A book that is shut is but a block.

Thomas Fuller

 
 
 
 
 
Tác giả: Arundhati Roy
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The God Of Small Things
Dịch giả: Thanh Vân
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 8
Cập nhật: 2023-06-18 15:52:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
10.
Dòng Sông Trong Con Thuyền
rong lúc Màn kịch Chào mừng Sophie Mol của chúng ta về nhà đang diễn ra ở hiên trước và Kochu Maria phân phát bánh cho lũ Nhặng xanh trong tiết trời nóng nực, Đại sứ E. Xương xẩu / S. Cây Phiền lộ (có mái tóc bồng), đi đôi giầy nhọn mũi mầu be, đẩy những cánh cửa chăng lưới thép mịn rồi bước vào cơ ngơi ẩm ướt, sặc mùi hoa quả dầm của Thiên đường Hoa quả dầm. Em đi giữa những vại to tướng bằng xi măng, tìm một nơi để Nghĩ ngợi. Con chim hét Bar Nowl, sống trên một cái rầm đen kịt gần ánh sáng mặt trời (và thỉnh thoảng cũng góp phần vào mùi vị sản phẩm của Thiên đường), ngắm em đi.
Qua những quả chanh vàng đang bập bềnh trong nước muối, cần thỉnh thoảng chọc vào (nếu không sẽ hình thành những đảo nấm đen đen, giống những tai nấm hương trong bát canh).
Qua chỗ xoài xanh mềm, đã cắt và lèn cùng với nghệ, bột ớt, cuốn lấy nhau (không cần để ý đến trong một thời gian ngắn).
Qua những lọ thủy tinh đựng giấm, có nút bấc.
Qua những cái giá đựng pectin và các chất bảo quản.
Qua những cái khay đựng mướp đắng, có những con dao và những bao tay nhiều mầu.
Qua những cái túi đựng tỏi và hành căng
Qua những đống ớt xanh tươi.
Qua một đống vỏ chuối trên sàn (giữ lại làm bữa chiều cho lợn).
Qua cái tủ đựng đầy những nhãn hàng.
Qua chỗ keo dán.
Qua cái chổi quét keo.
Qua một cái bồn bằng sắt đựng những cái chai rỗng đang bập bềnh trong nước xà phòng đầy bọt.
Qua chỗ chanh ép.
Qua chỗ nước nho.
Rồi quay lại.
Trong đó tối om, chỉ có ánh sáng lọc qua những cái cửa chăng lưới thép mịn, dính bết, và một chùm tia sáng mặt trời đầy bụi (mà con chim hét không dùng) từ bầu trời rọi xuống. Mùi giấm và mù cây a ngùy nhức mũi, nhưng Estha đã quen và thích nó. Em tìm ra chỗ để Nghĩ ngợi ở giữa bức tường và cái vạc sắt tây đen ngòm, trong có mẻ mứt chuối vừa nấu, đang nguội từ từ.
Mẻ mứt còn nóng, trên bề mặt mầu đỏ thắm và dính, lớp bọt dày mầu hồng đang từ từ xẹp xuống. Những miếng chuối nhỏ sôi sùng sục và chìm sâu trong mứt, chẳng ai giúp chúng.
Gã Nước cam Nước chanh có thể bước vào bất cứ lúc nào. Bắt một chuyến xe buýt Cochin - Kottayam và đến đây. Ammu sẽ mời gã một tách trà. Có lẽ mời cả nước dứa nữa. Có đá. Vàng óng trong cốc.
Với một cái thìa khuấy dài bằng sắt tây. Estha khuấy chỗ mứt mới nấu, đặc sánh.
Lớp bọt đang xẹp xuống tạo thành nhiều hình thù bằng bọt.
Một con quạ có một cái cánh g
Một cái chân gà bị ép.
Một vũng xoáy buồn bã.
Và chẳng ai giúp gì.
Lúc khuấy lớp mứt đặc sánh, Estha nghĩ ra Hai ý tưởng, và Hai Ý tưởng em nghĩ ra như sau:
a/ Mọi việc đều có thể xẩy ra với tất cả mọi người.
b/ Tốt nhất cứ phải sẵn sàng.
Có được những ý nghĩ trên, Estha Lẻ loi rất vui vì sự hiểu biết của em.
Chạy quanh chảo mứt đỏ thắm nóng bỏng, Estha thành một Phù thủy có mái tóc bồng bị hỏng và những chiếc răng khấp khểnh, rồi sau đó là Những Mụ Phù thủy của Macbeth.
Lửa đã tắt, chuối sủi bọt.
Ammu cho phép Estha chép công thức nấu mứt chuối của Mammachi vào cuốn sổ ghi công thức mới của chị, một cuốn sổ mầu đen, gáy trắng.
Thấm thía sâu sắc niềm vinh dự mà Ammu ban cho em, Estha đã viết bằng cả hai kiểu chữ đẹp nhất của em.
Mứt chuối (bằng kiểu chữ cổ đẹp nhất của em)
Nghiền nát chuối chín. Thêm nước đến vung và đun bằng lửa rất to cho đến lúc quả mềm.
Ép lấy dịch quả bằng cách lọc qua vải mỏng căng.
Cân một lượng đường tương đương và để riêng.
Đun dịch quả cho đến lúc thành mầu đỏ thắm và cạn khoảng một nửa.
Chuẩn bị gelatin (pectin) như sau:
Tỷ lệ 1:5
nghĩa là 4 thìa pectin: 20 thìa đường.
Estha luôn nghĩ đến Pectin như một đứa em bé nhất trong ba anh em cầm búa, Pectin, Hectin và Abednego. Em tưởng tượng họ đóng một chiếc tầu trong ánh sáng yếu ớt và mưa phùn. Như hệt các con trai của Nôê. Em có thể nhìn thấy họ rõ mồn một trong trí. Họ đang chạy đua với thời gian. Tiếng búa của họ vọng đến đều đều dưới bầu trời giông bão, u ám. Và trong khu vườn kế bên, trong ánh sáng đầy giông bão, kỳ quái, những con vật xếp từng đôi, thành hàng:
Đực cái
Đực cái
Đực cái
Đực cái
Anh em sinh đôi không được phép.
Phần công thức còn lại, Estha viết theo kiểu chữ mới đẹp nhất của em. Có góc cạnh, có mũi nhọn. Ngả về phía sau, cứ như những chữ cái miễn cưỡng xếp thành từ, các từ miễn cưỡng xếp thành câu:
Thêm Pectin để cô đặc dịch quả. Đun trong năm (5) phút.
Đun to lửa, cháy đều xung quanh.
Thêm đường. Nấu cho đến khi cán thành từng tấm.
Để nguộ từ từ.
Mong bạn sẽ thích công thức này.
Ngoài những lỗi chính tả, dòng cuối cùng - Mong bạn sẽ thích công thức này - là do Estha thêm vào nguyên bản.
Lúc Estha khuấy, mứt chuối đặc sánh và nguội dần, Ý tưởng Thứ ba tự nổi dậy từ đôi giầy nhọn mũi mầu be của em.
Ý tưởng Thứ ba là:
c/ Một con thuyền.
Một con thuyền vượt sông. Akkrara. Sang Bờ Bên kia. Một con thuyền mang Những thứ Dự phòng. Diêm. Quần áo. Chai lọ, xoong chảo. Những thứ các em cần và không thể bơi sang.
Lông trên cánh tay Estha dựng đứng lên. Khuấy mứt thành Chèo thuyền, chạy quanh và xoay tròn thành tiến và lui. Qua một dòng sông quánh, mầu đỏ thắm. Một bài hát trong cuộc đua thuyền Onam tràn ngập nhà máy. Thaiy thaiy thaka thaiy thaiy thome!
Này ông Khỉ kia, sao đít ông đỏ thế?
Tôi đi ị ở Madras, và chùi đến phỏng rộp cả ra.
Vượt trên cả những câu hỏi và đáp tục tĩu trong bài hát chèo thuyền, giọng Rahel trôi nổi khắp nhà máy:
- Estha! Estha! Estha!
Estha không trả lời, tiếng đồng ca của bài hát chèo thuyền thì thầm trong lớp mứt đặc sánh.
Một cánh cửa chăng lưới mịn kêu cọt kẹt, và bộ váy áo Airport Fairy có đuôi tóc và cặp kính nhựa mầu đỏ, gọng viền vàng nhìn vào, mặt trời đằng sau em. Nhà máy nhuốm mầu Giận dữ. Những quả chanh muối mầu đỏ. Xoài mềm mầu đỏ. Tủ đựng nhãn mầu đỏ. Tia nắng đầy bụi (mà con chim hét không bao giờ dùng.
Cánh cửa chăng lưới thép đóng lại.
Rahel đứng trong nhà máy vắng vẻ, đuôi tóc buộc bằng cái dây Tình yêu - ở - Tokyo. Em nghe thấy giọng một tu nữ hát bài chèo thuyền. Một giọng nữ cao trong trẻo thoảng nhẹ trên mùi giấm và những thùng hoa quả dầm.
Em quay về phía Estha đang cúi xuống lớp nước đỏ thắm trong chiếc vạc đen sì.
- Mày muốn gì? - Estha hỏi, không nhìn lên.
- Không gì cả - Rahel nói.
- Thế sao mày đến đây?
Rahel không đáp. Một sự im lặng ngắn, thù địch.
- Tại sao anh lại chèo thuyền trên mứt? - Rahel hỏi.
- Ấn Độ là một nước Tự do - Estha nói.
Không ai cãi điều đó.
Bạn có thể làm muối. Chèo thuyền trên mứt, nếu bạn muốn.
Gã Nước cam Nước chanh có thể bước vào qua cánh cửa chăng lưới thép này.
Nếu gã muốn.
Và Ammu sẽ mời gã nước dứa. Với đá.
Rahel ngồi lên mép một chiếc thùng lớn bằng xi măng (đuôi váy bằng vải hồ cứng và đăng ten nhúng vào chỗ xoài mềm), em đi thử những cái bao ngón bằng cao su. Ba cái chai mầu xanh ném vào cái cửa chăng lưới thép một cách dữ dội, muốn cứ ở trong đó. Và Con chim hét Bar Nowl ngắm nhìn sự im lặng sặc mùi hoa quả dầm giữa hai đứa trẻ sinh đôi, giống như một vết thâm tíhững ngón tay Rahel mầu Vàng Xanh lá cây Xanh lơ Đỏ Vàng.
Chỗ mứt của Estha đã khuấy xong.
Rahel đứng dậy định đi. Để về ngủ trưa.
- Mày định đi đâu đấy?
- Đến nơi nào đó.
Rahel tháo những ngón tay mới của em, và những ngón tay lại trở về với mầu những ngón tay cũ. Không vàng, không xanh lá cây, không xanh lơ, không đỏ. Không vàng.
- Tao sắp đi Akkara - Estha nói. Không nhìn lên - Đến ngôi nhà Lịch sử.
Rahel đứng lại và xoay quanh, trong tim em một con ngài mầu nâu xám có túm lông trên sống lưng dầy đặc lạ lùng, giang rộng đôi cánh ăn mồi.
Từ từ mở ra.
Từ từ cụp vào.
- Sao lại thế? - Rahel nói.
- Vì Mọi việc đều có thể xẩy ra cho Bất cứ ai - Estha nói - và Tốt hơn cả là phải Sẵn sàng.
Bạn không thể cãi lại điều đó.
Chẳng ai đến ngôi nhà của Kari Saipu làm gì. Vellya Paapen tuyên bố ông là người cuối cùng để mắt tới nó. Ông ta nói ngôi nhà ấy có ma. Ông ta đã kể cho hai đứa trẻ sinh đôi chuyện ông ta chạm trán với hồn ma của Kari Saipu. Chuyện đó xẩy ra từ hai năm trước, ông ta bảo vậy. Ông ta đi qua sông tìm một cây nhục đậu khấu để làm kẹo nhục đậu khấu và tỏi tươi cho Chella, vợ ông, đang chết dần vì bệnh lao. Ông ta bỗng ngửi thấy mùi xì gà (ông ta nhận ra ngay, vì Pappachi thường hút thứ ấy). Vellya Paapen xoay tít xung quanh, vung liềm vào chỗ có mùi. Ông ta ghim chặt con ma vào thân một cây cao su, theo lời Vellya Paapen, cây ấy vẫn còn. Cái liềm bốc mùi, chảy ra một thứ máu trong như hổ phách, và xin một điếu xì gà.
Vellya Paapen không bao giờ tìm ra cây nhục đậu khấu, và phải mua một cái liềm mới. Nhưng ông ta hài lòng thấy mình phản ứng nhanh như chớp (dù có một con mắt giả), nhờ sự nhanh trí mà ông ta đã kết liễu đời con ma tàn bạo, quanh quẩn đây đó.
Chừng nào không ai chịu nổi cái chuyện bịa đặt ấy, chẳng có liềm lẫn xì gà.
Điều mà Vellya Paapen (người biết nhiều nhất) không biết là ngôi nhà của Kari Saipu là Ngôi nhà Lịch sử (cửa ra vào khóa chặt và các cửa sổ mở toang). Và những thứ bên trong, cái bản đồ biết thở, những bậc tổ tiên có những móng chân quặp thì thào mới lũ thạch sùng trên tường. Rằng Lịch sử đã dùng cái hiên sau để thương lượng các điều khoản và rút ra những điều thích đáng. Rằng sai lầm đã dẫn đến nhiều hậu quả. Rằng trong cái ngày Lịch sử lựa chọn sổ sách, Estha sẽ giữ những cái biên lai nợ mà Velutha đã trả.
Vellya Paapen không hề nghĩ rằng Kari Saipu là người đã giành được những giấc mơ và tái tạo chúng. Rằng ông ta đã loại những giấc mơ đó khỏi trí nhớ khách qua đường như kiểu bọn trẻ con nhặt những quả nho chua khỏi chiếc bánh ngọt. Đó là những giấc mơ mà ông ta thèm muốn vô cùng, những giấc mơ dịu ngọt của hai đứa trẻ sinh đôi.
Ông lão Vellya Paapen tội nghiệp, lúc ông biết Lịch sử đã chọn ông làm người được ủy quyền, những giọt nước mắt của ông lăn dài Khiếp sợ, có lẽ vì ông không có dáng khệnh khạng của một anh chàng khoác lác giữa chợ Ayemenem, khoe khoang đã bơi qua sông, miệng cắn chiếc liềm ra sao (chua lòm, vị sắt đọng trên lưỡi). Rồi để liềm sang một bên trong lúc rửa cát sông khỏi con mắt giả (đôi khi trong lòng sông có cát, nhất là vào những tháng có mưa), thì ngửi thấy mùi xì gà. Rồi ông nhặt liền lên, xoay tít và vung liềm vào chỗ có mùi, ghim chặt con ma vĩnh viễn. Mọi chuyện đều xẩy ra trước sau như một, trôi chẩy, khỏe khoắn.
Lúc hiểu vai trò của mình trong những kế hoạch của Lịch sử, ông ta muốn tháo lui thì đã quá muộn. Ông đã tự quét sạch những vết chân của mình. Cầm chổi, bò lê phía sau.
Trong nhà máy, một lần nữa sự im lặng lại xiết chặt quanh hai anh em. Nhưng lần này là một thứ im lặng khác hẳn. Sự im lặng của một dòng sông cổ. Sự im lặng của dân và những nàng tiên cá bằng sáp ong.
- Nhưng những người cộng sản không tin vào ma quỷ
- Estha nói, cứ như chúng đang tiếp tục một bài thuyết trình các giải pháp đối với ma quỷ. Câu chuyện của chúng nổi trên bề mặt và lao xuống như những dòng suối trên núi. Đôi khi có thể nghe thấy rõ tiếng những người khác. Đôi khi không.
Estha là Người - Thực dụng.
Bên ngoài, Bầu Không khí đầy Cảnh giác, Sáng sủa và Nóng nực. Rahel nằm cạnh Ammu, hoàn toàn tỉnh táo trong chiếc quần lót chẽn, xứng hợp với sân bay. Em có thể nhìn thấy những bông hoa thêu chữ thập trên chiếc khăn trải giường mầu xanh lơ bên má Ammu. Em có thể nghe thấy buổi trưa mầu xanh lơ.
Chiếc quạt trần quay chầm chậm. Mặt trời đằng sau những tấm rèm.
Một con ong bắp cày đậu trên ô cửa sổ, kêu những tiếng dừ dừ dừ đầy nguy hiểm.
Ảnh nhấp nháy của một con thằn lằn đang ngần ngại.
Những con gà cao cẳng trong sân.
Tiếng mặt trời tuôn chảy trong đồ đang giặt. Vò nhàu những tấm vải trải giường mầu trắng. Làm cứng những tấm sari hồ bột. Mầu trắng ngà và vàng.
Những con kiến đỏ trên những hòn đá mầu vàng.
Một con bò nóng nẩy đang thấy nóng. Amhoo. Tận mãi nơi xa.
Và mùi bóng ma của một người Anh xảo quyệt, bị liềm ghim chặt vào thân cây cao su, đang khẩn khoản xin một điếu xì gà.
- Umm… xin lỗi? Ông có ừm… điếu xì gà nào không?
Bằng cái giọng thầy giáo hi
Ôi người yêu quý.
Estha đang đợi em. Bên dòng sông. Dưới gốc cây măng cụt mà Đức Cha E. John Ipe mang về nhà trong chuyến viếng thăm Madalay.
Vậy Estha ngồi ở đâu?
Ở chỗ chúng thường ngồi dưới cây măng cụt. Có một cái gì đó xam xám và rên rỉ. Nấp trong lớp rêu và địa y, ẩn trong đám dương xỉ. Một cái gì đó mà trái đất đòi hỏi. Không phải là cái gốc cây. Không phải là một tảng đá…
Trước khi nghĩ xong, Rahel đứng vụt dậy và chạy đi.
Chui qua bếp, qua chỗ Kochu Maria ngủ say. Nếp quần áo gấp dầy cộm giống như một con kỳ đà mặc tạp dề xếp nếp.
Ngang qua nhà máy.
Bàn chân trần chạy thoăn thoắt trong tiết trời nóng nực, một con ong bò vẽ mầu vàng bay theo sau.
Estha đã ở chỗ đó. Dưới gốc cây măng cụt. Một lá cờ đỏ cắm trong đất, bên cạnh em. Một Người Cộng hòa Năng động. Một Cuộc cách mạng sinh đôi có Mái tóc Bồng.
Và em ngồi trên cái gì?
Một cái gì đó bị rêu phủ kín, ẩn trong đám dương xỉ.
Gõ vào nó, vang lên một tiếng gõ rỗng tuếch.
Sự im lặng nhào xuống, vút lên, uốn thành những hình số tám.
Những con chuồn chuồn sáng lấp lánh bay lượn như những giọng trẻ con reo inh ỏi trong ánh mặt trời.
Những ngón tay mầu ngón tay lục tìm trong đám dương xỉ, lần những tảng đá, dọn đường. Có một cái móc dính nhơm nhớp giữ lấy mép một cáiào Một, Hai.
Biết bao sự việc có thể đổi thay trong một ngày.
Đó là một chiếc thuyền. Một thành lũy bằng gỗ xinh xắn.
Chiếc thuyền mà Estha ngồi lên trên và Rahel đã tìm ra.
Chiếc thuyền mà Ammu dùng để vượt sông. Ban đêm yêu đàn ông và ban ngày yêu các con.
Một chiếc thuyền cũ đến mức gần như mọc rễ.
Một loại cây thuyền xanh xám, có hoa thuyền và quả thuyền. Và bên dưới là một đám cỏ héo úa hình con thuyền. Một thế giới thuyền hối hả, vội vã.
Tối đen, khô ráo và mát mẻ. Bây giờ mái đã bị rỡ. Và không thấy gì.
Những con mối trắng đang trên đường đi làm việc.
Những con bọ cánh phấn đang trên đường về nhà.
Những con bọ cánh cứng trắng trốn khỏi ánh sáng.
Những con châu chấu trắng với những cái đàn violon bằng gỗ trắng.
Âm nhạc mầu trắng buồn bã.
Một con ong bắp cày trắng. Đã chết.
Một tấm da rắn lột, trắng giòn, để nguyên trong bóng tối, gẫy vụn dưới ánh mặt trời.
Nhưng liệu nó làm được gì, cái thành trì bé nhỏ này?
Có lẽ nó quá cũ mất rồi? Quá vô hiệu? Liệu Akkara có quá xa với nó không
Hai đứa trẻ sinh đôi nhìn sang bên kia sông.
Sông Meenachal.
Xanh xám. Có cá trong đó. Bầu trời và những cái cây trong đó. Và vào ban đêm, có cả những mảnh trăng vàng tan vỡ trong đó.
Hồi Pappachi chỉ là một đứa trẻ, một cây me già đổ xuống sông trong một cơn bão. Nó vẫn còn đấy. Một cái cây trơ vỏ, nhẵn nhụi, đen đủi vì ngập ứ làn nước mầu xanh dương. Một cái cây không trôi giạt.
Một phần ba đầu tiên của dòng sông là bè bạn của các em. Trước khi Bắt đầu Biển cả thực sự. Chúng biết những bậc đá trơn tuột (mười ba bậc) rồi đến lớp bùn nhầy nhụa.  Chúng biết lớp cỏ buổi chiều cuốn vào bên trong vũng nước xoáy ngược của Komarakom. Chúng biết những loài cá nhỏ hơn. Cá pallathi ngốc nghếch, phẳng dẹt, cá paral mầu trắng bạc, cá koori xảo quyệt, đuôi vẫy tứ tung, thỉnh thoảng có cả cá karimeen.
Chacko đã dạy chúng bơi ở đây (nước bắn tóe quanh cái bụng phệ của anh, mà chẳng ăn thua gì). Ở nơi đây, chúng tự khám phá ra bao điều thích thú dưới mặt nước.
Chúng đã học câu cá ở chỗ này. Mắc con giun đất đỏ tía, ngoằn ngoèo vào lưỡi câu ở đầu chiếc cần mà Velutha đã làm bằng tay tre đằng ngà mảnh dẻ.
Chúng đã học Im lặng chính ở chỗ này. Theo dõi. Nghĩ ngợi nhưng không được nói thành tiếng. Giật nhanh như chớp lúc chiếc cần câu bằng tre đằng ngà cong oằn xuống thành hình vòng cung.
Như vậy là chúng biết rất rõ một phần ba dòng sông. Phần thứ hai, chúng biết ít hơn.
Phần thứ hai là nơi Biển cả Thực sự bắt đầu. Là nơi dòng chảy băng băng và chắc chắn (xuôi dòng khi thủy triều rút, ngược dòng, đẩy từ vũng xoáy ngược lên khi thủy triều lên).
Phần thứ ba lại nông. Nước mầu nâu và u ám. Đầy cỏ dại và những con lươn phóng vụt ra, bùn đặc quánh phọt qua các ngón chân như kem đánh
Hai đứa trẻ sinh đôi có thể bơi như những con chó biển, và dưới sự giám sát của Chacko, chúng bơi qua sông vài lần, trở về thở hổn hển, mắt lác đi vì ráng sức, mang theo một hòn đá, một cành cây hoặc một cái lá làm chứng cho những kỳ công của chúng. Nhưng giữa con sông đáng kính, hoặc ở Bờ bên kia, không có lấy mộ chỗ cho chúng nấn ná, ngả lưng hoặc Học hỏi sự việc. Estha và Rahel đều cho rằng phần thứ hai và phần thứ ba của dòng Meenachal xứng đáng đối xử khác hẳn. Bơi qua sông chẳng thành vấn đề gì. Đưa chiếc thuyền đựng Các Thứ trong đó mới gay go (b/ Sẵn sàng mọi thứ cần sẵn sàng).
Chúng đưa mắt nhìn sang bên kia sông bằng cặp mắt của Con thuyền Cũ. Từ chỗ chúng đứng, chúng có thể trông thấy Ngôi nhà Lịch sử. Nó là một vệt đen bên ngoài đầm lầy, ở chính giữa đồn điền cao su, nơi tiếng những con dế vang vọng.
Estha và Rahel nhấc chiếc thuyền nhỏ bé lên và đưa xuống nước. Trông nó thật lạ lùng, giống như một con cá khóc ti tỉ từ chỗ sâu phải nổi lên mặt nước. Trong ánh chói chang của mặt trời. Nó cần phải cạo rỉ, dọn sạch, nhưng có lẽ chẳng cần gì hơn nữa.
Hai trái tim hạnh phúc bay vút lên như những cánh diều sặc sỡ trên nền trời xanh lơ. Nhưng lúc này, trong tiếng thì thầm chậm rãi, xanh biếc, dòng sông (có cá trong đó, có cả bầu trời và những cái cây trong đó) sủi bọt.
Con thuyền cũ kỹ từ từ chìm, và đỗ lại trên bậc thứ sáu.
Trái tim hai đứa trẻ sinh đôi cũng chìm xuống và đậu phía trên bậc thứ sáu.
Những con cá bơi dưới sâu lấy vây che miệng cười khúc khích vì cảnh tượng này.
Một con nhện trắng nổi bềnh lên cùng dòng sông trong con thuyền, cố vùng vẫy rồi chết đuối. Một bọc trứng nhện trắng vỡ sớm, hàng trăm con nhện con (nhẹ quá không chìm được, bé quá không bơi được), nổi lốm đốm trên mặt nước xanh trước khi bị quét ra biển. Đến Madagascar, bắt đầu một ngành mới của Họ nhện bơi Malayali.
Lát sau, cứ như đã thảo luận rồi (dù chúng không làm điều đó), hai đứa trẻ sinh đôi bắt đầu cọ rửa con thuyền trong dòng sông. Những đám mạng nhện, bùn, rêu và đy trôi lềnh bềnh. Lúc đã sạch, chúng lật úp con thuyền xuống, rồi đội lên đầu. Giống như một cái mũ chung đang nhỏ giọt. Estha nhổ cái cờ đỏ lên.
Một đám rước nhỏ (một lá cờ, một con ong bắp cày và một con thuyền có chân) hướng thẳng tới con đường nhỏ xuyên qua đám cây còi cọc. Đám rước tránh những bụi tầm ma, đi bên những cái rãnh và những ụ kiến. Men theo cái hồ sâu, vách đá ong dựng đứng đã bị khai thác, nay là một cái hồ có bờ dốc mầu da cam, làn nước lầy nhầy phủ một lớp bọt mỏng, sáng chói mầu xanh dương. Một bãi cỏ xanh tươi, xảo trá, bên trong đầy những con muỗi sinh sôi, nẩy nở và những con cá béo nhưng không sao tới gần được.
Con đường nhỏ chạy song song với dòng sông, dẫn đến một khoảng trống nhỏ đầy cỏ, mọc lộn xộn nhiều thứ cây: dừa, đào lộn hột, xoài. Bên rìa khoảng trống, quay lưng ra phía sông là một túp lều thấp, tường bằng đá ong mầu vàng trát bùn, mái lợp rạ, nép sát mặt đất, như đang lắng nghe một điều bí mật thì thầm dưới lòng đất. Những bức tường thấp của túp lều cùng mầu như chỗ đất nơi đó, dường như nó nẩy mầm từ hạt giống - nhà trồng trên đất, lớn lên từ những cái xương sườn vuông góc trên mặt đất và bao kín một khoảng không gian. Ba cây chuối mọc bừa bộn trong mảnh sân nhỏ đằng trước, ngăn cách bằng những tấm phên đan bằng lá dừa.
Cái thuyền có chân đến gần căn lều. Một cái đèn dầu chưa thắp treo trên tường bên cửa, mảng tường sau nó ám đen muội đèn. Cánh cửa khép hờ. Bên trong tối om. Một con gà mái đen xuất hiện trên ngưỡng cửa. Nó quay vào trong nhà, hoàn toàn dửng dưng với chuyến viếng thăm của con thuyền.
Velutha không có nhà. Vellya Paapen cũng không nốt. Nhưng có một người nào đó ở trong.
Một giọng đàn ông vẳng ra từ bên trong và vang khắp khoảng trống, làm nó càng thêm đơn độc.
Giọng nói la hét một điều gì đó, vang lên và vang lên lần nữa, mỗi lần càng cao giọng hơn, cáu kỉnh hơn. Nó là một tiếng kêu báo một quả ổi chín nẫu sắp rụng và làm nhoe nhoét mặt đất.
Pa pera-pera-pera-perakka
Ende parabil thooralley.
Chete parambil thoorikko.
Pa pera-pera-pera-perakka.
(Ông Ổi là ông Ổi ơi,
Xin ông đừng ị trong khu nhà tôi.
Ông có thể ị ở nhà bên, trong khu nhà em tôi,
Ông Ổi là ông Ổi ơi).
Người la hét là Kuttappen, anh trai của Velutha. Anh ta bị liệt từ ngực trở xuống. Ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, trong khi em trai và bố anh ta ra ngoài đi làm, Kuttappen nằm ngửa, ngắm nhìn tuổi xuân trôi đi không một lời chào biệt. Suốt ngày, anh ta nằm lắng nghe sự im lặng của những cái cây mọc lộn xộn, chỉ có một con gà mái đen thống trị mọi cảnh vật. Mẹ anh, bà Chella đã chết chính trong góc phòng anh đang nằm.
Bà chết, vừa ho, vừa khạc nhổ, đau đớn, đầy rớt dãi. Kuttappen nhớ lại bàn chân bà chết rất lâu trước khi bà chết. Lớp da chân bà xám ngoét và không còn sức sống. Anh đã khiếp sợ ngắm nhìn cái chết lan từ chân lên đầu.
Kuttappen nhìn đôi bàn chân liệt của mình, ngày càng sợ hãi. Thỉnh thoảng, anh lại lấy cái gậy vẫn dùng đánh rắn để tự vệ, dựa sẵn trong góc, chọc chọc vào chân, lòng đầy hy vọng. Anh chẳng còn cảm giác có chân chút nào, chỉ cần nhìn thấy cũng đủ an ủi rằng chúng vẫn còn dính liền với thân hình, và nó thực sự là đôi chân của anh.
Sau khi Chella mất, anh được chuyển đến góc của bà, góc mà Kuttappen hình dung là nơi Thần Chết dành riêng để cất giấu những thứ làm chết người. Một góc nhà để nấu ăn, một góc để quần áo, một góc nữa cuốn các ổ rơm, một góc cho cái chết.
Anh băn khoăn không biết mình còn sống bao lâu, và trong nhà người khác có nhiều hơn bốn góc, những góc còn lại dùng để làm gì? Nó có cho người ta chọn nhiều góc để chết không nhỉ?
Chẳng biết vì sao, anh luôn cho mình là người đầu tiên trong theo gót mẹ. Anh biết theo một kiểu khác. Chẳng mấy chốc nữa. Quá sớm.
Đôi khi, (theo thói quen, kể từ khi bà mất), Kuttappen ho giống như mẹ anh, phần thân trên cong oằn lên như một con cá trên dây câu. Phần thân dưới của anh nằm như đổ chì, như thuộc về một người khác. Một người đã chết, nhưng tâm linh còn mắc lại và không thể ra đi.
Không giống Velutha, Kuttappen là một người Paravan hiền lành và dè dặt. Anh không biết đọc, cũng không biết viết. Anh nằm đó trên chiếc giường cứng, những tảng rạ và cát bụi rơi từ trên trần xuống người anh, trộn lẫn với mồ hôi của anh. Thỉnh thoảng những con kiến và những loại côn trùng khác cùng rơi xuống.
Trong những ngày xấu trời, những bức tường mầu vàng giữ chặt bàn tay và cúi xuống người anh, xem xét kỹ lưỡng như những bác sĩ ác nghiệt, từ tốn, không vội vàng, vắt từng hơi thở khỏi cơ thể anh và làm anh kêu thét lên. Đôi khi, chúng đồng lòng lùi ra xa, căn phòng anh nằm dường như rộng hẳn, những nỗi ám ảnh tầm thường đe dọa anh. Chúng cũng làm anh kêu thét lên.
Tình trạng mất trí cứ luẩn quẩn bên anh, hệt như một người hầu bàn háo hức trong một khách sạn đắt tiền (châm lửa, rót đầy các cốc). Kuttappen ghen tỵ nghĩ đến những người điên có thể đi lại được. Anh không ngờ việc được đối xử công bằng; đôi chân anh cần phải lành mạnh, có thể đi lại được.
Hai đứa trẻ đặt con thuyền xuống, tiếng lách cách bất ngờ chạm phải sự im lặng từ bên trong.
Kuttappen không chờ đợi ai.
Estha và Rahel đẩy cửa và bước vào. Tuy bé nhỏ, chúng phải hơi cúi người mới vào được. Con ong bắp cày đậu trên ngọn đèn, đợi ở bên ngoài.
- Chúng cháu đây.
Căn phòng tối và sạch sẽ. Sặc mùi cá nấu cary và khói củi. Hơi ấm bám chặt lấy mọi vật như bị sốt nhẹ. Nhưng lớp sàn trát bùn mát lạnh dưới bàn chân trần của Rahel. Ổ rơm của Velutha và Vellya Paapen cuộn lên và dựng sát tường. Quần áo mắc trên dây. Một cái giá bếp bằng gỗ thấp, trên cái đĩa tráng men rẻ tiền, viền xanh thẫm, xếp gọn gàng. Một người đàn ông trưởng thành có thể đứng thẳng lên ở giữa phòng, nhưng ở những chỗ bên cạnh thì không thể được. Một cái cửa thấp dẫn ra sân sau, nơi có nhiều cây chuối, qua đám lá là dòng sông sáng lấp lánh. Một chỗ làm mộc được dựng ở sân sau.
Không có chìa khóa hoặc tủ để mà khóa.
Con gà mái đen chui qua cửa sau, rồi lơ đãng bới trong sân, những mảnh vỏ bào tung tóe như những mớ tóc quăn óng vàng. Dường như nó được nuôi theo chế độ ăn kiêng, toàn những thứ bằng kim loại: bản lề, móc, đinh và những ốc vít cũ.
- Aiyyo, Mon, Mol! Chắc cô cậu lại nghĩ ra chuyện gì phải không? Đến cái hộp này của Kuttappen sao? - Một giọng bối rối, như lìa khỏi xác cất lên.
Phải mất một lúc, mắt hai đứa trẻ sinh đôi mới quen được với bóng tối. Lúc đó, bóng tối loãng dần và Kuttappen hiện ra trên giường, một vẻ lấp lánh trong bóng lờ mờ. Lòng trắng trong mắt anh đã thành mầu vàng xẫm. Chỉ có đôi bàn chân (mềm oặt do nằm quá nhiều) lộ ra dưới tấm vải đắp trên chân. Chúng vẫn còn những vết mầu da cam lợt vì nhiều năm đi chân trần trên lớp bùn đỏ. Anh có những vết chai xám trên mắt cá vì cọ xát nhiều vào dây mà những người Paravan buộc quanh chân lúc trèo dừa.
Trên tường phía sau anh, một quyển lịch in Chúa Jesus, tóc xám, má hồng, môi son và một trái tim ghê gớm, gắn châu báu lấp lánh qua bộ quần áo của Người. Phía dưới cùng của quyển lịch (phần in ngày tháng) quăn lên như một cái váy ngắn. Mười hai cái váy lót xếp nếp cho mười hai tháng trong năm. Không có cái nào bị rách.
Còn nhiều thứ khác nữa lấy từ Ngôi nhà Ayemenem, hoặc được cho hoặc tận dụng những đồ bỏ đi trong thùng phế thải. Những vật giầu có trong một ngôi nhà nghèo khổ. Một cái đồng hồ không chạy, một cái giỏ thiếc in hoa đựng giấy loại. Những chiếc ủng cưỡi ngựa cũ của Pappachi (mầu nâu, đã mốc xanh), vẫn còn những cái nong giầy trong đó. Những hộp đựng bánh bích quy có hình vẽ các lâu đài Anh lộng lẫy, các phu nhân mặc váy phồng và những búp tóc quăn.
Một tấm áp phích nhỏ (của Baby Kochamma, cho đi vì mẩu thừa bị ẩm) treo cạnh chúa Jesu. Đó là bức tranh một cô bé tóc vàng hoe đang viết thư, những giọt nước mắt lăn dài trên má. Bên dưới viết: Em viết để nói rằng em nhớ anh. Cô bé trông như mới cắt tó những búp tóc quăn vàng óng của cô bay khắp mảnh sân của Velutha.
Một ống nhựa trong suốt dẫn từ dưới tấm vải bông rách phủ Kuttappen và một cái chai, đựng một thứ chất lỏng mầu vàng, lóe lên trong ánh sáng xuyên qua cửa, và chặn một câu hỏi đang trỗi lên trong lòng Rahel. Em mang đến cho anh một cốc nước, rót từ cái vò bằng đất sét. Dường như em biết lối đi vòng. Kuttappen nhấc đầu lên và uống. Vài giọt nước rớt xuống cằm anh.
Hai đứa trẻ ngồi xổm, giống những người lớn chuyên ngồi lê đôi mách trong chợ Ayemenem.
Họ ngồi im lặng trong giây lát. Kuttappen đã bị hoại tử, hai đứa trẻ sinh đôi đầu óc còn bận nghĩ đến con thuyền.
- Cô bé của ông Chacko đến rồi chứ? - Kuttappen hỏi.
- Rồi ạ - Rahel đáp ngắn gọn.
- Cô ấy đâu?
- Ai mà biết được? Chắc đang ở chỗ nào quanh quẩn gần đây. Chúng cháu không biết.
- Cô cậu đưa cô ấy đến cho tôi xem mặt nhé?
- Không được đâu - Rahel nói.
- Sao lại không?
- Cô ấy phải ở trong nhà. Cô ấy thanh nhã lắm. Nếu gặp bẩn thỉu, cô ấy sẽ chết mất.
- Tôi hiểu.
- Chúng cháu không được phép đưa cô ấy đến đây… với lại, cũng chẳng có gì mà xem - Rahel an ủi Kuttappen
- Cô ấy có tóc này, chân này, răng này… cũng bình thường thôi; có điều cô ấy hơi cao - Đó là điều nhân nhượng duy nhất mà Rahel làm được.
- Chỉ có thế thôi? - Kuttappen nói, châm chọc rất nhanh - thế bao giờ tôi được nhìn thấy cô ấy?
- Không bao giờ - Rahel nói.
- Kuttapa, nếu một con thuyền bị rò, vá lại khó lắm phải không? - Estha nói.
- Không hẳn thế đâu. Cũng còn tùy. Thuyền của ai bị rò vậy?
- Của chúng cháu, chúng cháu tìm ra mà. Chú có muốn xem không?
Chúng đi ra ngoài và trở lại với con thuyền đang khóc nỉ non, cho người đàn ông liệt kiểm tra. Chúng giơ lên trên anh ta như một cái mái nhà. Nước rỏ xuống anh ta.
- Việc đầu tiên là chúng ta phải tìm ra những lỗ rò - Kuttappen nói - Rồi sau đó phải nút những lỗ ấy lại.
- Rồi đánh giấy ráp - Estha nói - Rồi đánh bóng.
- Rồi lắp mái chèo - Rahel nói.
- Rồi lắp mái chèo - Estha đồng ý.
- Sau đó là phới - Rahel nói.
- Đi đâu? - Kuttappen hỏi.
- Chỉ ở đây và đằng ấy thôi - Estha nói vui vẻ.
- Cô cậu phải cẩn thận đấy - Kuttappen nói - Con sông này của chúng ta, không như nó vẫn ra vẻ thế đâu.
- Nó ra vẻ như thế nào? - Rahel hỏi.
- Ờ… như một ammooma hay đi lễ nhà thờ, im lặng và sạch sẽ… ăn sáng bằng idi appams, ăn trưa bằng kanji và meen. Nghiền ngẫm công việc của mình. Không nhìn sang phải, sang trái.
- Thế thật ra thì nó là một…
- Thật ra là một thứ rất hung dữ… Ban đêm tôi có thể nghe thấy nó, xô ào ào trong ánh trăng, lúc nào cũng vội vã. Cô cậu phải cẩn thận với nó đấy.
- Thế thực ra nó ăn những gì?
- Ăn gì ư? Ô… stoo… và… - Anh ta cố tìm một từ tiếng Anh để tả dòng sông hung ác ấy ăn những gì.
- Những lát dứa… - Rahel gợi ý.
- Đúng rồi! Những lát dứa và Stoo. Nó uống nữa. Whisky.
- Và brandy.
- Và brandy. Thực đấy.
- Và nhìn bên phải và bên trái.
- Đúng đấy.
- Và nghĩ đến công việc của người khác…
Esthapen đặt cái thuyền nhỏ trên sàn đất mấp mô, lấy mấy khúc gỗ tìm thấy trong chỗ làm mộc của Velutha ở sân sau để kê cho vững. Em đưa cho Rahel một cái muôi nhà bếp, làm bằng một cái cán gỗ xuyên qua vỏ nửa quả dừa đánh bóng.
Hai đứa bé trèo vào trong thuyền và bơi qua làn nước mênh mông, sóng vỗ bập bềnh.
Với bài hát Thaiy thaiy thaka thaiy thaiy thome. Và một Jesus đầy châu báu ngắm nhìn.
Người đã bước đi trên mặt nước. Có lẽ thế. Nhưng người có thể bơi trên mặt đất được không?
Mặc quần chẽn diêm dúa và đeo kính râm? Với đuôi tóc buộc sợi dây Tình yêu - ở - Tokyo? Đi đôi giầy nhọn mũi mầu be? Và Người có giầu trí tưởng tượng
Velutha trở về thấy ngay Kuttappen cần thứ gì. Từ xa, anh đã nghe thấy một giọng hát khàn khàn. Những giọng trẻ con vui vẻ nhấn mạnh những từ tục tĩu.
Này Ông Khỉ kia ơi,
Sao ĐÍT ông ĐỎ thế?
Tôi đi Ị ở Madras
Và chùi đến PHỎNG RỘP cả da!
Tạm thời, trong những giây lát hạnh phúc, gã Nước cam Nước chanh ngậm cái miệng cười vàng khè của gã lại và cuốn xéo. Nỗi sợ chìm đi và nằm tận đáy nước sâu. Ngủ như một con chó. Sẵn sàng vùng dậy và mọi sự lập tức trở nên tăm tối.
Velutha phải cúi thật thấp để bước vào trong nhà. Một người Eskimo nồng nhiệt. Lúc nhìn thấy bọn trẻ, lòng anh như thắt lại. Và anh không thể hiểu vì sao. Anh nhìn thấy chúng hàng ngày. Anh yêu chúng mà không biết. Nhưng bỗng nhiên mọi sự khác hẳn. Lúc này đây. Sau khi Lịch sử đã lỡ lầm tồi tệ như thế. Không còn bàn tay xiết chặt trong lòng anh như trước kia nữa.
Những đứa con của cô ấy, một tiếng thì thào điên cuồng cứ thầm thì với anh.
Cặp mắt của cô ấy, cái miệng của cô ấy. Hàm răng của cô ấy.
Làn da mềm mại, sáng óng ánh của cô ấy.
Anh giận dữ xua những ý nghĩ ấy đi. Nó trở lại và nằm ngoài sọ anh. Hệt như một con chó.
- Ha! - Anh nói với các vị khách nhỏ - Tôi có thể hỏi ai đây, có phải là những người đánh cá không nào?
- Esthapappychachen Kuttappen Peter Mon. Ông và Bà vui lòng gặp Chú - Rahel giơ cao cái muôi, vẫy chào.
Đó là cách vẫy chào. Của em đến của Estha.
- Này tôi hỏi, họ định bơi thuyền đi đâu đấy?
- Đi Châu Phi - Rahel hét to.
- Đừng hét - Estha nói.
Velutha đi quanh con thuyền. Bọn trẻ kể với anh chúng tìm thấy nó ở chỗ nào.
- Nó chẳng là của ai cả! - Rahel nói, hơi nghi ngại, vì bỗng nhiên em thấy có thể như thế lắm - Chúng cháu có phải báo cảnh sát không?
- Đừng có ngu thế - Estha nói.
Velutha gõ lên gỗ, rồi lấy móng tay cạo một đường nhỏ thẳng tắp.
- Gỗ tốt đấy - anh nói.
- Nó bị chìm - Estha nói - Nó bị rò.
- Chú có thể bịt lại cho chúng cháu được không, Veluthapappychachen Peter Mon? - Rahel hỏi.
- Chúng ta sẽ xem - Velutha nói - Tôi không muốn cô cậu chơi bất cứ trò ngốc nghếch nào trên dòng sông này.
- Chúng cháu sẽ không thế đâu. Chúng cháu hứa mà. Chúng cháu chỉ bơi khi nào có chú đi cùng thôi.
- Việc đầu tiên là chúng ta phải tìm cho ra những lỗ rò… - Velutha nói.
- Rồi chúng ta sẽ bịt chúng lại! - Cả hai đứa trẻ hô to, hệt như đó là dòng thứ hai của một bài thơ nổi tiếng.
- Mất độ bao lâu ạ? - Estha hỏi.
- Một ngày - Velutha nói.
- Một ngày! Cháu tưởng chú sẽ bảo một tháng!
Estha cuồng lên vì vui sướng, em nhẩy tót lên người Velutha, quặp chân quanh thắt lưng anh rồi hôn anh.
Miếng giấy ráp được chia làm hai mảnh bằng nhau, và hai đứa bé sinh đôi lao vào công việc, tập trung đến kỳ lạ, không còn biết đến sự gì trên đời.
Bụi thuyền bay khắp phòng, bám trên tóc và lông mày chúng. Phủ lên Kuttappen như một đám mây, lên Jesus như một đồ hiến tế. Velutha phải nậy mảnh giấy ráp khỏi những ngón tay của chúng.
- Không làm ở đây - anh nói cương quyết - ở ngoài kia.
Anh nhấc con thuyền lên và mang ra ngoài. Hai đứa trẻ theo sau, mắt nhìn chằm chặp vào con thuyền, nỗi tập trung không hề suy suyển, như những chú cún con sắp chết đói mong được ăn.
Velutha dựng con thuyền cho chúng. Con thuyền mà Estha đã ngồi lên và Rahel đã tìm ra. Anh chỉ cho chúng cách đánh theo thớ gỗ. Anh bắt đầu cho chúng đánh giấy ráp. Lúc anh vào trong nhà, con gà mái đen theo sau, kiên quyết ở bất cứ chỗ nào không có con thuyền.
Velutha nhúng một chiếc khăn mặt bằng vải bông mỏng vào chậu nước bằng sành. Anh vắt khô nước (dữ dội, cứ như đây là một ý nghĩ thừa) và đưa khăn cho Kuttappen lau bụi trên mặt và cổ.
- Chúng có nói gì không? - Kuttappen hỏi - Về việc nhìn thấy em trong đám biểu tình ấy?
- Không - Velutha nói - Không đâu. Chúng sẽ hiểu. Chúng biết.
- Có chắc không?
Velutha nhún vai và cầm lấy chiếc khăn để giặt. Và vò. Và đập. Và vắt. Cứ như đó là ý nghĩ lố bịch, không chịu tuân lời của anh.
Anh cố căm ghét chị.
Cô ấy là một người trong bọn chúng, anh tự nhủ. Chỉ là một người khác trong bọn chúng mà thôi.
Anh không thể.
Cô ấy có những lúm đồng tiền xoáy sâu lúc mỉm cười. Đôi mắt cô ấy lúc nào cũng như ở tận đâu đâu.
Sự điên rồ đã chui qua kẽ nứt trong lịch sử. Và chỉ trong giây lát.
Đánh giấy ráp liền một giờ, Rahel chợt nhớ đến Giấc ngủ trưa của em. Em đứng vụt dậy và chạy. Chạy thoăn thoắt qua buổi trưa nóng nực ghê gớm. Anh trai em và một con ong bắp cày theo sau.
Chúng vừa chạy, vừa cầu cho Ammu chưa thức giấc và thấy chúng đi mất rồi.
Chúa Trời Của Những Chuyện Vụn Vặt Chúa Trời Của Những Chuyện Vụn Vặt - Arundhati Roy Chúa Trời Của Những Chuyện Vụn Vặt