Some books are to be tasted, others to be swallowed, and some few to be chewed and digested.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 24
Cập nhật: 2020-10-08 20:38:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
II
Sau khi đã lui quân khỏi Nội Bàng, Vạn Kiếp, Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân sự Hưng Đạo vương lại lui quân về giữ sông Thiên Đức và sông Cái là những cửa ngõ vào Thăng Long.
Trước khi rời chiến tuyến sông Thiên Đức để về Thăng Long bệ kiến hai vua, Hưng Đạo vương triệu các tướng vào trong trướng căn dặn:
- Hiện nay Thoát-hoan cùng bè lũ con trời đang rất hung hăng và ngạo mạn, tinh thần đó của giặc cần phải được nuôi dưỡng. Các tướng nên nhớ, tình hình hiện nay chưa đến lúc ta tập trung lực lượng đánh đòn quyết định mà đỡ là chủ yếu. Nhưng đã đỡ ở chỗ nào là phải đỡ hết sức quyết liệt rồi tìm cách lui binh ngay. Phải tỏ cho giặc thấy tinh thần chiến đấu của quân ta so với cuộc chiến năm Ất Dậu tuy không sút giảm, nhưng lực lượng của ta lại quá suy yếu, chứng tỏ quân ta lực bất tòng tâm nên không đủ sức kháng cự. Và như vậy là lực ta yếu kém thật sự, buộc ta phải lui từng bước, phải bỏ từng bộ phận, phải bỏ cả từng vùng rộng lớn cho giặc chiếm. Đó còn thể hiện cho giặc thấy ta quyết giữ nhưng không giữ nổi, chứ không phải ta giả vờ thua.
Nếu các tướng làm đúng như nhời ta dặn, thua đúng như từ ngày giặc vào cõi quân ta đã thua, thời ta có thể lừa giặc vào một thế trận như ta mong muốn.
Quốc công đã biết tường tận Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vừa đại thắng trên mặt trận Vân Đồn, tiêu diệt hoàn toàn đoàn thuyền vận lương của giặc tới mấy chục vạn thạch lương. Việc đó sẽ hãm giặc vào thế bị bức tử, nhưng Quốc công đã không cho hạ cấp biết, sợ họ vì nông nổi mà sinh lòng kiêu ngạo chủ quan coi thường giặc, khó giữ được cái kế mình đang yếu kém để lừa giặc.
Giây lâu Quốc công liếc nhìn từng vị tướng với vẻ thiện cảm và tin cậy, vương nói thêm:
- Phải căng lực lượng của giặc mỏng ra, và phải nhử nó đuổi theo ta cho nó thật mệt mỏi, sức chiến đấu của nó sút giảm, quân nó thiếu ăn thiếu ngủ, ngày đêm lo sợ, lúc đó ta chỉ ra tay một trận là quét sạch giặc như quét rác trên khắp nước ta.
Quốc công nhìn Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật rồi gặng hỏi: - Trong trận cản giặc ở Tam Đái giang vừa qua, công của đệ lớn lắm. Đệ có biết mình đã giết được viên tướng nào của giặc không?
- Quả là đệ không thể biết. Nếu như quân của đệ đã hạ sát được tướng giặc sao vẫn chưa thấy Quốc công và Hoàng thượng ban khen.
- Giặc không loan tin này. Vì còn giấu mình nhằm che mắt giặc nên phía ta cũng coi như không biết. Vì vậy việc khen thưởng phải nén lại. Nhưng ta báo để đệ biết rằng, trận Ngã ba Bạch Hạc tên vạn hộ Đương Tông đã phải đền tội ác. Chiến công oanh liệt đó thuộc về phủ binh của Chiêu Văn vương.
Trần Nhật Duật không giấu nổi niềm vui, ông liền vái Hưng Đạo rồi nói:
- Tạ ơn Quốc công đã xét ghi công trạng.
Căn dặn các tướng xong, Hưng Đạo vương lên ngựa về thẳng Thăng Long. Và vào ngay cung Thánh Từ. Vẫn biết phải làm việc với quan gia là chính, nhưng Hưng Đạo luôn giữ lễ với thượng hoàng Thánh tông. Mặc dù theo thứ bậc trong hoàng tộc, ông là anh và hơn vua Thánh tông tới cả chục tuổi. Ngay với vua Nhân tông, Hưng Đạo vừa là bác vừa là cha vợ nhà vua nhưng ông vẫn luôn giữ phận thần tử.
Vừa trao ngựa cho giám mã, Hưng Đạo đi thẳng vào tiện điện, viên quan nội hầu khúm núm thưa:
- Bẩm Quốc công, thượng hoàng vừa sang cung Quan Triều.
Hưng Đạo rảo bước xuống thềm rồi ông lên ngựa, ra roi đi về hướng cung Quan triều. Bước vào tuổi sáu mươi, tóc râu đều đã bạc, nhưng sức lực của quốc công xem ra còn chắc vững lắm. Cứ xem dáng ông lúc ngồi, lúc đứng hoặc khi lên ngựa xuống ngựa vẫn nhanh nhẹn, thuần thục chẳng khác mấy khi ông còn trong tuổi trung niên chứng tỏ sức lực ông còn dẻo dai. Song điều đáng nói hơn cả là trí não ông còn sáng suốt và tỉnh táo đến không ngờ. Ông luôn giữ được sự điềm đạm, xét đoán thật chi li trước khi giải quyết một điều gì đó. Thường ông hay tham bác ý kiến của các thuộc cấp trước khi quyết định công việc. Không phải việc gì các thuộc cấp nói ông cũng nghe, nhưng ông không bao giờ gạt bỏ các điều đúng dù người nói đó ở cương vị nào, thứ bậc nào trong quân.
Vừa dừng trước cổng cung Quan Triều, viên đô úy cấm quân đã vội thưa:
- Thượng hoàng và quan gia vừa rời cung cách đây nửa giờ.
- Ngươi có biết hai vua đi ngựa hay đi kiệu, và đi về hướng nào? - Hưng Đạo hỏi.
- Bẩm đức ông, thượng hoàng và quan gia đi bộ ạ, cả hai đấng đều đi về phía Cửa Đông.
Hưng Đạo gật đầu tỏ vẻ cảm ơn, thoắt ông đã nhảy lên mình ngựa ra roi đi nước kiệu. Vừa ngắm phố phường, Hưng Đạo vừa mừng thầm: - Vậy là Thượng hoàng còn khỏe, còn giúp quan gia giám sát được công việc hằng ngày. Chính điều này lại khiến ta yên tâm hơn.
Chỉ còn vài ngày nữa là đến tết Nguyên đán nhưng phố xá vắng hoe. Cửa rả, cổng ngõ các nhà đều gài then, chốt khóa. Vườn tược các nhà trắng một màu hoa mai hoa mận, lác đác có những cây đào nở sớm làm ấm cả một góc phố. Tịnh không nghe thấy một tiếng gà gáy, tiếng chó sủa, chứng tỏ Thăng Long đã đi đầu trong nhiệm vụ toàn dân thực hiện kế “Thanh dã” của triều đình. Và bất cứ chỗ nào có khoảng tường trống là ở đó có khẩu hiệu “Thanh dã” hoặc lời hiệu triệu đánh giặc của triều đình.
Hưng Đạo vừa đi vừa xem ngắm phố phường vừa suy ngẫm về tội ác giặc đã từng gieo rắc trên mảnh đất này. Hơn ba năm trước quang cảnh cũng y hệt như vầy, cũng vào dịp giáp tết dân chúng Thăng Long phải rời bỏ kinh thành, rời bỏ phố phường tìm về các miền quê khuất lấp hoặc vào ẩn náu nơi núi rừng hiểm trở để tránh giặc.
Trời rét căm căm, đường phố chỉ loáng thoáng mấy tốp lính tuần tra, vả lại Hưng Đạo đội nón cúp vành, vận áo dài nâu, vài người theo hầu ăn vận sơ sài tựa như dân vùng sơn cước mới về nên không ai để ý.
Hưng Đạo đi qua mấy phố rồi rẽ về bến Đông Bộ Đầu vẫn không tìm thấy hai vua, ông lại ngược về phố chợ Cầu Đông thì thấy hai vua và đoàn tùy tùng đang đi về phường Hà Khẩu. Thật ra Hưng Đạo nhận ra vóc dáng quen thuộc của hai vua chứ các ngài cũng hóa trang làm các thương lái. Để giữ cho kín nhẹm, Quốc công sai Yết Kiêu ra tâu nhỏ với hai vua và xin mời nhà vua trở lại cung Thánh Từ.
Quốc công ruổi ngựa về trước, ông đang tha thẩn nơi vườn ngự thì hai vua bước vào sân điện. Ông vái hai vua rồi cùng bước lên thềm điện.
Trà nô vội dâng trà nóng. Những chén trà bốc khói mờ mờ. Cửa cung đóng kín cũng không ngăn nổi khí lạnh len lỏi đến tận cùng huyết quản. Thượng hoàng Thánh tông sai gấy lò sưởi. Hưng Đạo vội ngăn:
- Đa tạ thượng hoàng có lòng săn sóc, thần dầu dãi gió sương đã quen, nếu bây giờ ngồi cạnh lò sưởi ấm, lúc ra ngoài giá lạnh sẽ không còn đủ sức chịu đựng nữa, nay mai dẹp xong giặc dữ, xin thượng hoàng cùng quan gia cho về hưu trí để dưỡng nhàn nhân thể.
Nghe Quốc công nói, vua Nhân tông thấy xót xa lòng dạ, vua nói:
- Bá phụ tuổi cao mà vẫn phải dãi dầu sương gió xông pha trận mạc, lòng con thật không yên, xin bá phụ hãy bảo trọng tấm thân muôn quý để dùng cho việc lớn quốc gia. Chúng con thân nam nhi không làm tròn trách phận để phụ hoàng cùng bá phụ phải cáng đáng các công việc hệ trọng quốc gia, con thấy điều đó thực đáng mừng cho nước nhưng cũng tự thẹn ở trong lòng.
- Bệ hạ quá lời, chắc là xuất phát từ tình thương máu mủ, thần lấy làm cảm kích. Bệ hạ chẳng thấy người xưa thường nói: “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” đó sao. Tâu, bây giờ chưa thể bàn đến chuyện dưỡng nhàn, cha con Hốt-tất-liệt còn đang định thui nướng cả dân tộc ta. Có mấy việc cấp kỳ thần xin được trình lên thượng hoàng cùng bệ hạ.
Vua Thánh tông mỉm cười, hỏi:
- Ngoài đánh giặc ra còn việc gì quan yếu nữa anh Quốc Tuấn?
- Tâu, đúng như thượng hoàng phán, thần xin nói ngay. Mấy bữa trước, thần đã tâu về việc Nhân Huệ vương đánh tan đội thuyền tải lương của giặc. Nay thần nói rõ hơn. Trần Khánh Dư khôn ngoan bức được một số thuyền giặc phải vào Cửa Vạn. Bắt sống được gần một ngàn tên giặc đi áp tải thuyền lương, thu được vài vạn thạch lương, cất giấu vào trong kho. Khánh Dư còn cản đường buộc các thuyền chạy thoát ở Cửa Vạn phải vào Cửa Đối. Tại đó Nhân Huệ vương lại cho quân mai phục đón đánh; thuyền nào chạy thoát vào trong, đã có quân của Hưng Nhượng vương Tảng mai phục đón đánh; kẻ nào thoát được khu vực Cửa Suốt của Tảng chạy vào Cửa Lục, đã có quân của Chiêu Minh vương Quang Khải cất vó. Tâu, chưa nắm được có bao nhiêu trong tổng số gần một trăm thuyền lương của giặc chạy thoát, nhưng không có một thuyền lương nào của giặc lọt được vào Bạch Đằng để đem lương thực tới Vạn Kiếp cho Thoát-hoan. Tâu, nhờ hồng phúc của tổ phụ, nhờ hồn thiêng sông núi phù trợ nên cuộc kháng giặc lần này chắc bớt gian nan hơn cuộc chiến năm Ất Dậu.
Nghe tin quân ta tiêu diệt hoàn toàn đoàn thuyền tải lương của giặc, hai vua hết đỗi vui mừng.
Vua Nhân tông nói:
- Thảo nào khi nghe tin giặc bắc lại sang, con hỏi: “Thế giặc năm nay thế nào?”. Bá phụ đáp: “Kim niên tặc nhàn”. Bá phụ xét đoán công việc như thần, trách chi cha con Hốt-tất-liệt chẳng thua hoài.
Trần Nhân tông ngửng nhìn Hưng Đạo lại quay nhìn vua cha, bất chợt ngài hỏi:
- Thưa bá phụ, liệu ta đã đủ sức đuổi giặc ra khỏi bờ cõi chưa? Nếu xét thấy đủ lực thời khởi sự lúc này là đẹp nhất.
- Phải, quan gia nói rất đúng, nếu bây giờ ta loan tin cho Thoát-hoan và toàn quân nó biết rằng nó đã bị thắt bao tử, đồng thời thả một số quân chúng bị bắt rải rác từ Cửa Vạn đến Cửa Lục để chúng báo tin thất trận cho nhau nghe, chắc trong quân nó sẽ rối loạn. Anh Quốc Tuấn thử cân nhắc xem, đã đến lúc làm việc này chưa? - Thượng hoàng Thánh tông vừa hưởng ứng điều quan gia nói lại vừa thăm dò ý tứ của quốc công tiết chế.
- Tâu, thần đã có kế phá giặc, bữa nay về đây là nhằm tâu lên thượng hoàng và quan gia kế đó.
Đúng lúc nghe có tiếng ngựa dồn vó rồi có tiếng chân bước mạnh lên bậc thềm.
- Chắc là Chiêu Minh vương về triều kiến.
Hưng Đạo nói chưa dứt lời thì Quang Khải ló đầu vào và nói lớn:
- Khấu kiến bệ hạ! - Ông cúi chào mọi người.
Thấy em từ mặt trận trở về mặt mày tươi rói, nói năng đi đứng ung dung như người mới đi xem hát về, Thánh tông càng thêm vững dạ. Ngài hỏi:
- Chú hai từ ngoài vào có lạnh không? Nghe nói chú cùng Nhân Huệ vương cắt mất bao tử của Thoát-hoan. Phá hết lương của cả một đội quân năm sáu chục vạn, tài như Trương Lương, Gia Cát cũng chưa từng lập được công ấy.
Quang Khải dịu giọng:
- Người có kỳ mưu để Nhân Huệ vương lập được kỳ công ấy chính là anh Quốc Tuấn chớ đâu phải đệ. Đệ chỉ góp phần cắt cái đuôi của nó thôi.
Quang Khải cười lớn, giọng hồ hởi, nói tiếp: - Tâu bệ hạ, nhẽ ra thần phải đóng gông vào cổ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư rồi nhốt vào cũi khiêng về triều cho thượng hoàng trị tội vì đã để thua trận.
- Khánh Dư thua Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp cũng như mấy năm trước đệ thua Toa-đô. Nhưng sau đó Toa-đô bị quân ta chém đầu ở bến Tây Kết, quan gia thương tình cởi áo đắp cho nó. Năm nay, ta ngờ rằng cả Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp cũng lại đi theo số phận của Toa-đô mà thôi. Thượng hoàng Thánh tông nói với Trần Quang Khải một cách hồ hởi, đoạn nhà vua quay về phía Hưng Đạo giục: - Anh Quốc Tuấn nói kế phá giặc đi. May quá hôm nay có anh Quốc Tuấn và Quang Khải cùng về, tôi đã sai phủ Tông chinh sửa lễ cáo tổ tiên nhân sắp đón tết Mậu Tý. Bàn việc xong, mấy anh em cùng đến nhà thái miếu lễ tổ. Sớm mai cho người cất giấu đồ thờ, ngọc phả và di tán mọi người trong phủ Tông chinh đến nơi an toàn.
Biết thời gian vô cùng eo hẹp, dự liệu giặc sắp đánh về Thăng Long, Hưng Đạo vương bèn nói:
- Tâu thượng hoàng cùng quan gia, quân ta đã triệt bỏ toàn bộ phần lương thực gần một trăm thuyền lớn do Trương Văn Hổ tổng quản. Hiện nay Nhân Huệ vương đang trọng trấn tại Vân Đồn, và Khánh Dư sẽ đối trận với bất kỳ loại quân nào xâm nhập vào nước ta qua nẻo Vân Đồn - Bạch Đằng - Vạn Kiếp chứ không cần phải náu mình như trước khi ta đánh vào quân lương của giặc. Và tiếp ứng cho Khánh Dư đã có Quốc Tảng. Như vậy lực lượng của giặc tuy còn rất lớn nhưng sức chiến đấu lại hết sức mong manh. Hiện thời Thoát-hoan vẫn chưa hay tin quân lương của nó đã bị tiêu diệt.
Vừa nghe Hưng Đạo nói, vua Nhân tông liền bày tỏ:
- Bá phụ, sao ta không thả một ít tù binh giặc bắt từ Vân Đồn với một vài vật lấy từ thuyền lương cho chúng đem về Vạn Kiếp cho Thoát-hoan.
- Phải đấy, Thánh tông nói. - Nếu ta làm như vậy, ắt Thoát-hoan phải tính chuyện lui quân ngay - Anh Quốc Tuấn tính sao? - Thượng hoàng hỏi.
Hưng Đạo chưa kịp trả lời, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đã vội nói:
- Huynh trưởng, không thể làm thế được. Thoát-hoan đưa quân vào nước ta là do mưu toan của cha nó. Hốt-tất-liệt muốn gom cả thiên hạ vào tay. Cuộc tái xâm lăng lần này ngoài ý đồ thôn tính còn có chuyện phục thù trận thua năm Ất Dậu. Từ khi giặc vào cõi tới nay, ngoài việc mất sạch lương, lực lượng của giặc thiệt hại không đáng kể, nếu ta để cho giặc rút an toàn chắc sớm muộn chúng lại kéo nhau sang, khiến nước ta lúc nào cũng phải gồng mình lên chống giặc, lúc nào dân nước cũng phải sống trong tình trạng bất an thì an cư lạc nghiệp sao được?
- Vậy anh Quốc Tuấn tính sao? - Thánh tông hỏi.
- Tâu, đúng như điều thượng tướng Chiêu Minh vương vừa nói. Nếu bây giờ để giặc chạy thoát, chắc rồi giặc lại sớm kéo nhau sang. Thần xin dâng kế đánh giặc như sau:
Lần trước giặc sang, cậy ưu thế về kỵ binh, nhưng ta không tiếp chiến với chúng trong mùa đông khô ráo, mà ta phản công giặc vào mùa nóng bức, mưa lụt khiến kỵ binh giặc trở nên vô dụng, và khi cần chuyển quân hoặc chở quân tăng viện phải vượt qua sông khi nước lớn, chúng đều phải bó tay vì không có thuyền, không có quân thủy. Vì vậy, lần này giặc đem vào nước ta tới hơn bảy trăm chiến thuyền với hơn mười vạn quân thủy. Lại đem theo tới mấy chục vạn thạch lương nhằm tính kế lâu dài.
Quân lương của giặc, ta đã tiêu diệt hoàn toàn, nếu ta lại tiêu diệt được đội quân thủy này và không để cho chúng còn được một chiếc thuyền lành lặn quay về, chắc sẽ gây cho giặc nỗi kinh hoàng để dạ. Và như thế có nghĩa là trong tất cả các chủng quân của chúng, không còn một chủng quân nào mà chúng nuôi hy vọng giữ được ưu thế với quân ta nữa. Từ đó có thể làm cho Hốt-tất-liệt thoái chí, hoặc nếu có muốn xâm lược nước ta chúng cũng phải tính toán kỹ và phải chuẩn bị lâu dài.
- Bá phụ, hiện nay giặc đang quy tụ trong vùng Vạn Kiếp, chúng đóng quân theo thế thủy bộ liên hoàn và với lực lượng lớn như vậy, liệu ta có nên đánh chúng vào lúc này không? - Vua Nhân tông hỏi.
- Tâu quan gia, đúng là ta không nên đánh giặc vào lúc nó đang cảnh giác và có ưu thế phòng thủ. Cho nên ta phải kéo giặc chạy theo ta, phải căng nó ra, buộc nó phải rải quân như rải mành mành. Tới lúc đó, ta muốn tiêu diệt giặc như thế nào là tùy ta chọn lựa.
Khi mới vào nước ta, Thoát-hoan hăm hở đánh chiếm Nội Bàng, Vạn Kiếp không mấy thiệt hại. Nhưng chỉ mấy ngày sau đó, hơn năm ngàn quân giặc vào sau, khi qua ải Nội Bàng đã bị quân ta chặn đứng và tiêu diệt gần hết, chỉ còn dăm bảy chục đứa thoát được về Tư Minh.
Tâu, hiện nay ở sau lưng giặc, quân của các tù trưởng đang quấy rối và chặn đường tiếp tế lương thảo của chúng. Mai đây quân của triều đình sẽ phối hợp với quân của các tù trưởng cắt đứt đường tiếp tế lương thảo, sẽ hãm giặc vào cảnh khốn đốn vì thiếu lương. Đương nhiên giặc sẽ sục sạo tìm cướp lương thực do dân cất giấu. Một đội quân năm, sáu chục vạn mà phải lo kiếm lương thực từng bữa, sao quân có thể yên tâm đánh trận được.
Nghe Hưng Đạo nói, thượng hoàng Thánh tông lấy làm đẹp ý, ngài gật gật đầu vẻ hài lòng. Đoạn ngài hỏi:
- Kế của anh Quốc Tuấn khá vẹn toàn. Nếu gây cho giặc thiệt hại đau đớn, thiệt hại to lớn khiến những kẻ đã tham chiến mỗi khi nghĩ đến Đại Việt là sởn da gà, vì vậy mỗi khi Hốt-tất-liệt có lệnh Nam chinh sẽ có nhiều người can gián buộc y phải cân nhắc. Tuy vậy, làm thế nào mà căng được quân nó ra, làm thế nào buộc nó phải rải quân thưa thoáng như rải mành mành.
- Tâu, chỉ nay mai giặc sẽ đánh qua sông Thiên Đức, quân ta cũng kháng cự vừa phải rồi nhường đường cho nó. Tiếp theo giặc sẽ tiến vào Thăng Long. Mục đích của giặc là truy đuổi hai vua, truy đuổi thần. Vì vậy xin thượng hoàng và quan gia cho phép quân đóng giả xa giá cho chúng cứ đuổi theo hút. Vừa đuổi theo ta, chúng vừa phải rải quân giữ các miền đất quan trọng chúng vừa chiếm được như Thăng Long, Hoa Lư, Thiên Trường. Và sớm mai xin thượng hoàng và quan gia cùng thần quay về lộ Hải Đông để điều hành việc đuổi giặc. Tâu, cũng như lần trước rút khỏi Thăng Long, quan gia có dụ triều quan rằng: “Cho giặc ở trọ ít bữa rồi ta sẽ đòi lại”.
Hưng Đạo mỉm cười, khẽ ve vuốt chòm râu bạc và chậm rãi: - Tâu, lần trước ta cho giặc ở trọ hơi lâu, lần này chắc Thoát-hoan không được phép dây dưa. Vả lại giặc muốn đánh nhanh, thắng nhanh, ắt chúng sẽ bộc lộ nhiều sơ hở, ta càng dễ đánh.
Cả hai vua và Quang Khải đều cho kế phá giặc của Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương là thượng sách.
Việc đóng giả xa giá và dụ giặc trao lại cho thượng tướng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cùng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Toàn… đảm trách.
Lại nói Thoát-hoan ở Vạn Kiếp sau khi đã chiếm được một vùng gồm sáu con sông bao lấy cả lưu vực có đồng bằng rộng lớn lại thêm núi rừng hiểm trở và đường giao thông thủy bộ rất thuận lợi cho việc phòng thủ cũng như tiến công. Cùng với đội quân thủy đông đảo, hùng mạnh với hơn bảy trăm chiến thuyền cùng cả vạn quân kỵ phối với mấy chục vạn quân bộ nữa, Thoát-hoan hi vọng sẽ đè bẹp đội quân còm cõi của nhà Trần vào bất cứ lúc nào, mùa nào, thời tiết nào. Tất cả các chủng quân đã về hội đầy đủ tại Vạn Kiếp, chỉ còn chờ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ nữa thì sẽ phái binh đi đánh khắp nơi, đi chiếm Thăng Long bắt vua Trần và Hưng Đạo về trị tội.
Đóng quân yên vị, bố phòng cẩn mật Thoát-hoan cho triệu các tướng cầm đầu các đạo quân vào trướng hổ để nghị bàn.
Điểm mặt ta thấy có: Bình chương chính sự Áo-lỗ-xích, hữu thừa A-ba-tri, tả thừa A-li, hữu thừa Trịnh Bằng Phi, tham tri chính sự Ô-mã-nhi bạt-đô, tham tri chính sự Phàn Tiếp và các tướng Bôn-kha-đa, A-ric Kha-y-a, Ô Vy, Trương Ngọc, Lưu Khuê, A-ruc… và các chư vương Mang-khu-đai, A-tai. Đặc biệt hơn cả là vị thân vương Tích-lệ-cơ[66].
Mở đầu Thoát-hoan hỏi:
- Các ông có biết vì sao lần chinh Giao Chỉ này, quân ta tiến nhanh như vậy không?
Các tướng còn cân nhắc chưa kịp trả lời, Thoát-hoan đã lại nói:
- Theo ta, giặc tuy có ra sức chống cự, nhưng lực lượng của chúng yếu và mỏng. Ngay như ải Nội Bàng, cuộc chiến năm Ất Dậu, Hưng Đạo đánh nhau với ta quyết liệt lắm. Nhưng lần này, ta chỉ cho quân đánh dấn lên một tí, Hưng Đạo đã bỏ chạy. Sớm hôm sau ta sai phó tướng bình chương A-gu-ruc-tri (Áo-lỗ-xích) dẫn một vạn quân bộ với hai ngàn kỵ binh tiến chiếm Vạn Kiếp, Hưng Đạo bỏ chạy chứ không dám giao chiến. Thế mà lần trước các tướng A-lí Hải-nha, Lý Hằng, Lý Quán và cả Trịnh Bằng Phi đây nữa phải đánh tới mấy ngày mới lui được Hưng Đạo. Như vậy có phải cuộc chiến năm Ất Dậu, ta đã tiêu diệt gần hết sinh lực của An Nam và nó chưa kịp hồi phục.
Vừa nghe chủ tướng nói, nhiều người gật gù vẻ thán phục. Ô-mã-nhi tiếp lời ngay.
- Tâu Trấn Nam vương, quả là quân An Nam kháng cự không hơn lũ giặc cỏ. Hải binh của tiểu tướng cứ băng băng rẽ nước như đi vào chỗ không người. Vậy mà cứ ngoa đồn An Nam giỏi thủy chiến. Nhân đà quân khỏe, giặc đang sợ hãi trốn tránh xin Trấn Nam vương cho đánh sớm.
A-ruc, viên tướng chỉ huy mấy trận thủy chiến với quân Đại Việt trong khu vực Tam Đái giang, ngoài bị thiệt hại về quân số và chiến thuyền, y còn bị mất viên tướng vạn hộ Đương Tông. Thiệt hại tuy không lớn, nhưng sự thiện xảo của quân thủy An Nam thì không thể coi thường. Nghĩ vậy, A-ruc bèn lên tiếng:
- Bẩm Trấn Nam vương, đúng là tiềm lực của giặc không có gì đáng kể, nhưng quân thủy của chúng cũng vào loại thiện xảo, nên đề phòng thì hơn.
Bôn-kha-đa viên dũng tướng cùng Trịnh Bằng Phi dẫn quân qua ải Chi Lăng bị quân Trần chặn đánh khốc liệt, nhưng rồi chúng cũng qua được ải này. Nhưng bị cái nhục bọ châu chấu cứt vẫn còn hậm hực nên thấy A-ruc tỏ ý khen đám quân thủy của người An Nam, Bôn-kha-đa tỏ vẻ bực giận, vội nói:
- Quân An Nam tuy có kháng cự lại quân thiên triều, nhưng xem ra thực lực quân nó chẳng có gì. Vì vậy chớ có khen nó mà làm mất nhuệ khí của quân ta.
Các tướng kẻ nói quân An Nam yếu, kẻ bảo quân An Nam cũng đánh giỏi nhưng tựu chung đều coi quân An Nam đã suy sụp, thực lực không còn gì đáng kể, chỉ quét vài trận là xong.
Thoát-hoan nhìn các tướng vẻ hài lòng, nhưng vẫn có điều chưa an tâm liền hướng về phía Ô-mã-nhi hỏi:
- Tham tri bạt-đô, cớ sao Trương Văn Hổ và đoàn quân lương vẫn chưa thấy tới là thế nào. Hay là quân Giao Chỉ đã lén cướp mất lương thực của ta rồi?
Tham tri chính sự Ô-mã-nhi bèn thưa:
- Tâu Trấn Nam vương, tải lương là loại thuyền mành to, mỗi thuyền chở tới mấy trăm thạch làm sao mà đi nhanh được ạ. Còn quân Giao Chỉ thì vương khỏi phải bận tâm. Vả lại Trương Văn Hổ, cha con y chuyên nghề cướp biển thì còn kẻ nào cướp được của y nữa. Ấy là chưa kể một đội năm ngàn quân thiện xảo đi hộ tống cho đoàn thuyền lương nữa. Vả lại mỗi thuyền cũng có tới năm sáu chục quân hải hành được trang bị khí giới đầy đủ. Chắc chỉ nay mai Trương Văn Hổ sẽ về chầu dưới trướng.
Thoát-hoan ngoái nhìn viên phó tướng hỏi:
- Việc trong quân thế nào ông bình chương? Ấy là ta muốn hỏi các việc về hậu cần như lương thực cho quân, cỏ cho ngựa, thuyền bè đóng bù vào số đã mất, đã hỏng trong lúc giao tranh; lại cũng phải đóng thêm để dự trữ khi cần. Rồi trong quân có bị đau ốm do thì tiết, thủy thổ không hợp. Kể cả việc ta dự liệu tiến đánh Thăng Long, truy bắt cha con Nhật Huyên và Hưng Đạo ông trù hoạch đến đâu rồi? Bao giờ thì khởi sự được?
Áo-lỗ-xích là một viên tướng dạn dày kinh nghiệm chiến trường, được đào tạo qua tay của A-lí Hải-nha, Hốt-tất-liệt tin cậy trao cho chức bình chương chính sự, cho ở cạnh thái tử Thoát-hoan ngày đêm giúp rập trong công cuộc Nam chinh. Nghe chủ tướng hỏi, viên phó tướng liền đáp:
- Bẩm Trấn Nam vương, lương thực do quân mang theo đủ ăn trong mươi ngày. Tuy nhiên số lương thực do quân sục sạo vào các nơi cất giấu của dân chúng thu về cũng đủ nuôi quân khoảng hai chục ngày nữa. Hiện còn một số lúa chín muộn dân Giao Chỉ bỏ trốn chưa kịp gặt, tôi đã cho lũ lính Giang Nam đi gặt về và phơi phóng, số lúa này còn đang tận thu chưa tính được. Vả lại nay mai đội quân tải lương của Giao Chỉ hải thuyền vạn hộ Trương Văn Hổ chở đến mấy chục vạn thạch lúa gạo, cỏ ngựa và cả binh khí nữa thì việc lương thảo có thể yên tâm được. Đúng là cỏ ngựa hiện nay đang là mối lo. Bởi xứ này mùa đông thì cỏ lụi, mùa hè thì cỏ hôi, ngựa của ta chỉ quen ăn cỏ trên thảo nguyên. Nếu không có cỏ khô phải cho ăn bằng lúa thì vô cùng tốn kém, nuôi một con ngựa bằng nuôi cả chục tên quân. Sức khỏe trong quân hiện nay đang tốt bởi khí hậu cũng lạnh se như phương bắc. Tuy nhiên nếu trời đổ mưa dầm thì lũ quân Giang Nam chỉ tìm nơi đốt lửa sưởi mà quân phương bắc cũng rất khó chịu. Lại thêm nỗi tết nhất sắp đến, đám quân người Trung Hoa càng tỏ vẻ nhớ nhà. Việc đóng thuyền bè đang trôi chảy, ngoài việc đóng thuyền mới, quân còn đi cướp được của dân thuyền chài Giao Chỉ cũng được vài trăm chiếc có thể dùng tạm được.
Bẩm Trấn Nam vương theo tôi nghĩ, quân không nên cho nghỉ lâu. Nghỉ lâu sinh trễ biếng, quần tụ dễ nảy chuyện không hay, chi bằng ta cho quân đánh thần tốc về Thăng Long nhân sắp tết, cha con Nhật Huyên đang lo cúng tế tổ tiên, chắc quân nó có phần bê trễ.
Thoát-hoan tỏ vẻ hài lòng bèn hỏi lại:
- Vậy lúc nào ta có thể khởi binh được?
Áo-lỗ-xích đáp:
- Tâu, nếu Trấn Nam vương ra lệnh, quân có thể lên đường bất cứ lúc nào.
- Các tướng nghe ta nói đây, Thoát-hoan hạ lệnh. - Mọi chủng quân đều phải chuẩn bị sẵn sàng, trong hai hoặc ba ngày nữa ta xuất binh đánh Thăng Long. Đầu giờ thìn ngày mai, các tướng đến nhận kế tại doanh của ông bình chương, vừa nói Thoát-hoan vừa chỉ tay vào viên phó tướng Áo-lỗ-xích.
Tiếng hô đồng thanh: - Tuân mệnh!
Rồi ai về trại ấy.
Tại Thăng Long, Hưng Đạo đã rước hai vua xuống thuyền từ nửa đêm xuôi về đại bản doanh của ông để các ngài giám sát thế trận và cả huấn hỗ khi cần. Cùng đi theo hai vua có thượng tướng Chiêu Minh vương Trần Quang Khải cùng với số quân của phủ Chiêu Minh, các vệ tả hữu Kim ngô, Thần bổng, Tứ thiên, Tứ thánh đều theo vua hộ giá. Và khi cần, quân hộ giá sẽ là quân tăng viện. Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão đã vào cấm thành nhận mệnh, chỉ còn các phó tướng trấn tại cửa sông Thiên Đức nối với sông Cái - cổng vào Thăng Long bằng đường thủy.
Thành Thăng Long vắng hoe, phố phường không một bóng người. Ngay cả đám khách trú cũng buộc phải di tán sâu về các miền quê khuất lấp, bởi như cuộc kháng giặc năm Ất Dậu, dân khách trú ở lại thuần đi lùng sục khắp nơi lấy lương thực, thực phẩm về bán cho giặc. Cũng không ít kẻ chỉ đường dẫn lối cho giặc đi đánh quân ta hoặc moi móc các hầm cất giấu lương thực.
Thỉnh thoảng lại ló một toán dân binh phối với quân tứ sương đi tuần tra các phố, đề phòng quân gian hoặc trộm cắp lọt vào hôi của.
Mờ sáng ngày hai mươi ba tháng chạp, hữu thừa A-ba-tri lĩnh hai ngàn kỵ binh xuất phát từ Vạn Kiếp, hữu thừa Trịnh Bằng Phi lĩnh hai vạn bộ binh xuất phát bằng thuyền từ Lục Đầu giang, ngược về phía sông Thiên Đức, tham tri chính sự Ô-mã-nhi và tham tri chính sự Phàn Tiếp đem theo bốn trăm chiến thuyền cùng năm vạn quân thủy, sau khi đánh chiếm Thăng Long, nếu chưa bắt được cha con Nhật Huyên và Hưng Đạo thì truy đuổi tiếp, và tách ra một bộ phận cùng với quân kỵ về chiếm Thiên Trường, Long Hưng…
Khoảng đầu giờ thân ngày hai mươi ba tháng chạp quân kỵ của giặc đã tới đoạn gần ngã ba nơi sông Thiên Đức và sông Cái[67] gặp nhau. A-ba-tri ghìm cương ngựa nhìn dòng sông mà ngán ngẩm. Cho dù mùa nước cạn xem ra vẫn còn mênh mang lắm, và nước vẫn chảy xiết như thể ném lao. Y khẽ hất bả vai trái, nơi mắc hai cây cung[68] một dài một ngắn, lập tức cây cung ngắn tách ra khỏi bả vai, tay phải y đỡ lấy và vòng tay trái về phía sau gáy nhón một mũi tên từ trong giỏ đeo sau lưng. Chỉ trong chớp mắt A-ba-tri đã kịp lắp tên và giương cung căng hết cỡ bắn chúc xuống lòng sông, mũi tên nổi bềnh lên ngay sau đó. A-ba-tri xoay ngựa đi lại mấy vòng quanh khu vực để quan sát địa hình. Y phóng tầm mắt nhìn qua sông Cái về phía bờ tây, biết ở phía sau những dải rừng xanh mút tầm nhìn và lúc nào cũng phủ mờ sương khói kia là kinh thành Thăng Long. Muốn vào Thăng Long, đương nhiên phải vượt qua được dòng sông vừa rộng vừa sâu này. Sông rộng, nước sâu kỵ binh muốn qua phải có cầu phao hoặc phải dùng thuyền. A-ba-tri lấy mắt ước lượng chiều rộng của lòng sông Cái. Y vẫy một kỵ đội theo sau đi thám sát nơi nghi là trận địa của quân Đại Việt mà y gọi là nơi quân Giao Chỉ ẩn nấp.
Gần cuối giờ dậu chiến thuyền của Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp cũng đã tới. Quân bộ đưa lên bờ phối với quân kỵ đứng rợp cả bờ sông.
Trời chạng vạng tối, gió bắc thổi miên man, mưa dầm nặng hạt, đâu đó tiếng chuông chùa ngân nghe như ứ nghẹn trong cảnh chiều thê lương. Cả một vùng đồng ruộng, sông nước, rừng rậm tịnh không một bóng người qua lại, không cả một làn khói bếp, nếu không có tiếng chuông nhà Phật cứu rỗi, ta ngỡ đây là vùng đất chết.
Viên bình chương chính sự phó tướng Áo-lỗ-xích đang đứng quan sát xem đối phương phục quân ở đâu và quân Nguyên sẽ giăng thế trận ở đâu, chợt nghe tiếng chuông khiến y thẫn thờ.
Kỳ lạ, viên hữu thừa A-ba-tri dẫn kỵ đội tới đây thì dừng lại, Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp, Trịnh Bằng Phi vừa tới đây cũng cho quân dừng lại. Dường như lũ tướng giặc dạn dày trận mạc này có cái mũi thính của loài diều quạ, thoáng chút là chúng đã đánh hơi được mùi tử khí.
Bóng tối ập xuống nhanh như một cái bẫy sập, và gió rét luồn lách vào tận tủy xương khiến đám quân Nguyên cứ xích lại gần nhau vừa tránh gió vừa truyền hơi ấm cho nhau. Lũ ngựa phương bắc tuy quen cái lạnh băng tuyết của vùng thảo nguyên, cũng tỏ vẻ khó chịu với cái lạnh khác thường của xứ sở xa lạ này, chúng luôn đập móng, đổi chân, cử động thân thể, dường như chúng làm thế là để chống lại cái giá lạnh của phương nam.
Giữa lúc các tướng giặc còn đang quan sát địa hình, bất thình lình có một tiếng nổ rồi nhiều tiếng nổ vang ầm như sấm động, và từ mọi phía quân Đại Việt ào lên đánh vỗ mặt quân Nguyên với các loại binh khí như giáo, mác, mã tấu, đoản đao. Quân Đại Việt xuất hiện như một thứ âm binh đội đất lên và xông thẳng vào đám giặc còn đang ngơ ngác.
Quá bất ngờ, cả tướng và quân giặc đều hốt hoảng giẫm đạp lên nhau tìm đường tháo chạy. Quân ta chém giết mỏi tay cho tới khi lũ giặc lùi khỏi tầm tay thì các chiến binh Đại Việt lại dùng cung, nỏ bắn đuổi. Người ngựa chết lăn quay hoặc giẫm đạp lên nhau, khiến những tên giặc đang ngắc ngoải kêu rên, la thét thật là thê thảm. Đây là đám giặc trên bộ, còn đám giặc dưới sông nơi gặp gỡ giữa sông Thiên Đức và sông Cái, Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp đang nghênh ngang cho quân xuôi thuyền về phía hạ lưu, phía kinh thành Thăng Long. Với vẻ coi thường quân Đại Việt và với ý muốn tiến thật nhanh về Thăng Long mưu lập công đầu, Ô-mã-nhi sai quân cứ thế giong buồm chứ không chờ quân kỵ, quân bộ đi trên bờ sông cùng nương tựa vào nhau mà tiến.
Do vậy cùng lúc các quân kỵ, quân bộ của giặc ở trên bờ bị đánh tơi tả, tranh nhau tháo chạy thì trên mặt sông, quân ta tập trung mọi nỗ lực bắn cháy ngay lập tức gần chục chiến thuyền đi đầu. Do buồm bị cháy, dây lèo bị đứt, thuyền chững lại quay ngang và những chiếc đi sau không hãm kịp, cứ thế đâm vào nhau gãy vỡ liên hoàn, trong thoáng lát nước tràn làm chìm hết chiếc nọ đến chiếc kia và chúng dính mắc vào nhau cản đường tiến, thoái.
Trong lúc giặc đang rối loạn thì chiến thuyền của quân ta phục trong các khe, lạch hoặc ẩn trong các bờ cói lác cao lút đầu người ùa ra đông như lá tre quây chặt lấy đoàn chiến thuyền của Ô-mã-nhi. Quân ta đánh rất táo bạo, nhảy ào lên thuyền giặc đâm, chém, giằng co, vật lộn rồi đẩy chúng xuống sông hoặc kéo giặc xuống sông mà dìm chết.
Giữa lúc giặc đang hoảng loạn thì từ bốn phía đều vang lên tiếng tù và, tiếng trống đồng, tiếng hò reo vang dội khắp mặt sông. Khắp bốn bề đều thấy lửa cháy bốc cao ngút trời và các âm thanh nhọn sắc từ trống đồng phát ra làm lộng óc quân thù khiến tâm thần chúng càng thêm hoảng loạn không biết chống đỡ bằng cách nào. Quân ta đánh ào ạt chừng nửa canh giờ vừa đốt vừa đánh đắm tới năm, sáu chục chiến thuyền. Giặc vừa bị quân ta giết trên thuyền, đẩy xuống sông hoặc lôi giặc xuống sông dìm chết, hoặc chúng lúng túng chết theo thuyền chìm, hoặc chúng chạy trốn nhảy liều xuống sông do không biết bơi mà chết. Tất cả những cái chết ấy khiến giặc hoảng sợ và chống đỡ thật là yếu ớt.
Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp ở phía sau thấy tình thế bất lợi, thúc quân tiến lên tiếp chiến. Nhưng trong đêm cuối năm trời tối đen như mực không phân biệt đâu là quân Nguyên, đâu là quân Việt, Ô-mã-nhi sai hàng trăm chiến thuyền chắn ngang dòng sông vừa để trợ chiến cho các chiến thuyền đang đánh nhau ở phía trước vừa ngăn không cho quân Đại Việt tiến lên. Vì thế những chiến thuyền quân Nguyên đang bị quân Đại Việt bao vây mặc nhiên bị bỏ rơi và mặc sức cho quân Đại Việt chém giết tơi bời.
Chừng như việc giáng cho quân Nguyên một đòn như thế là đủ, bỗng một loạt pháo thăng thiên làm sáng rực cả trời đêm và tiếng trống đồng cùng tiếng kèn hối thúc, như phía Đại Việt lại sắp mở một đòn tiến công khốc liệt khiến quân Nguyên thay vì chống đỡ yếu ớt, chúng liền co cụm lại với nhau. Chính lúc đó, quân Đại Việt biến vào bóng đêm như họ đột ngột xuất hiện.
Trận đánh bất ngờ của quân Đại Việt khiến cả quân bộ, quân kỵ, quân thủy của Thoát-hoan thiệt hại nặng nề và chúng phải lui quân tới hai mươi dặm mới dừng quân hạ trại và chờ qua ba ngày sau mới dám tiến binh. Lần này giặc tiến quân thận trọng hơn. Hai quân mã, bộ nương tựa vào nhau và có cả bộ phận đi song hành với quân thủy trên bờ sông. Đoạn đường từ sông Thiên Đức về tới trại Bồ Đề Gia Lâm giặc phải đi ròng rã suốt một ngày đêm, nhưng không gặp bất cứ một sự chặn ngăn chống đối nào của quân Đại Việt.
Thoát-hoan sai lập doanh trại và cho quân mai phục đúng như cách đây mấy năm y đã chiếm đóng khu vực này. Vừa hạ trại xong được vài canh giờ, quân tuần thám đã bắt đưa về đại bản doanh một người bản xứ mà chúng cho là quân gian tế.
Xét hỏi, người đó dâng lên một bức thư. Chúng dâng thư đó đến tận tay Trấn Nam vương Thoát-hoan. Thoát-hoan sai hữu thừa Trịnh Bằng Phi mở đọc. Thư rằng:
Hưng Ninh vương Trần Tung cúi đầu kính dâng thư này lên Trấn Nam vương.
Nghe danh đại vương từ lâu, nay mới được thấy oai trời. Quốc vương tôi run sợ, sai tôi viết biểu trần tình.
Kính bẩm đại vương, nước tôi bé nhỏ nép ở góc cùng trời cuối biển, một lòng thờ thượng quốc, đời đời là nước phên dậu. Không hiểu vì cớ gì năm Ất Dậu thiên tử phái đại binh sang giày xéo vương thổ, đốt phá vương đình, tàn sát sinh linh khiến nước tôi lâm vào suy kiệt.
Chưa được ba năm, tang tóc còn bao phủ khắp chốn cùng nơi, dân tình còn điêu háo; nay không hiểu vì cớ gì thiên binh lại ầm ầm vào cõi, khiến trăm họ sợ hãi trốn chạy vào rừng sâu hang núi, làm quốc chủ tôi hết sức đau lòng.
Thương dân vô tội phải chịu lầm than, quốc vương tôi tự biết phận nước nhỏ không thể chống lại nước lớn, sức con bọ ngựa sao cản nổi chiếc càng đại xa.
Vậy xin đại vương nới tay tàn sát cho dân tôi được sống yên ổn để quốc vương tôi thu xếp ngày một ngày hai sẽ tới diện trình tại nơi trướng hổ.
Thư nói chẳng hết lời, kính mong đại vương đèn giời soi xét. Và xin sớm được hồi âm để hẹn ngày ra mắt.
Tuệ Trung Thượng sĩ Hưng Ninh vương Trần Tung kính bái.
Nghe lời lẽ trong thư tỏ ra nhu thuận, Thoát-hoan gần như có phần hài lòng. Y quay hỏi tả hữu:
- Các ông thấy thế nào? Có phải An Nam núng thế xin hàng hay nó định trá hàng đây.
Hữu thừa Trịnh Bằng Phi tỏ ra am tường người Đại Việt, y nói luôn:
- Bẩm Trấn Nam vương, dân Giao Chỉ tráo trở, xin chớ vội tin.
Bình chương Áo-lỗ-xích lại nói khác:
- Cứ xem cách đánh của người Giao Chỉ cũng có phần kiên cường, quyết liệt, nhưng vì lực nó quá yếu nên từ khi ta đưa quân vào đất nó tới nay, chưa có ải nào nó giữ nổi lấy ba ngày, chưa có trận nào gọi là đại trận. Vì vậy việc nó xin hàng đây có thể tin tới sáu, bảy phần, xin Trấn Nam vương cân nhắc.
Tham tri chính sự Ô-mã-nhi cũng xin nói:
- An Nam thường tự phụ có đội quân thủy thiện xảo thế mà khi thủy binh của ta vào nước nó, chỉ có vài trăm đứa ở mũi Ngọc Sơn đánh đấm nhì nhằng như bầy giặc cỏ, đại binh ta chưa kịp ra tay thì chúng đã trốn chạy không biết đâu mà truy tầm nữa. Cùng với các cửa ải lần này chúng kháng cự đều yếu ớt, chứng tỏ cuộc chinh phạt năm Ất Dậu mới đây của Trấn Nam vương đã làm suy kiệt nước nó. Vì vậy việc Nhật Huyên phải đưa anh họ nó ra xin thương thảo đầu hàng với Trấn Nam vương là bởi An Nam đã tới bước đường cùng. Tuy vậy để chúng không còn khả năng tráo trở như ông hữu thừa Trịnh Bằng Phi vừa tâu báo, xin Trấn Nam vương cho đánh dốc vào Thăng Long, truy bắt cho bằng được cha con Nhật Huyên và Hưng Đạo. Nếu bắt được mấy người này, cuộc chinh phạt An Nam coi như hoàn tất, Trấn Nam vương chỉ việc chia Giao Chỉ thành quận huyện, đặt quan cai trị và ngài xin với thiên tử ở lại làm tiểu vương ở cái xứ rừng vàng biển bạc này chẳng hay lắm sao.
Nghe Ô-mã-nhi nói, Thoát-hoan cảm thấy nhẹ người và y cảm như chiến thắng trọn vẹn đang trong tầm tay.
Tả thừa A-li cũng phụ họa:
- Tâu Trấn Nam vương, sau khi đặt quan cai trị xong, Trấn Nam vương nên nghĩ ngay đến việc bức hàng Champa, Chân Lạp, Tiêm La… cả một dải đất phương nam mênh mông và giàu có phụ vào đế quốc của thiên tử. Sau kỳ công vĩ đại này, chắc thiên tử sẽ hài lòng ân thưởng cho chủ tướng và tiến phong ngài tước đại vương.
Thoát-hoan nghe tả hữu tâu báo thấy đều có lý. Hắn có vẻ hài lòng, liền phán:
- Nếu được như điều các ông nói, mà ta chắc sẽ được như vậy, ta cũng muốn ở lại đất này. Vả nếu ta được thiên tử mông ân cho ở lại, tất ta không chịu cho các ông về lại Trung nguyên đâu. Chẳng nhẽ khi gian nan có nhau mà khi hưởng phú quý lại chỉ có một mình ta sao. Ngẫm nghĩ giây lâu, Thoát-hoan lại nói: - Ta thấy Ô-mã-nhi nói cũng có lý, nhân nó đang sợ hãi, ta phải cấp kỳ truy đuổi, bắt được bọn đầu sỏ ương bướng trái mệnh, chắc công việc bình định của ta sẽ sớm viên thành. Vậy các ông thử bày kế trong những ngày tới nên tiến binh thế nào? Liệu ta có thể chia binh quây gọn Thăng Long mà bắt lấy chúng không?
Ô-mã-nhi xin nói:
- Tâu Trấn Nam vương, muốn quây gọn Thăng Long ta phải có quân ở mặt nam. Điều này hiện thời chưa làm được, bởi quân ta và quân Giao Chỉ đang phân chia thành hai tuyến bắc - nam. Muốn có quân mặt nam ta phải cho quân thủy đi đường biển vào cửa Đại An chiếm lấy Thiên Trường. Rồi từ Thiên Trường tiến về Thăng Long theo hai đường thủy bộ. Và từ mặt bắc này ta vượt qua sông Cái để úp lấy Thăng Long.
- Không! Không thể làm như vậy được, Thoát-hoan chặn ngay. Làm theo kế của Ô-mã-nhi thì trọn vẹn nhưng quá chậm, e rằng cha con Nhật Huyên chạy trốn đến tận Champa mất. Theo ta phải đánh cấp kỳ, phải dùng đại lực lượng mà uy hiếp nó, phải đuổi thật gấp để nó không trốn chạy đằng nào cho kịp.
Thoát-hoan nhìn chư tướng và dừng lại nơi Áo-lỗ-xích và hỏi:
- A-gu-ruc-tri, ông tính sao?
- Bẩm vương, ý của vương là sáng suốt, nên thực hiện ngay để quân kia không kịp xoay trở.
Hữu thừa A-ba-tri cũng hùa theo:
- Bẩm khi giặc đã ở thế yếu thời phải đánh cho nó không kịp xoay trở, khiến nó chạy không kịp thở nữa kia. Làm theo kế của Trấn Nam vương là thượng sách. Để chặn giặc không kịp tháo chạy, không nhất thiết phải phái thủy đội hùng mạnh như bạt-đô tướng quân nói, mà theo tôi, ta nên phái năm ngàn kỵ binh phi thẳng về Thiên Trường, chặn đứng cửa Hải Thị để giặc không có đường trốn ra biển. Nếu Trấn Nam vương cho phép, tôi xin lĩnh kỵ đội đi chặn giặc.
Với vẻ khoái hoạt, Thoát-hoan nói lớn:
- Các tướng bàn rất hợp ý ta. Các ông về lo liệu việc quân mình cho chu đáo, giờ sửu ngày kia ta tiến đánh Thăng Long. Sau khi đại quân đã qua sông, hữu thừa A-ba-tri đem toàn bộ kỵ đội của ông ruổi ngay xuống Thiên Trường chứ không dừng lại Thăng Long. Ô-mã-nhi bạt đô cũng đem hơn ba trăm chiến thuyền đuổi gấp cha con Nhật Huyên. Hữu thừa Trịnh Bằng Phi đem năm vạn quân đánh qua Trường Yên, chặn đường thiên lý không cho quân An Nam chạy trốn vào Thanh Hóa. Bình chương chính sự phó tướng Áo-lỗ-xích sau khi đã cho quân an vị ở Thăng Long phải trở lại ngay Vạn Kiếp đề phòng Hưng Đạo có thể tập kích lấy lại căn cứ của ta. Các ông nên nhớ Vạn Kiếp vừa là đầu não vừa là huyết mạch của chiến trường An Nam, ai chiếm được nó sẽ làm chủ đất này.
Như có điều gì ám ảnh làm Thoát-hoan đột nhiên biến sắc mặt, giọng có vẻ lo âu quay về phía các tướng và hỏi: - Đã hơn một tháng sao vẫn chưa thấy đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tới là cớ làm sao?
Câu hỏi của Trấn Nam vương khiến mọi người giật thột như bước chân trần lên mặt hồ đóng băng.
Huyết Chiến Bạch Đằng Huyết Chiến Bạch Đằng - Hoàng Quốc Hải Huyết Chiến Bạch Đằng