor Meakin đang hau háu soi mói.
Tôi bắt chuyến tàu sớm nhất đi London và hân hoan làm một động tác giả từ Great Holling khi đoàn tàu ra khỏi ga. Dù vui mừng rời khỏi ngôi làng này, tôi vẫn ước mình có thể trò chuyện với ông bác sĩ Ambrose Flowerday. Poirot sẽ nói gì đây khi tôi kể cho ông về lời hứa với Margaret Ernst? Ông sẽ chê bai, chắc chắn rồi, và nói câu gì đó về tính trọng danh dự điên rồ của người Anh. Và chắc chắn tôi sẽ trơ mặt ra, lí nhí những lời xin lỗi thay vì nói ra ý kiến thực của mình, theo đó ta sẽ lấy được nhiều thông tin hơn nếu biết tôn trọng ước nguyện của người nói. Hãy để họ nghĩ ta không ép họ nói điều họ biết và, thường xuyên đến đáng ngạc nhiên, họ sẽ tự nguyện đem đến cho ta đích xác những câu trả lời mà ta tìm.
Tôi biết Poirot sẽ chê trách nhưng quyết định sẽ mặc kệ ông. Nếu Margaret Ernst có thể không đồng ý với Chúa, thì việc tôi thỉnh thoảng bất đồng với Poirot cũng là hoàn toàn bình thường thôi. Nếu ông muốn thẩm vấn bác sĩ Flowerday thì ông hãy tự đến Great Holling mà gặp ông ta.
Tôi hy vọng điều đó là không cần thiết. Nancy Ducane là người mà chúng tôi cần tập trung vào. Việc này và việc cứu mạng Jennie nữa, nếu chưa là quá muộn. Tôi cảm thấy đầy cắn rứt vì đã bác bỏ khả năng gặp nguy của cô ta. Nếu chúng tôi xoay xở cứu được cô ta thì công đầu thuộc về Poirot. Nếu chúng tôi phá được vụ án ở khách sạn Bloxham thì công đầu cũng thuộc về Poirot nốt. Chính thức mà nói, ở Scotland Yard, tôi sẽ được ghi công, nhưng ai ai cũng biết đó là thành tựu của Poirot chứ không phải của tôi. Thật ra, chính vì các sếp của tôi biết có Poirot tham gia phá án mà họ mới để cho tôi – hay nói đúng hơn là cho ông bạn người Bỉ của tôi – được toàn quyền xoay xở. Chính Hercule Poirot lừng danh mới là người được họ ủy thác chứ không phải tôi.
Tôi bắt đầu phân vân, không biết tôi thích mình thất bại nhưng hoàn toàn dựa vào năng lực của tôi, hay thích thành công chỉ nhờ vào sự tham gia của Poirot… và tôi đã cảm thấy buồn ngủ trước khi kịp đi đến kết luận.
Tôi có một giấc mơ – giấc mơ đầu tiên khi đi tàu – trong mơ tôi bị mọi người quen biết quy kết cho một tội nào đó mà tôi không làm. Trong mơ, tôi thấy rõ rành rành nấm mộ của chính mình, với tên tôi khắc trên bia thay cho tên của Patrick và Frances Ive, cùng với bài sonnet về bia miệng ở bên dưới. Trên mặt đất cạnh ngôi mộ có một ánh kim loại, và trong thâm tâm, tôi biết đó là chiếc khuy măng-xét ngập một phần trong đất có khắc tên viết tắt của tôi. Tôi tỉnh dậy khi tàu vào London, mồ hôi ướt sũng và trái tim đập rộn.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Kỳ Án Dòng Chữ Tắt - Agatha Christie Kỳ Án Dòng Chữ Tắt