This will never be a civilized country until we expend more money for books than we do for chewing gum.

Elbert Hubbard

 
 
 
 
 
Tác giả: Jules Verne
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 53
Cập nhật: 2021-05-22 19:07:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11 - Sắp Xếp Nội Thất Động Người Pháp - Dỡ Đồ - Viếng Mộ Nạn Nhân - Gordon Và Doniphan - Lò Bếp - Săn Chim Và Thú - Con Nandu - Dự Định Của Service - Mùa Thời Tiết Xấu Đã Tới
uộc đổ bộ được tiến hành trong tiếng reo vui của các em nhỏ. Ở tuổi các em, mỗi đổi thay trong cuộc sống bình thường được xem như một trò chơi mới. Dole nhảy chân sáo trên bờ như một chú dê non. Iverson và Jenkins chạy về phía hồ, còn Costar thì kéo Moko ra, hỏi:
- Trưa nay có bữa ăn ngon, phải không?
- Thôi hãy cho qua chuyện ấy đi, cậu Costar! - Moko trả lời.
- Vì sao thế?
- Vì làm gì có thời gian để nấu bữa trưa hôm nay.
- Vậy là không được ăn trưa à?
- Không, nhưng mà sẽ ăn tối. Thịt ô tác ăn vào buổi tối là nhất đấy! - Moko cười để lộ hàm răng trắng đẹp.
Costar vỗ vào lưng Moko ra chiều thân thiện, rồi chạy theo các bạn. Briant đã khuyến cáo các em không được đi chơi xa chỗ mọi người để mắt được. Cậu hỏi em trai:
- Em không đi với mấy đứa kia à?
- Không, em thích ở lại đây. - Jacques trả lời.
- Em phải hoạt động một chút chứ, - Briant nói tiếp, - anh không hài lòng về em. Jacques, em giấu anh điều gì phải không?… Hay là em đau ốm?
- Không, anh ạ! Em không sao…
Lần nào cũng câu trả lời ấy khiến Briant không hài lòng. Cậu quyết định phải làm cho rõ chuyện, dù có phải to tiếng với chú em bướng bỉnh này.
Tuy nhiên, nếu đêm nay muốn ngủ trong động Người Pháp thì không thể lãng phí thời gian. Trước hết phải dẫn những người chưa biết vào xem động. Vì thế, sau khi neo bè chắc chắn bên bờ lạch, Briant đề nghị các bạn đi theo mình. Chú thủy thủ tập sự xách theo một đèn hiệu, nhờ có lăng kính làm tăng gấp bội quang năng của ngọn lửa nên sáng quắc.
Trước hết phải dỡ những cành cây lấp cửa động vẫn y nguyên như bữa trước, chứng tỏ không có người đụng chạm vào. Sau khi dỡ hết rào, mọi người chui qua cửa động hẹp vào bên trong. Dưới ánh đèn hiệu, lòng động được soi tỏ gấp bội ánh sáng ngọn đuốc nhựa thông, hay ngọn nến thô sơ của nạn nhân người Pháp.
- Chà! Thế này chúng mình phải ở chật đây! - Baxter nhận xét sau khi đo chiều sâu của động.
- Xì! Thì ta chồng các giường ngủ lên nhau, như ở khoang tàu. - Garnett lên tiếng.
- Cần gì phải thế, - Wilcox bác lại, - chỉ cần xếp đệm thành hàng trật tự trên nền đất.
- Thế còn lối đi lại? - Webb phản đối.
- Thì đừng đi lại nữa! - Briant trả lời. - Cậu có ý kiến gì hay hơn nữa không, Webb?
- Không, nhưng…
- Nhưng - Service vặc lại, - quan trọng là có một chỗ trú ẩn đủ cho chúng mình! Chẳng nhẽ cậu Webb nhà ta tưởng nơi đây là một căn nhà hoàn chỉnh có phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, tiền sảnh, buồng hút thuốc, phòng tắm…
- Không, - Cross nói, - nhưng cũng phải có chỗ để nấu ăn chứ?
- Cháu sẽ nấu bên ngoài động, - Moko trả lời.
- Thế thì sẽ rất bất tiện khi thời tiết xấu! - Briant nhận xét. - Mình nghĩ là ngày mai ta phải đưa bếp lò của tàu vào trong động.
- Lò bếp đặt ngay trong hang, nơi chúng ta ăn, chúng ta ngủ… - Doniphan phản đối, lộ rõ sự ghê tởm.
- Thế thì hãy ngửi muối*, thưa ngài Doniphan! - Service mỉa mai kèm theo một tiếng cười thẳng thắn.
Tức là muối amôni để cho người bị ngất ngửi.
- Nếu tớ thấy phù hợp, phụ bếp ạ! - Cậu bé kiêu kì cau mày trả đũa.
- Thôi!… Thôi!… - Gordon vội nói. - Việc này dù có dễ chịu hay không thì ban đầu cũng phải thực hiện thôi. Với lại bếp lò vừa dùng để đun nấu, lại vừa sưởi ấm trong động. Còn muốn ở rộng hơn thì chúng ta có cả mùa đông để khoét vách đá, nếu có thể. Ban đầu thì hãy cứ theo nguyên trạng mà sắp xếp đã.
Trước bữa ăn trưa, các giường ngủ được xếp đều trên nền cát trong động, tuy ken sát nhau, nhưng các chú bé đã quen với những khoang chật hẹp trên du thuyền nên cũng chẳng mấy bận tâm.
Việc sắp đặt chiếm hết cả buổi chiều. Chiếc bàn lớn của du thuyền được đặt giữa động và Garnett, được các chú bé phụ việc mang các dụng cụ nhà ăn vào, phụ trách bày bàn ăn.
Về phần mình, có Service đỡ một tay, Moko làm việc rất tốt. Một cái bếp - hai hòn đá to kê bên vách ngang - được Webb và Wilcox tiếp tế củi khô nhặt dưới các gốc cây bên bờ lạch. Đến 6 giờ, món bò hầm tức là món thịt đã chín sẵn, chỉ cần đun sôi lại mấy phút là được, tỏa mùi thơm dễ chịu. Việc này không cản trở một tá tinamou đã vặt lông cẩn thận, xâu vào que sắt, được quay trước ngọn lửa nổ lép bép, bên dưới đặt một cái đĩa hứng mỡ mà Costar đang muốn nhúng một mẩu bánh quy vào, trong lúc Dole và Iverson tận tâm đảm đương việc quay xâu chim. Phann chăm chú theo dõi các hoạt động ấy với cái nhìn rất có ý nghĩa.
Gần 7 giờ, mọi người có mặt đông đủ ở căn phòng độc nhất, vừa là phòng ăn, vừa là phòng ngủ của động Người Pháp. Các ghế đẩu, ghế gấp, ghế đan của tàu Sloughi cùng với các ghế dài ở khoang thủy thủ đều được mang vào. Các thực khách được chú thủy thủ phục vụ và tự phục vụ, đánh chén một bữa no nê. Xúp nóng, bánh nhân thịt, tinamou quay, bánh quy thay bánh mì, nước pha mười phần trăm rượu brandy, một mẩu pho mát và một cốc rượu sherry tráng miệng, bù lại những bữa ăn đạm bạc mấy ngày vừa qua. Dù hoàn cảnh ngặt nghèo nhưng các em bé vẫn hồn nhiên vui vẻ đúng như lứa tuổi của các em và Briant cũng chẳng bắt các em phải nén tiếng cười đùa.
Hôm ấy là một ngày vất vả. No bụng rồi chẳng ai muốn gì hơn là nghỉ ngơi. Nhưng trước đó, Gordon được một tình cảm thành kính mách bảo, đề nghị các bạn ra viếng mộ François Baudoin, người chủ trước của nơi trú ẩn mà họ đang thừa hưởng.
Màn đêm buông xuống, chân trời và hồ nước cũng chẳng còn phản chiếu những ánh ngày cuối cùng nữa. Sau khi vòng qua vách ngang, các cậu bé dừng lại trước một lùm đất nhỏ, trên cắm một cây thập tự gỗ. Thế rồi, bé thì quỳ, lớn thì cúi mình trước nấm mồ đọc kinh cầu Chúa cứu rỗi linh hồn nạn nhân.
Đến 9 giờ, các giường ngủ đã có người nằm và vừa chui vào giường ai nấy đều đánh ngay một giấc ngon lành. Riêng Wilcox và Doniphan đến phiên trực thì giữ cho đống lửa to cháy suốt đêm ở cửa động, vừa để xua đuổi những vị khách nguy hiểm, vừa sưởi ấm cho phía trong động.
Hôm sau, mùng 9 tháng 5 và ba ngày tiếp theo, tất cả mọi người đều phải tham gia bốc hàng từ bè lên. Đã thấy những đám hơi nước tích tụ không tan cùng với gió tây báo hiệu sắp mưa, thậm chí có thể mưa tuyết. Nhiệt kế không lúc nào chỉ cao hơn 0°C. Những chỗ cao chắc là đã lạnh đi nhiều. Phải đưa vào động những thứ dễ hư hỏng như đạn dược, thực phẩm rắn và lỏng.
Công việc cần kíp như thế nên những ngày này, nhóm săn thú không đi xa. Tuy nhiên, thủy cầm đầy rẫy trên mặt hồ, hoặc trên đầm lầy bên bờ lạch nước nên Moko không thiếu nguyên liệu nấu ăn. Có thừa dẽ giun, vịt trời, vịt đuôi nhọn, mòng két cho Doniphan trổ tài thiện xạ. Mặc dầu săn bắn may mắn mà Gordon vẫn phiền lòng vì số thuốc súng và đạn chì đã tiêu thụ. Cậu luôn muốn bảo toàn đạn dược mà cậu đã ghi chính xác số liệu trong sổ. Vì thế, cậu yêu cầu Doniphan tiết kiệm từng phát súng. Cậu bảo:
- Đó là vì lợi ích tương lai chúng ta.
- Đồng ý thôi, - Doniphan trả lời, - nhưng cũng phải dự trữ kha khá thực phẩm nữa. Chúng ta sẽ hối hận nếu thiếu thực phẩm dự trữ khi có cơ hội rời khỏi đảo…
- Rời đảo!… - Gordon hỏi - Liệu chúng ta có khả năng đóng được một con tàu đi biển không?
- Tại sao không, Gordon, nếu gần đây có một châu lục?… Dù sao mình cũng không muốn chết ở nơi này như đồng hương của Briant!
- Được thôi, - Gordon trả lời, - tuy nhiên trước khi nghĩ đến chuyện ra đi, ta hãy làm quen với ý nghĩ là buộc phải ở lại đây hết năm này qua năm khác!
- Thật đúng là ông bạn Gordon của tôi! - Doniphan kêu lên. - Mình dám chắc cậu say sưa với ý tưởng lập một khu định cư…
- Có thể thế, nếu không khác được!
- Này Gordon, mình không nghĩ là cậu tập hợp được nhiều người đồng tình với ý thích của cậu đâu, kể cả bạn Briant thân thiết của cậu!
- Chúng ta còn thời gian để bàn chuyện này, - Gordon trả lời, - và nhân nói về Briant thì, Doniphan ạ, mình xin nói là cậu đã đối xử không phải với cậu ấy. Cậu ấy là người tốt và đã nhiều lần tỏ ra tận tụy…
- Thế sao, Gordon! - Doniphan bác lại, không giấu giọng miệt thị. - Briant có đủ mọi đức tính!… Đó là một loại anh hùng…
- Không, Doniphan, cậu ấy cũng như chúng ta thôi, có khuyết điểm chứ. Nhưng thành kiến của cậu với cậu ấy có thể dẫn đến bất hòa khiến cho tình cảnh của chúng ta khó khăn hơn. Briant đã được tất cả quý mến…
- Ối! Tất cả!
- Hoặc ít ra là phần lớn bạn bè. Mình không hiểu sao Wilcox, Cross, Webb và cậu lại không muốn hòa hợp với cậu ấy. Nhân tiện mình nói thế thôi Doniphan, mình chắc cậu sẽ suy nghĩ…
- Đã nghĩ chín rồi Gordon ạ!
Biết rằng anh chàng kiêu ngạo này chẳng coi những lời khuyên của mình vào đâu, Gordon rất phiền lòng, vì cậu thấy trước sẽ có nhiều điều phải lo buồn trong tương lai.
Như đã nói ở trên, việc dỡ hàng trên tàu được hoàn thành trong ba ngày. Nhiệm vụ còn lại là tháo gỡ sàn và gầm bè vì cần những phiến và tấm gỗ để sắp đặt nội thất động. Khốn nỗi trong động không còn chỗ chứa nữa. Nếu không mở rộng thêm thì buộc phải làm một cái lán để bảo vệ các ba lô đề phòng thời tiết xấu. Trong khi chờ đợi, theo lời bàn của Gordon, các vật dụng đã được xếp vào góc vách đá ngang rồi lấy những tấm bạt quét hắc ín trước đây dùng để che các cửa chấn song và ca pô của du thuyền phủ lên.
Ngày 13, sau khi chuyển được lò bếp trên các con lăn vào động Người Pháp, Briant, Baxter và Moko phụ trách lắp đặt. Họ kê bếp sát vách bên phải, gần cửa để có điều kiện thông hơi tốt nhất. Việc bố trí ống khói cũng có chút khó khăn. Tuy nhiên do đá vôi vách động khá mềm nên Baxter cũng đục được một lỗ thủng, lắp được ống cho khói bếp thoát ra ngoài động. Đến khi đốt lò buổi chiều, chú thủy thủ tập sự hài lòng thấy lò hoạt động tốt. Như vậy cả khi thời tiết xấu việc nấu ăn vẫn được đảm bảo.
Tuần lễ tiếp theo, Doniphan, Webb, Wilcox và Cross, thêm Garnett và Service nữa, được thỏa mãn thú đi săn. Một hôm, họ vào khu rừng bạch dương và sồi ven hồ, cách động Người Pháp khoảng nửa dặm và thấy ở mấy chỗ có dấu vết lao động của con người khá rõ ràng. Đó là những cái hố có cành cây gác trên miệng, được đào khá sâu để con vật nào sa xuống thì không lên được. Hiện trạng những hố đó chứng tỏ chúng được đào nhiều năm rồi. Trong một hố còn thấy xương của một con vật khó đoán là loài nào.
- Dù sao thì đây cũng là một con thú lớn! - Wilcox vừa nói vừa nhanh nhẹn tụt xuống hố, nhấc lên những khúc xương đã trắng vì thời gian.
- Và là một con vật có bốn chân vì có bốn xương cẳng chân. - Webb thêm.
- Trừ phi ở đây có những con vật năm chân, còn con này là một con cừu hoặc một con bê kì lạ. - Service đáp.
- Cái tên Service này bao giờ cũng đùa được. - Cross nói.
- Thì có ai cấm cười đâu! - Garnett bác lại.
- Điều chắc chắn là, - Doniphan tiếp lời, - con vật này rất khỏe. Cứ xem đầu nó to thế kia và hàm vẫn còn răng nanh! Nếu thích thì Service cứ việc nói đùa về những con bê làm xiếc, những con cừu để đưa ra hội chợ của hắn, nhưng nếu con vật bốn chân này mà sống lại thì mình tin là hắn chẳng còn bụng dạ nào mà cười đâu.
- Trả đòn hay lắm! - Cross kêu lên, luôn sẵn sàng tán thưởng những lời đối đáp mà cậu cho là tuyệt diệu của anh họ.
- Thế cậu nghĩ đây là một loài ăn thịt à? - Webb hỏi Doniphan.
- Đúng, không còn nghi ngờ gì nữa!
- Một con sư tử?… Một con hổ à?… - Cross hỏi, vẻ chưa tin chắc lắm.
- Nếu không là sư tử hay hổ, thì ít ra cũng là một con báo đốm hoặc một con báo sư tử.
- Thế thì ta phải đề phòng! - Webb nói.
- Và đừng đi quá xa! - Cross thêm.
Service bảo chú chó:
- Phann, mày có nghe thấy không, ở đây có thú lớn đấy.
Phann sủa lên một tiếng vui vẻ, chẳng tỏ ra lo lắng chút nào. Các chàng thợ săn sắp sửa ra về thì Wilcox nói:
- Mình có ý kiến là ta gác cành cây lên hố này. Biết đâu lại chẳng có con vật nào sa xuống.
- Tùy cậu thôi, Wilcox. - Doniphan trả lời. - Còn tớ, tớ thích hạ một con vật đang sống tự do hơn là giết nó dưới đáy hố.
Lời nói ấy tỏ rõ tinh thần thượng võ của kẻ đi săn, còn nhìn chung thì ý thích tự nhiên của Wilcox là đặt bẫy tỏ ra thực tế hơn. Thế là cậu sốt sắng thực hiện đề xuất của mình với sự giúp đỡ của các bạn, chặt những cành ở các cây cạnh đó gác lên miệng hố. Cái bẫy thật thô sơ, nhưng những người săn thú vùng Pampas cũng thường dùng cách này và vẫn có kết quả tốt. Để nhận ra nơi này, Wilcox bẻ một số cành cây từ đó ra bìa rừng làm dấu rồi tất cả về động Người Pháp.
Việc săn bắn có kết quả tốt. Các loài chim săn đầy rẫy. Ngoài ô tác và tinamou, còn có nhiều chim lông đốm trắng như lông gà sao, hàng đàn bồ câu rừng, ngỗng Nam cực thịt khá ngon sau khi chế biến cho mất mùi dầu. Còn các loài thú thì đại diện có: những con “tucutuco”, một loài gặm nhấm xứng đáng thay cho thỏ nhà để nấu món xốt vang; những con “mara”, một loài thỏ rừng lông xám hung, đuôi có vạch đen, chất lượng dinh dưỡng hoàn toàn giống chuột thỏ “agouti”; những con tatu “pichi” là động vật có vú nhưng lại có vảy xếp như cái mai trên lưng, thịt ngon tuyệt; những con “pécari” là loài lợn nhỏ; và những con “guaçuli” trông giống hươu và cũng nhanh nhẹn như thế.
Doniphan cũng hạ được mấy con. Nhưng lại gần chúng rất khó, nên kết quả không tương xứng với lượng đạn dược tiêu thụ. Điều đó làm chàng thợ săn trẻ không hài lòng và dẫn đến những nhận xét kể trên của Gordon mà những kẻ hâm mộ cũng như cậu đều không thích nghe.
Cũng trong một chuyến đi dã ngoại, Briant đã phát hiện loài cây quý ở ven hồ và các cậu đã hái về khá nhiều.
Đó là rau cần dại mọc đầy các bãi đất ẩm và mầm cải xoong, có tác dụng chống bệnh scorbut rất hiệu nghiệm. Từ đó bữa ăn nào cũng có hai loại rau này.
Ngoài ra, do mặt hồ và lạch nước chưa đóng băng nên cậu câu được khá nhiều cá trắm, lại cả cá măng nữa - thứ cá này ngon, nhưng phải coi chừng bị hóc vì rất lắm xương. Cuối cùng, một hôm, Iverson đắc thắng mang về một chú cá hồi rất to mà em đã phải vật lộn khá vất vả, suýt nữa thì gãy cần câu mới kéo được nó lên. Thế là đã đến mùa cá hồi từ biển bơi ngược vào lạch nên các cậu bắt được khá nhiều để dự trữ làm thức ăn rất quý cho mùa đông.
Trong thời gian đó, cái hố của Wilcox cũng vẫn được thăm nom nhiều lần, tuy đã để một miếng thịt to làm mồi mà chẳng có con vật nào sa xuống. Đến ngày 17 tháng 5 thì có một sự kiện xảy ra. Hôm ấy, Briant và vài cậu nữa tới cánh rừng cạnh vách đá nhằm tìm xem gần động Người Pháp có hang động tự nhiên nào khác để chứa những vật dụng còn phải để ở ngoài hay không. Tới gần chỗ có cái hố, họ nghe thấy những tiếng kêu quang quác. Briant đang đi về phía ấy thì lập tức Doniphan đuổi kịp vì cậu không muốn bị vượt trước. Theo sau mấy bước là các bạn khác, súng cầm tay. Chó Phann hai tai vểnh, đuôi dựng lên đi theo. Họ đến cách hố độ hai mươi bước thì tiếng kêu càng lớn. Giữa giàn cành lá là một lỗ thủng to, do con vật làm bung ra khi sa vào hố. Con vật gì thì chưa biết, tốt nhất là phải đề phòng cẩn thận.
- Tiến lên, Phann!… Tiến lên, Phann!… - Doniphan gọi.
Lập tức chú chó vừa sủa vừa lao tới, không có vẻ sợ sệt gì. Doniphan và Briant lại sát miệng hố, cúi xuống để nhìn cho rõ.
- Lại đây!… Lại đây! - Hai cậu gọi.
- Không phải báo đốm à? - Webb hỏi.
- Cũng không phải báo sư tử chứ? - Cross thêm.
- Không!… Một con vật hai chân! Con đà điểu!
Đúng là đà điểu thật. Rất đáng mừng là đảo lại có loài dã cầm này vì thịt chúng rất ngon, nhất là thịt ở ức rất chắc. Gọi là đà điểu không sai, nhưng tầm vóc của nó chỉ vào cỡ trung bình, đầu giống đầu ngỗng. Toàn thân phủ một lớp lông mịn dày màu xám trắng, nó được xếp vào loài “nandu”, tương tự đà điểu ở vùng Pampas, Nam Mỹ. Tuy không thể sánh ngang đà điểu châu Phi, nhưng nó cũng làm vinh dự cho hệ động vật của xứ sở này.
- Phải bắt sống! - Wilcox nói.
- Tớ tin là được! - Service reo.
- Chẳng dễ đâu! - Cross trả lời.
- Ta cứ thử xem! - Briant nói.
Sở dĩ con vật khỏe mạnh này không thể thoát ra khỏi hố là vì đôi cánh không đủ sức nâng nó lên mặt đất, thành hố thì thẳng đứng, đôi chân không có chỗ tựa để nhảy lên. Wilcox buộc phải tụt xuống đáy hố với nguy cơ lĩnh mấy nhát mổ, bị trọng thương không chừng. Tuy vậy cậu đã trùm được áo va-rơi lên đầu nó, buộc nó đứng yên không nhúc nhích. Thế là cậu dễ dàng trói được hai chân nó bằng mấy chiếc mùi soa nối lại với nhau. Rồi mọi người chung sức, trên kéo, dưới đẩy, đưa được con vật ra khỏi hố. Webb reo:
- Thế là chúng mình bắt được rồi!
- Dùng làm gì đây? - Cross hỏi.
- Rất đơn giản! - Service đáp, vẻ hoàn toàn tin tưởng. - Ta mang nó về động Người Pháp, thuần dưỡng nó làm vật cưỡi. Tớ đảm nhận việc này như anh bạn Jack trong truyện Robinson Thụy Sĩ ấy.
Mặc dầu đã có tiền lệ mà Service nêu, nhưng liệu có thể sử dụng con đà điểu như thế không, ít ra cũng là chuyện phải bàn. Tuy nhiên việc mang con vật về động Người Pháp thì chẳng có trở ngại gì nên đã được thực hiện.
Khi thấy con nandu, có thể Gordon cũng hơi ngại, sợ phải nuôi thêm một miệng ăn. Nhưng nghĩ lại nó chỉ ăn cỏ và lá cây nên cậu cũng hoan nghênh, còn các chú bé thì hớn hở được tới, tất nhiên là không quá gần, để ngắm con vật đã buộc bằng sợi dây dài. Và khi biết Service định huấn luyện nó làm ngựa thì các chú buộc anh phải hứa cho mình cưỡi.
- Được! Nếu mấy nhóc ngoan. - Service trả lời và được các chú bé coi như anh hùng.
- Chúng em sẽ ngoan! - Costar hét.
- Sao, cả em nữa à, Costar? - Service hỏi. - Cả em cũng đòi cưỡi con vật này à?
- Ngồi sau lưng anh… và ôm anh thật chặt… có được không?
- Thế em có nhớ hôm cưỡi rùa đã sợ thế nào không?
- Chuyện ấy khác. - Costar trả lời. - Ít ra thì con này cũng không xuống nước!
- Không xuống nước nhưng nó lại bay lên không! - Dole nói.
Thế là hai chú bé đâm ra nghĩ ngợi.
Từ khi định cư ở động Người Pháp, Gordon và các bạn đã tổ chức sinh hoạt đi vào nề nếp. Đến lúc việc bố trí ăn ở đã ổn định, Gordon dự định sắp xếp người nào việc ấy, nhất là không để cho các em bé lêu lổng. Hẳn là các em cũng không đòi hỏi gì hơn là được tham gia vào công việc chung, phù hợp với sức mình. Nhưng tại sao không dạy các em những bài tiếp theo trong chương trình học ở trường Chairman? Cậu nói:
- Ta có sách nên có thể học tiếp được. Vậy những gì ta đã học và còn học được thì nên tận dụng để truyền đạt cho các em. Thế mới đúng!
- Phải đấy! - Briant tán thành. - Nếu một ngày nào đó chúng ta có thể rời nơi này trở về gặp lại người thân trong gia đình, thì bây giờ ta phải cố gắng không để lãng phí thời gian quá.
Mọi người nhất trí sẽ thảo một chương trình, sau khi được tất cả bổ sung và thông qua thì sẽ thực hiện nghiêm chỉnh.
Thật vậy, mùa đông tới sẽ có nhiều ngày thời tiết xấu, các cậu cả lớn lẫn bé đều không ra ngoài động được nên phải sử dụng thời gian sao cho hợp lí nhất. Trong khi chờ đợi, điều phiền phức nhất cho cư dân động Người Pháp là căn phòng duy nhất này quá chật chội. Phải tính đến việc mở rộng không chậm trễ để hang động đạt được kích thước cần thiết.
Hai Năm Trên Hoang Đảo Hai Năm Trên Hoang Đảo - Jules Verne Hai Năm Trên Hoang Đảo