Khi phải chống chọi với những thử thách của cuộc sống, bạn đừng vội nản lòng. Bởi đó là cơ hội tốt để những khả năng tiềm ẩn trong bạn có dịp được phát huy.

S. Young

 
 
 
 
 
Tác giả: Ma Văn Kháng
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 40
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 256 / 21
Cập nhật: 2020-06-05 12:47:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
uàng cái túi lanh qua vai, Pao bước vào bếp. Bà Xóa đang ngồi thái măng ở đó. Pao đứng sau bà, khẽ mấp máy môi:
— Bà ơi, bà ở nhà, cháu đi đây!
Bà quay cổ lại, khó nhọc. Pao vội đi ra phía trước bà, ngồi xuống, tay nắm tay bà:
— Cháu đi vài hôm rồi cháu về!
— Mày đi, tao ở nhà chết thì sao?
Pao rùng mình. Năm nay, một trăm linh ba tuổi bà bỗng nói tới cái chết. Buổi chôn chị Pàng, bà nói: “Cỗ ván dành cho bà, con Pàng lại nằm vào trước. Pao à!". Bà ra tận mộ chị Pàng, bà khóc với Pao. Bà già, huyết mạch đều suy rồi, liệu bà có qua được nỗi đau buồn này không? Cái chết của chị Pàng sao nặng nề thế, nó kéo theo cái buồn đến chết của nhiều người. Đứng dậy, Pao nghĩ: “Đi nhanh rồi về, vào rừng tìm cây ngọc am, xẻ cho bà cỗ ván mới. Lử không làm thì gọi thằng Pùa đi. Nó dắt trâu kéo", rồi chào bà, đi ra.
Pao ra ngoài nhà tìm hố pẩu. Hố pẩu đi sang nhà lý trưởng Giàng Súng, chắc lại bàn chuyện thời thế. Lử đã theo ý hố pẩu, đi Pha Linh hỏi xem vua H'Mông sắp ra chưa? Thằng Pùa đã đi thả trâu từ sớm.
Pao dắt con ngựa. Qua thăm mộ chị Pàng ở đầu làng rồi đi đến nhà ông lão Pâu. Cứ nhớ tới cái lúc ông lão vừa ăn miếng thịt vừa mếu máo khóc, Pao lại thấy ngùi ngùi, lại hốt hoảng: chỉ sợ ông lão không chịu nổi cay đắng, tự tử chết.
— Cháu đi đâu đấy, Pao? — Ông lão đang ngồi chuốt nan lù cờ, ở cái hiên sáng nắng, thấy Pao buộc ngựa ở cây vông, nghển lên, hỏi.
Pao bước vào cái sân nhỏ đầy rêu:
— Cháu đi Pha Linh.
— Đi một mình à?
— Không, đi dẫn đường cho người ta.
— Người ta thuê cháu à?
— Không! Cháu giúp họ thôi. Cán bộ Việt Minh ấy mà!
Ông lão buông rơi cái nan. Chân co, chân duỗi khẳng kheo. Ngực lép. Cổ dài, cái bìu đầy hốc xương dưới cổ nhún nhún. Ông lão nuốt nước bọt, hai con mắt mờ mờ đưa đẩy, cái miệng ho hó hở hai chiếc răng xam xám:
— Cháu à, Việt Minh có... tốt không?
Pao ngồi xuống thềm:
— Ông ơi, chính họ đã cứu ông đấy?
— Họ cứu lão à?
— Vâng. Lúc ông bị bọn người nhà tri châu thắt cổ, thì Việt Minh họ tới đấy.
— Thế à?
— Chính ông kể đấy, ông quên rồi à?
Bóng nắng đã lan tới hiên. Ông lão buông cái nan, thẫn thờ. Pao dắt con ngựa ra đường.
Nắng phớt vàng màu quả đào chín. Châu lỵ Pa Kha khoanh trên một quả đồi mu rùa. Một con đường xếp đá phiến xanh dẫn lên phố. Cái phố xin xít những nhà đá, nhà gạch, nhà mái tôn, mái cỏ, mái ván, quây một vòng tròn trên đỉnh đồi. Phố mới mẻ lạ. Phân trâu, phân ngựa mọi ngày phơi rải rác, nay đã thu gọn từng đống. Ba bốn người đang lúi húi cọ rửa cái bể hứng nước máng ở giữa phố. Cạnh đó, lò rèn đang phì phụt tiếng bễ. Tàn than li ti như hoa cải bay trên nóc nhà lợp ống vầu. Tiếng rìu đẽo nạng thồ cạch cạch đều đều trong vắng vẻ. Mấy bà già bó chân, đội mũ nhung đang khom lưng đảo bắp, ý dĩ phơi trên những cái nong to.
Con ngựa của Pao vun vút chạy, quặt qua cái miếu thờ Khổng Tử ở đầu phố. Cạnh cây gạo ở bên kia đường mấy người đeo súng tay gài băng đỏ đang đứng lục soát mấy cái bị của một phụ nữ Kinh tóc uốn, mặc áo dài màu xanh cổ vịt.
Con ngựa hí ròn một hơi dài, đổi sang nước kiệu. Đường bằng. Đất gợn sóng. Từ xa, Pao đã trông thấy hai con ngựa: một trắng, một xám, tiến lại. Anh ghìm con ngựa hồng. Hai con ngựa nọ đã vụt tới, quay nửa vòng trước anh.
Bụi đỏ dưới chân ngựa khua rộn bốc lên mờ mờ.
— Chào Pao, Pao đã đến rồi đấy à? — Chính dong con ngựa trắng lại gần Pao. Vẫn cái mũ nồi, cái áo vét ka-ki, bên trong một cái áo len xanh giản dị, bên sườn phình một túi dết màu cỏ, nhưng trên ngựa, trông Chính cao hơn, tươi trẻ hơn.
— Chào anh Chính.
— Ta chia tay thôi, đồng chí Kiến! — Quay lại phía sau, Chính giơ tay.
Kiến giật cương, con ngựa thấp của anh sát lại cạnh con ngựa của Chính.
— Đồng chí Chính! Đồng chí đi một mình, tôi không yên tâm.
— Tôi có cả Pao đây rồi!
Lướt qua mặt Chính ánh mắt trìu mến của Pao và của Kiến.
— Đồng chí Chính! — Kiến cắn môi, khe khẽ. — Đồng chí là thượng cấp, đồng chí có quyền quyết định. Nhưng, tôi vẫn chưa thật thông đâu: Có cần thiết phải một mình một ngựa đến Pha Linh sào huyệt của La Văn Đờ như đồng chí không?
— Cần thiết! Rất cần thiết! — Con ngựa bạch hất đầu, bức bối, Chính nhìn Kiến, rắn rỏi: — Cái chúng ta cần không phải chỉ là mấy tay súng. Đồng chí có hiểu ý mình nói không? Pha Linh không phải chỉ có La Văn Đờ. Pha Linh là đồng bào H'Mông quần chúng của chúng ta.
Kiến chìa tay:
— Thôi được, lên đường bình an!
Nắm chặt tay người đồng chí, Chính chớp chớp mắt:
— Chú ý những điều mình đã nói với nhau đêm qua. Nắm vững sách lược của đoàn thể.
— Tôi nhớ! Thế nào rồi bọn họ cũng phá ta. Tôi sẽ nhẫn nại. Đồng chí mang túi thuốc chưa?
— Có rồi! Nhớ liên lạc với Châu, Đắc ở làng Nhuần. Nhắc Châu tìm đường dây với Tâm ở tỉnh lỵ. Nghe nói đã cứu được Tâm. Tìm ngay! Quên, còn đồng chí người Nhật, Tô-yô-ma ấy mà, bảo Đắc tranh thủ nhờ đồng chí ấy huấn luyện cho bộ đội.
Con ngựa hồng đứng lâu đã cuồng cằng, nhoai cái cổ lờm xờm lông bờm hí một tiếng ngắn. Chính rời Kiến. Kiến giơ tay:
— Chào Pao nhé!
Con ngựa hồng quay ngoắt, Pao không kịp chào, nhún người theo nhịp con ngựa chạy. Con ngựa của Chính đã cách ngựa Pao mấy nhịp phi.
Cô ngựa trắng Chính cưỡi là của ông cu đầu tộc dòng họ Tần, người Dao, ở làng Nhuần nơi đặt bản doanh của Ban cán sự tỉnh, ban lãnh đạo công cuộc giải phóng Lào Cai, thật là cô ngựa hay. Nó hoàn toàn hiểu ý chủ, chiều theo ý thích của chủ. Bốn vó xoải dài, mình chuyển mềm mại, nó chạy mà như bay.
Đường ngược dốc, hun hút. Mây bụi lăn tăn tan trong nắng sớm chứa chan cảm hứng nhuộm vàng từng chóp núi.
Núi đất tiếp núi đá, tưởng như cả đời đi cũng không ra khỏi vòng vây của núi. Lơ thơ bóng cây chè già, vàng ánh sắc búp non trên các tán lá cao. Loáng thoáng hình cây tông-qua-mu rũ rượi lá cành xanh đẫm. Và tràn ra, trong mênh mông là những sườn núi ố vàng sắc gianh già tiếp nối những khoảng rộng xam xám, ngầu ngầu bụi cây rành rành khô xác.
Càng lên cao những ngọn núi càng trơ trụi. Vắng lặng, không một tiếng chim vang. Chỉ có róc rách tiếng nước chảy trong các khe lạch đâu đó và tiếng vó ngựa khua ròn trong mê mải đường trường.
Thấm mệt, Chính cho ngựa đi lững thững để chờ Pao. Nhưng vừa ngoái cổ lại sau, anh bỗng nghe thấy tiếng Pao hú gọi ở phía trước. Thúc ngựa lên, kịp Pao, Pao lại để Chính đi trước. Nhưng chỉ lát sau, Chính lại nghe thấy tiếng Pao và tiếng chàng ngựa hồng trai trẻ hí gọi cô ngựa bạch của anh ở phía trước rồi.
— Pao đi lối nào mà nhanh thế?
— Em đi tắt mà! Anh có mệt không? Còn lên cao nữa đấy!
Đường lên cao dần. Trời xanh nhức như dát bằng ngọc quý. Cây thông xòe cánh bay trên vách đá dựng đứng. Giữa cái khe núi, thấp thoáng những khoảng sâu thẳm màu hoa cà. Trong im lặng như từ trời cao rót xuống, trên những sườn dốc xanh tươi, những làng H'Mông biên giới xúm xít mái phủ rêu đỏ rung rinh trong không khí ảo ảo mờ mờ.
Chính đang đi vào một xứ sở lạ. Khác hẳn cái không khí ngầu ngầu bụi than ở những hầm mỏ. Khác hẳn những vùng đồng chiêm trũng, những vùng núi đá vôi lô xô từng ngọn biệt lập ở Ninh Bình. Khác hẳn những đồng lúa ngọt ngào tiếng hát quan họ vùng Bắc Ninh. Hà Nội ồn ào. Nhà pha Hỏa Lò nóng sôi. Chiến khu Vần thênh thang. Những nơi Chính đã sống, đã qua trong cuộc đời cách mạng hơn chục năm qua, đều không có một nét nào giống với cảnh quan vùng anh đang đi tới đây.
“Ta đi vào nơi chưa biết. Chân đi, mắt nhìn bốn phía, nghe ngóng, chờ đón mọi việc sẽ xảy ra. Một cái vực sâu chờ đón? Không! Ta đâu chỉ là một mình! Đằng sau ta là cả đất nước, đoàn thể....".
Thúc ngựa đi lên cạnh Pao, ý nghĩ vẫn dập dờn trong óc Chính: “Muốn giữ được phong trào, phải có người. Ở đây, sau này cứ mười cây số sẽ phải cắm một cơ sở”.
Đường đổ dốc, quanh co như rắn bò. Đá lăn lốc cốc. Hai người xuống ngựa. Lát sau, có tiếng gì ào ào dội vách núi.
— Gì vậy, Pao?
— Sông Chẩy đấy, anh Chính.
Sông Chẩy! Giữa hai vách đá dựng thẳng như hai vệt chém, phăng phăng chảy một dòng nước xanh đen. Vắt từ bờ này sang bờ kia hơn hai chục mét, một dải cầu đan bằng mây treo trên hai sợi song lớn bằng cổ tay, đang rung rinh nhịp đưa võng.
"Làng Nhuần ở phía dưới kia. Châu ở đó đang lo việc tổ chức cơ sở để giải phóng Lào Cai. Mình tin ở Châu. Như tin ở Kiến. Châu điềm đạm, vững vàng. Năm băm tám, hôm sau là 1 tháng 5 sẽ có cuộc mít tinh lớn, mình đến tòa báo "Tin tức” gặp Châu đã ở đó. Mới độ mười tám tuổi. Từ một cái làng ở Nho Quan lên. Cổ còn đeo cây thập ác. Nhỏ nhắn, chỉ hai con mắt là to. Hôm sau, Châu đi với đoàn phụ nữ mít tinh biểu dương lực lượng ở Đấu Xảo. Bảy năm sau, Xứ ủy giới thiệu: “Bổ sung cho cậu đi giải phóng Lào Cai một nữ cán bộ nhé! Một đồng chí đã được rèn luyện từ cơ sở". Châu đã lãnh đạo nông dân trong các Hội cấy, Hội gặt ở làng quê, trong phong trào khất thuế ở Nho Quan... Trung ương, Xứ đã cho thêm cán bộ lên chưa nhỉ? Mới có mình, Kiến, Châu, Đắc, Bình, mấy thằng. Đắc đã triển khai bộ đội dọc dường sắt chưa? Bình đi miền Tây ra sao? Nhanh lên! Đánh nhanh, thắng Quốc dân Đảng giải phóng Lào Cai rồi chuẩn bị đánh nhau với thằng Pháp. Lâu dài đấy...”.
Ý nghĩ ấy chộn rộn, náo nức trong óc Chính. Lòng cầu mây rập rềnh.
Pao không đi trên cầu. Con ngựa bơi qua sông, anh bám theo nó. Nước chảy xiết, tụt xuống một đoạn, anh phải dắt con ngựa len lỏi qua một đoạn rừng lau mới lên tới cầu bên này.
— Khéo cảm lạnh đấy, Pao à!
— Từ bé, em chưa biết ốm đâu.
Pao nhảy lên ngựa. Con hồng đi trước. Chàng ngựa hồng xem chừng rất biết giữ sĩ diện trước cô ngựa bạch duyên dáng. Chàng ta hăm hở. Rõ là giống ngựa H'Mông tầm vóc nhỏ, nhưng dai sức, đi dốc quen, gặp đất sét dẻo bổ móng rất sâu. Đường lại vòng vèo, xoay mãi, tít mù, chơi vơi.
Lát sau, bỗng nghe thấy tiếng chuông đồng loong coong phía trước, chàng ngựa hồng như nhận được tín hiệu của đồng bọn, bứt ngay lên. Cô ngựa bạch vội dấn vó đuổi theo. Phía trước, Pao đã nhìn thấy những cái đuôi ngựa phất, những bắp chân quấn xà cạp lấm bùn, những cái lu cờ nặng ật ngửa. Anh giật mạnh cương, phăm phăm rẽ lối. Chính rượt theo. Trước họ, một đoàn hơn chục ngựa đang chậm chạp leo dốc. Toàn giống ngựa thồ, tầm thấp, xấu mã, nhem nhuốc. Lưng con nào cũng kềnh càng chảo gang, bàn ăn, bu gà, rọ lợn. Hơn chục người đi theo, mặt ai cũng xanh xám, mệt mỏi. Ba người đàn bà địu con, cầm ô, đi ở quãng giữa. Một ông già đi tụt ở sau tay cầm cái điếu, mắt cứ hênh hếch nhìn lên tốp con trai tóc ướt đầm, xách lồng chim họa mi đi ở phía trước.
Pao ghìm cương ngựa. Ông già cầm điếu nép ở dệ đường.
— Pê H'Mông mồng há từ? (Người H'Mông ta đi đâu đấy?)
— Cu lủ nheo Pha Linh! (Tôi dọn đến Pha Linh!)
Dọn đến Pha Linh! Dọn về Pha Linh! Một cuộc chuyển cư? Đất đã nhạt mầu, không nuôi nổi cây bắp nữa, người ngựa lại ra đi? Không! Không phải! Lại một đoàn nữa. Lại một đoàn nữa. "Cu lủ nheo Pa linh!" — Dọn đến Pha Linh! Pha Linh, hai âm tiết vang ngân nỗi kỳ vọng của bao con người lam lũ!
Trời đã ngả tối. Vắng sương. Da trời tai tái rồi thâm dần. Thấy một xóm nhỏ bên đường, Pao rẽ ngựa vào.
Xóm chỉ có ba nóc nhà, ôm lấy một mảnh đất rộng chừng một sào, lầy lụa bùn phân, ở giữa lù lù hai cái mả cũ. Pao hắt hơi liền ba cái, rùng mình bước vào một căn nhà mở cửa. Vắng lặng. Không còn một đồ vật nào trong nhà. Bừa bãi lông gà, lông lợn trên nền nhà. Một cái chum vỡ lăn lóc ở góc nhà.
Pao ngó quanh. Bỗng Pao giật mình. Có tiếng người rên ở trong buồng. “Chủ có nhà không?". Không có tiếng đáp, Pao bước vào buồng.
Chính cởi cái túi dết, mắc vào cánh cửa; vươn vai, Pao từ cái buồng bước ra.
— Có người hả, Pao?
— Có. Nó ốm.
— Để tôi vào xem.
Pao đứng vơ vẩn ở hiên một lát rồi ra sân tìm cỏ cho hai con ngựa. Trời chóng tối quá. Hai con ngựa nhồm nhoàm nhai cỏ. Ruồi vàng ve ve bay. Tiếng người rên hừ hừ kéo một vệt xám trong bóng đêm nhập nhoạng.
“Chết mất thôi! Đi đến đâu cũng thấy chết. Mình đẻ không trúng mùa ông sấm bố mẹ không đặt trên giường không đặt trong bịch thóc *, đi làm thuê làm mướn khổ đã đành, những người khác sao cũng thế?”. Pao nghĩ.
Bỗng có tiếng Chính gọi. Pao vào nhà. “Đốt lửa lên, Pao!”. Pao chất củi, nhóm lửa. Lửa cháy ngần ngật, ngọn chệnh choạng. Chính lại gọi: “Pao ơi, châm hộ cái đèn hộp. Lấy hộ cái túi thuốc, hộp tiêm ở trong túi dết!"
Pao vào buồng. Chính ngồi cạnh người ốm. Giờ, Pao mới nhìn rõ: Ông già đen nhẻm, mắt lờ đờ như chỉ còn tròng trắng, bụng trương phềnh.
— Đốt lửa to cho ấm. Nấu ít nước sôi nhé, Pao.
Pao lấy ống bắng ra máng hứng nước. Ống nứa dựng nghiêng. Lửa cuộn réo. Lát sau, nước sôi ọc ọc. Chính ngồi xuống cạnh đống lửa:
— Ông cụ bị sốt rét. Sao người nhà đi đâu hết? Phải tiêm thuốc cho ông cụ, Pao à.
Pao ngẩng lên, hơi thở lạnh toát:
— Cả xóm đi hết rồi.
— Đi đâu?
— Đi đón vua ở Pha Linh. Vua H'Mông sắp ra. Người ta bảo thế. Gà, lợn giết hết để đi Pha Linh.
Chính xách ống nước vào buồng, tiêm cho ông cụ. Anh quay ra, giật mình vì thấy Pao gục trên gối. Pao mệt ngủ ư? Nhưng, Chính vừa ngồi xuống cạnh lửa thì thấy Pao ngửng lên, hai con mắt ngầu đỏ:
— Cán bộ Việt Minh ơi! Vua H'Mông ra, có thực vua H'Mông có phép làm cho người H'Mông sung sướng không?
Đêm ấy, lần đầu tiên Pao nói hết với một người khác những nỗi khổ của đời người H'Mông, từ nỗi sợ ám ảnh truyền kiếp hóa hổ với chuyện chị Pàng, chuyện ông lão Pâu vừa ăn thịt lợn vừa khóc.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe