Nguyên tác: The Godfather’S Returns
Số lần đọc/download: 3191 / 128
Cập nhật: 2016-05-03 19:52:17 +0700
Chương 10
F
rank Falcone đánh cá một trăm ngàn đô vào cuộc đấu tại võ đài Cleveland Armory. Lão ta sắp sửa phải ngồi cạnh võ đài, lão bảo Nick Geraci, cho dầu Geraci phải bơi vào bờ với Falcone thúc mạnh vào sau lưng. Don Forlenza đề nghị dùng một trong các chiếc thuyền của ông ta. Laughing Sal Narducci chỉ ra rằng những võ sĩ nặng cân hơn đã vào cuộc đấu. Không còn gì ngoài mấy chiếc thuyền câu không thích hợp để đi xa đến mức đó giữa biển khơi trong giông bão.
Đây chẳng phải là một chuyến bay dài: có lẽ chỉ độ mươi lăm phút. Geraci bảo họ đừng lo lắng gì, anh đã từng bay trong những điều kiện còn tệ hơn gấp trăm lần thế này -chuyện này dĩ nhiên chỉ là phét lác để trấn an thôi - và anh đến sửa soạn cho máy bay sẵn sàng cất cánh. Anh báo cho đài kiểm soát không lưu ở Sân bay Burke, nơi này ra một cảnh báo kiên quyết là không được cất cánh vào thời điểm này. Anh làm bộ không nghe thấy gì.
Chiếc máy bay hai động cơ chở theo Toni Molinari, Frank Falcone, Richard “Khỉ Cái” Aspromonte, Mancuso Tay trái, và viên phi công, chính thức trên danh sách là Gerald O’Malley, cất mình lên cao từ Đảo Rắn Rung chuông lao vào bầu trời đen kịt. Từ lúc họ lên máy bay, chuyến bay quả là một cuộc vật lộn với giông bão để sống còn. Phi công quá bận tâm đối phó với cơn giông quét qua đường bay nên không còn biết chắc là có chuyện gì trục trặc với nhiên liệu không. Có lẽ là không. Anh đã kiểm tra cả hai thùng đựng xăng trước khi cất cánh. Anh chuyển sang thùng xăng kia không phải vì muốn cẩn thận dự phòng nhưng bởi vì anh cần hướng tiêu điểm vào chuyện khác. Khi anh căng mắt, qua bầu trời đục như nước cháo, để tìm những ánh đèn từ Cleveland, anh nghĩ là mình nghe được tiếng động cơ đang khục khặc, lốp bốp, và không phải suy nghĩ, anh tự động chuyển đổi nguồn tiếp nhiên liệu và buột mồm nói ra điều gì đó cho tháp kiểm soát không lưu về chuyện phá hoại, điều mà trong những điều kiện này, sẽ khó để đánh giá, ngay cả với một phi công dày dạn kinh nghiệm gấp mười lần Geraci.
Chiếc máy bay thực hiện cuộc tiếp cận đầy rủi ro đến Cleveland. Những lời cuối của phi công gửi đến tháp kiểm soát là “Sono fottuto”. Dịch thẳng: “Tôi bị đéo rồi.”
Thế rồi, còn cách bờ độ một dặm, máy bay đâm sầm xuống mặt nước sủi đầy bọt của Hồ Erie.
Geraci từng bị va chạm thô bạo khi chơi bóng đá ở trường, và còn bị nặng hơn nhiều trên võ đài. Một lần nơi hồ Havasu, anh ngồi trong một thuyền cao tốc do bố anh lái và đâm vào một kè tàu bằng nhôm. Một cú va đập thật nặng nề, một cú đấm quá ư tàn bạo và chiếc thuyền cao tốc vỡ ra mà anh vẫn sống sót với đầy đủ đầu mình chân tay còn dính liền nhau quả là... nhờ phước đức mấy đời ông bà để lại! Song chuyện này cũng mới chỉ là... một nửa phần tệ hại so với việc tát vào mặt Hồ Erie bằng một chiếc máy bay với ta ngồi cầm lái chiếc máy bay đó!
Chiếc máy bay bật lên rồi lao xuống lại, cày một luống sâu vào lòng nước. Một lát sau, Geraci mới cảm nhận mình ở dưới nước. Cửa buồng lái bị hóc, không mở ra được. Anh rút đôi chân lên dùng hết sức tống mạnh cho thủng một lỗ lớn nơi tấm kính chắn gió trước mặt. Nước hồ hoàn toàn đen ngòm ùa
vào. Trong lúc anh cố gắng chui qua cái lỗ, một bàn tay bấu chặt vào cánh tay anh. Tối đen nên chẳng biết đó là tay ai. Anh cố gắng lôi người ấy theo mình, xuyên qua cái lỗ nơi tấm kính chắn gió. Nhưng người kia bị kẹt lại. Nếu Gerari chịu trận thì cả hai đều sẽ chết. Anh sắp hết hơi thở. Sức bấu của bàn tay kia rất mạnh, các ngón tay cắm sâu vào da thịt cánh tay anh. Geraci nạy các ngón tay ấy ra, cảm nhận và nghe được các đốt xương kia gãy ra.
Geraci bơi xa khỏi xác chiếc máy bay đang chìm. Anh nghe ngóng âm thanh của tiếng mưa rơi nặng hạt để tìm hướng lên mặt nước. Phổi anh co thắt và yết hầu anh phập phồng một cảm giác tê tê, râm ran suốt hai cánh tay anh. Anh cảm nhận một cơn đau nhói nhức nhối, hầu như một cảm giác căng cứng, nơi đỉnh đầu. Anh sắp bị ngộp nước. Thôi thế là tiêu đời. Hãy có một tư tưởng cuối cùng tốt lành, một ý nghĩ cao cả, xứng đáng, nhưng tất cả những gì mà anh có thể nghĩ về chỉ còn là dòng nước bẩn thỉu kinh tởm này đây nơi anh sắp chết ngộp, chết chìm trong đó. Nhưng anh vẫn tiếp tục bơi. Mẹ anh xưa kia cũng thích bơi lắm. Mẹ ơi! Ô, đó là một ý nghĩ cuối cùng tốt lành. Anh yêu quí mẹ. Bà là một hiền mẫu, một hiền phụ. Anh có thể thấy bà. Bà còn trẻ hơn cả khi anh thấy bà lần cuối. Bấy giờ bà đang nhâm nhi ly martini và đọc một tờ báo điện ảnh bên cạnh một hồ bơi ờ gần nhà. Nhưng nay bà đã chết rồi.
Johnny Fontane, cùng với những khách mời rất đặc biệt của anh, Buzz Fratello và cô bạn khả ái, đầy tài năng, Miss Dotty Ames, hoàn thành sô tấu hài của họ tại Phòng Ốc Đảo Xinh Tươi của Lâu Đài Trên Cát với một buổi diễn tạp kỹ gồm những bài hát, những ứng tác tung hứng về chuyện say sưa chè chén, trình diễn cho một đám đông vẫn chưa biết gì về vụ tai nạn trên đây. Đây là một công chúng khán thính giả chỉ gồm toàn là khách mời, phần lớn là các viên chức nghiệp đoàn Xe tải trên khắp nước Mỹ, cùng với các bà vợ (hay các em bồ nhí). Michael Corleone, như một cành ô -liu (biểu tượng của hòa bình, hòa giải), cũng đã mời một ít đại diện chọn lọc khác từ các ngành kinh doanh thực phẩm, khách sạn... Bởi vì là một party thân mật, nên ngay cả những người mà thông thường thì không thể đặt chân vào Las Vegas cũng có thể tham dự. Chẳng hạn: ngay trên sân khấu là người em Butchie của Don Molinari (một tay chuyên bắt cóc đòi tiền chuộc, chận cướp xe hàng, tống tiền... ) và nhiều tay đầu sỏ khác từ San Francisco. Trong phòng vệ sinh quí ông, đang cố rặng đái một cách khó khăn vì dính bệnh lậu mủ và đang chửi thề um sùm cái thằng nhỏ hư đốn của mình bằng tiếng Ý, là quí ông Carlo Tramonti (một tay giết người, một tay ăn trôm cỡ lớn, kẻ cố ý gây hỏa hoạn và lừa đảo bảo hiểm), hiện là ông chủ ở New Orleans và là một thế lực đang lên ở Havana. Các Gia đình tội ác khác của New York đều có ít nhất một thành viên đại diện cho mỗi gia đình, mỗi người đều có vợ và các vệ sĩ tháp tùng. Người mặt nhợt nhạt đeo đôi kính râm khổng lồ đứng đàng xa kia là Louie Russo Mặt Đéo (kẻ sở hữu đồ trộm cắp, chủ mưu những vụ hành hung gây trọng thương, hối lộ các viên chức... ), được một số thành viên FBI tin là đang vận động để chạy đua vào địa vị hãy còn trống capo di tutti i capi (thủ lĩnh của mọi thủ lĩnh/ Thống lĩnh) của toàn bộ tổ chức được mệnh danh là La Cosa Nostra. Tụ họp lại với nhau, sự xuất hiện của tất cả những con người này đã cung cấp đủ vỏ bọc để du hành nhanh đến những người cộng tác của gia đình Corleone từ New York mà không làm dấy lên nghi ngờ. Cũng đáng lưu ý - đặc biệt là từ khi họ đứng sát ngay sân khấu, là cặp tân hôn đang hưởng tuần trăng mật, mặt mày đỏ hồng lên với hạnh phúc, nàng Susan, nguyên là vợ của Zaluchi với ông chồng mới Ray Clemenza.
Trong chỗ đứng trải nhung đen dành riêng cho mình Michael Corleone hơi ngửa người ra sau và rít một hơi thuốc dài. Anh nhìn đồng hồ. Một chiếc đồng hồ Thụy sĩ đã hơn năm mươi năm tuổi. Trước
kia chiếc đồng hồ này thuộc về một tay Thủy quân Lục chiến tên là Vogelsong, trong giờ lâm tử đã dùng hơi thở cuối cùng để nói rằng mình muốn Michael giữ kỷ vật này.
Giờ đây, nếu mọi chuyện diễn ra đúng kế hoạch, thì tất cả những người trên chiếc máy bay kia đều “nên” giã từ cuộc đời cả rồi!
Michael đã từng thấy những chiếc máy bay vỡ tan. Rất gần. Quá dễ cho anh hình dung ra vẻ hãi hùng trên những khuôn mặt người khi máy bay lao đầu xuống. Anh lắc đầu. Anh không muốn nghĩ về chuyện đó nữa.
Thay vì thế, anh sẽ nghĩ về chuyện này: Kế hoạch của anh tiến hành suông sẻ. Anh có gặp những trở lực, những tổn thất không lớn lắm, những điều chỉnh giữa dòng, nhưng cuối cùng mọi chuyện đều hanh thông.
Giờ đây Ủy ban Tối cao có thể họp mặt. Hagen đã nhầm: không có thỏa thuận nào dài lâu trừ phi có đám Chicago dính vào, nhưng không có hòa bình nào gồm cả Chicago lại phù hợp với quyền lợi tốt nhất của Corleones trừ phi Louie Russo đi đến bàn hội nghị với tâm trạng rất khích động. Cú rơi máy bay vừa rồi hẳn là đủ khích động lão ta.
Michael có lẽ chưa bao giờ hút nguyên cả một điếu thuốc nhanh đến thế hay thưởng thức thêm một điếu nữa. Anh đốt điếu khác và hít vào sâu.
Anh đã làm điều anh cần làm. Phải thế thôi. Vì lẽ đó, anh sẽ ngủ ngon, ngủ phẻ phắn, không “iêu tư” ray rức gì cả. Xét cho cùng chuyện này rồi cũng sẽ được phủ che và rơi dần vào quên lãng trong vòng vài ba tháng nữa thôi. Anh sẽ đi nghỉ ngơi và ngủ mười hai tiếng mỗi ngày. Từ khi lớn khôn, anh có lúc nào được nghỉ ngơi đâu. Những năm tháng anh buộc phải đi ẩn mình ở Sicily cũng phải đối phó với bao nhiêu chuyện chứ đâu có lúc nào nghỉ ngơi. Trong thời chiến anh đã có những lúc thảnh thơi với các kỳ nghỉ phép ở Hawaii, New Zealand. Nhưng một cuộc nghỉ ngơi với gia đình? Chưa bao giờ. Anh và Kay và đám trẻ có lẽ nên tới Acapulco. Có thể lại đến thăm Hawaii vào thời bình. Tại sao không? Vui đùa làm trò hề với Anthony và Mary theo kiểu Bố vẫn đùa với anh em chàng hồi nhỏ, chôn người trong cát, xoa dầu chống nắng lên đôi mông căng phồng hấp dẫn của Kay, có lẽ nên xem xét nghiêm túc chuyện có nên cho nàng mang bầu vài chầu nữa không. Chàng sẽ mặc áo chim cò hoa lá và nhảy điệu Mambo.
Chúng ta đã làm điều đó, Bố à, chàng nghĩ. Chúng ta đã thắng.
“Ôi Chúa Toàn năng,” Clemenza nói, mặt đỏ gay vì cười và chỉ một ngón tay mập núc ních vào Fratello, anh chàng này đang chay nhanh quanh sân khấu như một tên nghiện ma túy đang lên cơn. “Này, hắn diễn hay đấy chứ nhỉ?”
“Vâng, cũng coi được”.
Fontane đã lùi về phía sau, thực hiện những tiết mục câm như những trò đùa chơi phù phiếm nhưng vẻ
xuất sắc mà anh toát ra ngay cả khi anh không cố gắng - có lẽ lúc đó sẽ càng đặc biệt hơn - quả là một cái gì thật đẹp. Anh ta là một tên du đãng điếm đàng nhưng anh ta cũng là một nghệ sĩ, thực thế. Michael đã không thể chấp nhận cái cung cách của Fontane thể hiện trong buổi chiều, nhưng theo cùng lẽ đó, anh lại không thể còn cố chấp để bực bội với anh chàng này nữa.
Còn Fratello? Một trường hợp gây bối rối. Đây là một anh chàng đã quanh quẩn bao năm như là “kẻ vụng về thô kệch với cây kèn saxophone”(the cafone on the saxophone).
Thế rồi anh ta bỏ cây saxophone xuống, bắt đầu ca hát như một chàng Da đen nhưng với giọng Ý kiểu mamma -mia, kết hôn với một nàng chân dài tóc vàng bằng nửa tuổi chàng, và đùng một cái trở thành Buzz Fratello và Dotty Ames, hai ngôi sao của Chương trình Tạp kỹ Thường nhật The Starbright.
Fratello kết thúc tiết mục bằng cách chạy nước rút qua sân khấu, nhào lặn xuống sàn, trượt dài đi khoảng mười bộ xuyên qua giữa đôi chân của Dotty, dừng lại rất đúng thời điểm để anh ta có thể lăn tròn, rồi nhìn lên đũng quần của nàng và dụi mắt trong một kiểu nghi ngờ hài hước. Fontane tiến tới. Dotty giúp Buzz đứng lên và cả ba cúi người chào. Đám đông đứng bật dậy. Các diễn viên rời sân khấu. Sự hoan hô nhiệt liệt vẫn tiếp tục. Các thành viên ban nhạc tiếp tục bản nhạc chào mừng (fanfare); rõ ràng sẽ có lời yêu cầu biểu diễn tiếp.
Michael cảm nhận một bàn tay trên vai mình. “Điện thoại,” Hal Mitchell thì thầm. “Từ Tom”
Michael gật đầu và dụi điếu thuốc đang hút dở. Thời điểm diễn sô đây. Anh liếc mắt qua bàn của Louie Russo. Ai đó cũng đang thì thầm điều gì đó vào tai lão ta và khi Michael tiếp nhãn với kẻ thì thầm, anh chàng đó quay lơ chỗ khác. Michael rướn người lên và vỗ vào Clemenza.
Mấy giây sau - trong khi ban nhạc diễn tấu khúc Mala Femmina quyến rủ và Buzz, Dotty, và Fontane móc tay nhau, nhảy nhót nô giỡn trở lại sân khấu để biểu diễn tiếp - thì một vài những hàm ý về những gì có thể đã xảy ra hay có thể đã không xảy ra trên Hồ Erie, hẳn là đã đến tai Louie Russo. Nhưng khi lão ta nhìn qua cặp kính râm hướng đến chỗ đứng bằng nhung đen ở một góc phòng, thì chỗ ấy trống không. Ngay cả ngọn nến cũng đã bị thổi tắt.
Đầu của Nick Geraci bung lên khỏi mặt nước. Lỗ mũi anh vồ chộp lấy không khí, ngấu nghiến. Không khí tràn dâng xuống đôi cánh tay, xuống đôi chân anh và rồi anh rú lên tiếng tru man dã của con sói đồng hoang gặp nạn. Đó là lần đầu tiên anh cảm nhận cái đau khốc liệt từ những chiếc xương sườn dập nát và từ chiếc ống chân nứt gãy.
Cách anh khoảng một trăm yards, một vệt dầu loang đánh dấu nơi chiếc máy bay đâm xuống Hồ Erie. Bập bềnh giữa khoảng dầu loang đó là một trong hai cánh máy bay, với một khoanh lớn của một bên thân máy bay mang logo con sư tử trên nó, và nửa phần trên của cái hóa ra là... thây ma của Frank Falcone!
Geraci rất lơ mơ về những gì đã xảy ra hay là lỗi của ai, bởi cơn đau và chất adrenaline tiết ra nhiều khiến cho khó mà nghĩ được cái gì cho rõ ràng. Anh chỉ còn được buộc vào lí trí bởi niềm xác tín rằng nếu mọi người ở đàng kia đều chết, thì chắc là anh cũng đã toi đời. Sự cứu nạn có thể có nghĩa là được giải thoát bởi... cái chết! Anh vẫn lơ mơ giữa đôi bờ hư thực, chẳng biết đâu phù du mộng ảo, đâu thực tướng chân như. Anh đang trôi bềnh bồng giữa tử sinh xuôi ngược đôi dòng...
Qua màn mưa anh có thể thấy được làn sương mù mỏng dâng lên từ chân trời Cleveland. Anh bơi ra xa khỏi nơi ấy. Hướng về phía bắc. Quay lại Đảo Rắn Rung Chuông, đến Canada, tìm một chiếc thuyền đi qua. Một nơi nào đó anh có thể kiếm cho mình thời gian để lần ra manh mối mọi chuyện. Một nơi nào đó để anh phục hồi nghị lực và kiểm soát vận mệnh mình. Cái ống chân nứt gãy làm anh cảm thấy như là nó đang được nướng trên lò lửa với cơn đau tàn khốc và mấy chiếc xương sườn bị dập của anh làm cho anh thở rất khó khăn, thế nhưng vào lúc chiếc thuyền cao tốc của Đội Tuần Duyên bờ Đông Canada phát hiện ra anh, Geraci đã bơi xa khỏi địa điểm tai nạn khoảng một phần tư dặm, bị sốc đến cùng cực, ngất đi, hai buồng phổi đầy nước, bất tỉnh hoàn toàn.
Được che khuất sau những bức tường chắn của ngọn tháp cao nhất trong ba ngọn tháp hình củ ấu kiểu đền đài Hồi giáo của Lâu Đài Trên Cát và được bao bọc trong ngọn tháp bằng kính phản chiếu nhau là một phòng khiêu vũ quay tròn nơi buổi lễ sẽ diễn ra.
“Tôi cá rằng anh sẽ được ngửi mùi mực in liền bây giờ thôi,” Clemenza nói, vừa thúc chỏ nhẹ vào Michael. “Chú gần như có thể nếm được nó, đúng không nào? Ở trong cổ họng mình, ấy? Giống như dầu, nhưng tởm hơn nhiều.”
Hình ảnh phản chiếu của Michael trong các cửa thang máy bằng đồng bóng loáng đang uống từng ngụm nước ướp lạnh từ một chiếc bình pha lê. Trông anh vững chải, đường bệ, bất khả xâm phạm, một kẻ đang gặp vận hanh thông, thuận buồm xuôi gió.
Clemenza từng là người đã mang Michael đến lễ khai tâm, vài tuần sau khi anh quay về Mỹ sau tám năm tự lưu đày ở Sicily để tránh bị bắt sau khi hạ sát một tay cớm.
Trên đường về nhà, họ dừng lại nơi, khi Michael rời xứ sở, từng là văn phòng của một tờ nhật báo. Một trong những tay cho vay nặng lãi của Clemenza đã được quyền chiếm hữu tòa nhà đó. Clemenza nói rằng ông cần nhìn qua nơi chốn đó để hình dung ra là nên đem cho thuê, hay đem bán nó đi hay là đốt quách nó đi cho rồi. Mọi khả năng đều có thể là thật.
Khi họ bước vào căn phòng trống rộng thênh thang nơi trước kia là phòng in ấn thì ở đó, trong ánh sáng nhợt nhạt cuối mùa hè, ngồi sau một cái bàn dài mà nước sơn màu xanh đang bong ra, có mặt Tessio và bố của Michael, Vito Corleone. Trên bàn là một ngọn nến đã được đốt lên, một thiếp ghi tên thánh, một khẩu súng ngắn và một con dao. Michael biết điều gì sắp diễn ra: họ sắp làm lễ khai tâm cho anh vào Gia đình. Sau tất cả những gì đã xảy ra thì chuyện này chỉ còn là thủ tục. Chuyện giết hai người này chính là ý tưởng của Michael - một người, Sollozzo, là kẻ đã dàn xếp vụ tấn công Vito Corleone và người kia, Mc Cluskey, một tay cớm được móc ngoặc, là kẻ đã đấm vỡ mặt Michael. Lúc đó Sonny, tạm quyền Ông Trùm, đã chấp thuận những vụ chém giết đó nhưng Tessio lại phản đối cho là
chưa phải lúc.
Sau này Vito đã biện hộ rằng ông chẳng bao giờ muốn cuộc sống đó cho Michael nhưng rồi hiển nhiên là ông nghĩ rằng không ai khác có thể xứng tầm với trọng trách. Trong lễ khai tâm Michael, ông bố lầm bầm những từ khó hiểu trước khi vai ông bắt đầu phập phồng. Ông bắt đầu thổn thức. Clemenza cũng làm theo như thế. Tessio kết thúc buổi lễ bằng một phối hợp giữa tiếng Sicily và tiếng Anh, với một kiểu hùng biện lờ đờ. Sau đó họ bẻ cổ hai chai Chianti. Vito vẫn không thể ngừng sụt sịt. Mùi mực và dầu mỡ bốc lên trên Michael nhưng dường như không phải do nồng độ của chúng. Ngày hôm sau quần áo anh toát mùi hôi thối đến lợm giọng khiến anh phải vội vàng tống khứ chúng vào sọt rác. Tuần lễ sau tòa nhà phát hỏa và đổ sập thành một đống hoang tàn. Tay chỉ huy trưởng sở cứu hỏa đã bị chi phối để chùng chình cho quân đến thật trễ khi tòa nhà đã... không còn gì để cứu! Một tháng sau vụ đó, anh chàng bị bay chức, từ giã sở cứu hỏa và chuyển về Florida. Giờ đây anh ta phụ trách những chiến dịch rửa tiền ở đó -những cửa hàng bán rượu, máy bán hàng, bất động sản - và đã đính ước với nàng góa phụ của Sonny, Sandra.
Hai cánh cửa thang máy mở ra. Michael và Pete bước vào và cùng lên tầng trên cùng.
“Forlenza hẳn không bao giờ khử chính nghĩa tử của ông ta.” Clemenza - người từng theo lệnh của Michael, khử Carlo Rizzi, cha đẻ của nghĩa tử của Michael - nêu nhận xét. “Tôi cũng không nghĩ là có khả năng một kẻ nào đó từ bộ sậu khác lại có thể đặt chân lên hòn đảo chết tiệt đó mà Trùm Do thái lại không biết. Tôi cho rằng kết luận hợp lí nhất là tai nạn,” lão chốt vấn đề.
Thông tin đáng giá nhất mà Hagen có thể thu thập được đó là trong vụ rớt máy bay nọ, có một kẻ sống sót. Điều này chưa được xác nhận. Nếu như kẻ sống sót đó là một trong hai Ông Trùm hay một trong những thủ hạ của họ như thế có vẻ tốt hơn. Chứ nếu kẻ đó là Geraci thì chuyện gì sẽ xảy ra sau này khó mà hình dung được. Người ta có thể hoặc không thể coi anh ta là một phi công riêng nào đó có tên là O’Malley chẳng liên hệ gì với Gia đình Corleone. Cũng còn có vấn đề là hầu như khó có thể tìm hiểu anh ta đã biết gì hay đã có thể hình dung ra chuyện gì. Và rồi còn có vấn đề cơn bão tố. Bão tố có thể gánh chịu lời nguyền rủa cho mọi chuyện, điều này càng giúp cho vụ rớt máy bay kia có được hiệu ứng đầy đủ. Nhưng Michael đã dự trù làm thế nào để vận dụng mọi sự mơ hồ nào về nguyên nhân của tai nạn một cách có lợi cho mình. “Tai nạn không xảy ra,” Michael nhận định một cách sâu sắc, “đối với những ai coi tai nạn như là một sự xúc phạm riêng tư.”
“Vậy là do phá hoại?”
“Tôi không biết. Tôi đồng ý là Don Forlenza không thể nhẫn tâm đến độ khử chính nghĩa tử của mình, ngay cả nếu như ông ta có lí do để làm điều đó. Theo chỗ chúng ta biết thì ông chẳng có lí do nào để buộc phải làm điều đó. Nhưng tôi lại không chắc lắm về chuyện lẻn vào hòn đảo ấy là hoàn toàn bất khả.”
“Nếu không phải là Forlenza -”
Michael nhún vai, nhướng một bên lông mày, và giữ đôi mắt chiếu tướng Pete.
“La testa di cazzo” (Thống lĩnh giang hồ). Clemenza một tay kéo núm stop khẩn cấp, tay kia đấm ầm ầm vào tường. “Tên Mặt Đéo Russo.”
Michael gật đầu, như thể chìm trong suy nghĩ. “Một chiếc máy bay,” anh nói,” và ai bị thương? Chúng tấn công chúng ta, tấn công Molinari, tấn công Falcone, một kẻ vô pháp vô thiên mà chúng nghĩ có lẽ đã bước chân quá xa khỏi lãnh địa của mình, và mọi chuyện có vẻ như Forlenza đã ra lệnh. Bốn kẻ cạnh tranh lớn nhất của họ không phải ở đây, Las Vegas, mà là ở nửa phần phía Tây của xứ sở này.”
“Mọi thứ ở phía Tây của Chicago là của Chicago,” Clemenza nói giọng chế diễu. “Một tiêu ngữ bố láo thật!”
“Chú nói chí phải,” Michael đế thêm. “Tên nhố nhăng đó quả là mục hạ vô nhân quá. Hắn tưởng trên đời này hết còn ai là anh hùng hào kiệt nữa hay sao?” Anh lắc đầu theo cái cách khiến anh trông rất là thành thật lấy làm tiếc!
Clemenza hít đầy không khí cho phùng má lên, thở ra chầm chậm, rồi nhấn nút vào. Khi hai cánh cửa thang máy mở ra, khoảng vài ba chục người đã có mặt ở đó, rải rác khắp phòng khiêu vũ. Clemenza vỗ vào lưng Michael. “Đừng để chuyện nhảm đó làm hỏng chuyện ở đây,” ông thì thầm. “Hãy hưởng cuộc vui, okay? Và hãy ngạo với nhân gian một nụ cười. Cho dầu chỉ là một nụ cười ‘ đờ -mi’ thôi!”
Michael đã nói dối.
Cũng không hẳn là nói dối. Giống thế này hơn: anh dắt một con ngựa xuống nước và Pete Clemenza đã lom khom nhìn và say mê. Nếu Pete nhanh chóng nguyền rủa Russo như thế, thì không chỉ có mình ông ta mà thôi.
Sự thật là Michael Corleone đã tìm cách sát thương cả bốn kình địch phía Tây của anh ta. Phần việc đó thì dễ thôi. Cái khó là làm sao thực hiện được chuyện đó mà không bị ai nghi ngờ hay nguyền rủa. Bằng cách “hòa âm phối khí” sự cố sao cho không một linh hồn sống nào khác biết rõ về chuyện anh làm (Cả Hagen lẫn Pete đều không biết, không ai biết cả), anh cũng có thể làm được chuyện đó.
Frank Falcone là một mối đe dọa. Kể từ khi Michael đã sai người giết Moe Greene, thì Falcone là vật cản lớn nhất đối với sự bành trướng của gia đình Corleone đến Las Vegas. Pignatelli có vẻ phục tùng Chicago hơn là Falcone thế nhưng vì mối quan hệ làm ăn với Corleones - cả việc tham gia vào dự án Lâu Đài Trên Mây lẫn túi tiền mặt mà hắn ta nhờ Johnny Fontane giao nộp như một cống phẩm để giết Falcone - hắn ta không đặt ra một đe dọa thực sự nào.
Tony Molinari là một đồng minh lâu đời, đúng vậy, nhưng sự cảnh giác ngày càng tăng của hắn ta về việc Michael thiết lập căn cứ tác chiến tại Hồ Tahoe, cách San Francisco khoảng vài trăm dặm, là một vấn đề trên đà leo thang. Bất hạnh thay là hắn ta đã trở thành một khối ung thư mà tốt nhất là nên dùng phẫu thuật laser để loại trừ.
Forlenza đã là một lão già ngồi xe lăn. Làm cho lão mất uy thế, mất đi sự kính nể của giới giang hồ thì hay hơn là giết lão. Suốt nhiều năm trời lão từng khoe khoang khoác lác với các ông Trùm khác về cái pháo đài ngầm cực kỳ kiên cố, với những ứng dụng kỹ thuật số tiên tiến nhất, nơi hòn đảo Rắn Rung Chuông của lão (cái pháo đài sẽ bảo vệ cho lão cùng với thân nhân và những bộ hạ trung thành của lão sống sót cả sau cuộc chiến tranh nguyên tử tổng lực giữa Mỹ và đồng minh với Liên sô và chư hầu. Ghê thế đấy!). Lão sẽ phải gánh chịu toàn bộ hay một phần lời nguyền rủa về vụ rơi máy bay. Ngay cả nếu không ai đến báo thù lão, cũng vẫn sẽ có áp lực từ chính những người của lão buộc lão phải... “thoái vị khỏi ngai vàng”. Sal Narducci, caporegimecủa lão - người đã đi đêm với Michael Corleone và đã đích thân làm đốc công giám sát qui trình kỹ thuật để phá hoại chiếc máy bay - sẽ trở thành Ông Trùm. Sau hai mươi năm chờ đợi để được ngồi vào chiếc ghế quyền lực này, chắc chắn đây là cú đánh cá với xác suất thắng cược cao nhất trong việc giữ cho lão im miệng về chuyện bằng cách nào lão đã đạt được ngôi cao quyền lực. Kiến lập Narducci vào địa vị ấy cũng có nghĩa là cắt đứt mọi quan hệ giữa bộ sậu Cleveland với gia đình Barzinis.
Phần hay nhất của kế hoạch này là hiệu ứng nó tạo ra trên đám Chicago. Sẽ là bất khả để chứng minh rằng Russo đứng đàng sau vụ này và cũng bất khả không kém để phản bác nó. Nhưng một khi Michael cho các thành viên của Ủy ban Tối cao biết rằng viên phi công tử nạn O’Malley thực sự là capomới của anh, thì mọi người có suy nghĩ đúng đắn sẽ nhận định ra ai là kẻ được lợi nhất trong chuyện này.
Lẽ nào Forlanza lại đang tâm giết chính nghĩa tử của ông ta? Không thể nào.
Lẽ nào Michael Corleone giết tay capo vừa mới được chính anh bổ nhiệm? Ai tưởng tượng nổi điều ấy?
Chỉ còn lại đám Chicago.
Michael đã khéo léo thu xếp để chơi đám Chicago một vố đau mà không giết một mống nào trong bộ sậu của Russo. Nhờ vậy Michael sẽ không phải lo lắng chuyện Russo tìm cách trả thù. Sự mất mát rõ ràng nhất mà Russo phải chịu đó là giờ đây lão ta phải đến bàn hòa nghị trong tư thế yếu. Nhưng Michael cũng chỉ cần có thế.
Quyết định khó khăn nhất mà Michael phải ra, đó là giết Geraci.
Không còn gì phải bàn cãi về việc Geraci đã hoàn thành một công việc xuất sắc với công cuộc kinh doanh ma túy, thế nhưng tính hiếu chiến của anh chàng này là một vấn đề. Tham vọng của chàng ta là không giới hạn, lớn hơn là chính chàng ta tưởng. Mặc dầu từng tỏ ra trung thành một cách kiên định, chưa bao giờ quờ quạng, chuệch choạc song mối liên hệ của chàng ta với Forlenza vẫn luôn là một yếu tố đáng phải quan tâm. Chàng ta có lẽ sẽ còn mãi đau đớn với chuyện Tessio. Và khi Michael phong Fredo làm sotto capo, Geraci đã hỏi anh, giữa công chúng, là anh có mất trí không. Sau đó họ đã cùng ăn tối ở Patsy’s. Không có ai khác ngồi chung bàn. Không có ai khác nghe. Geraci đã xin lỗi. Nhưng ít có Ông Trùm nào chịu tha thứ một sự mao phạm bất kính như thế. Chuyện đó có vẻ nhỏ nhặt nhưng đã thuyết phục Michael Corleone rằng tất cả những ưu tư nhỏ hơn về chàng ta là có cơ sở và càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Thế nhưng mối ưu tư sau cùng được biện minh đã khiến Geraci bị giết. Cho dầu chuyện ấy đã được tha thứ. Không có chuyện phản bội. Những tài sản Geraci làm ra dễ dàng vượt quá trách nhiệm của anh ta. Michael thích anh chàng ấy.
Hy sinh Fausto Geraci Jr. là chuyện mà một người như Vito Corleone sẽ không làm.
Đúng hơn đó là hành vi của một tay Thủy quân Lục chiến, kẻ đã từng chứng kiến hàng ngàn người tốt mà vẫn chết, dường như chỉ là chuyện hên xui: một điều ác cần thiết để đánh đổi cơ hội hoàn thành một điều thiện lớn hơn.
Một kế hoạch hoàn hảo, trừ phi đúng là có một trong những người kia sống sót. Và cũng đúng là... người tính sao bằng trời tính!
Còn Clemenza cũng đã nói dối.
Buổi lễ khai tâm cho Michael không phải là lần duy nhất mà ông đã thấy Bố già trong tình trạng đó. Lúc hãy còn xanh xao yếu ớt vì những vết thương do đạn bắn từ cuộc mưu sát mà ông may mắn thoát chết, Vito đã quay về nhà từ đám ma của Santino, bị suy sụp với nỗi đau buồn sâu sắc đến độ cảnh tượng đó ám ảnh mãi tất cả những ai đã từng chứng kiến. Lúc đó Michael đang lẫn trốn ở Sicily nên không thấy cảnh đó. Những người đã - mẹ của Michael, em gái anh và chồng cô ấy, anh em của anh, Tom và Fredo, và Pete Clemenza, người, không bao lâu sau khi tiếng nức nở bắt đầu, đến ôm lấy bạn mình rồi cáo từ về nhà, để cho gia đình họ với nhau - mang theo với họ hình ảnh của con người bị suy sụp đó và âm thanh của những tiếng kêu gào than khóc khủng khiếp của ông. Họ không bao giờ nói về chuyện ấy, không nói với nhau và chắc chắn là không nói với bất kỳ ai khác, ngay cả với Michael.
Nhiều người có mặt tại sô diễn của Fontane xuất hiện nơi phòng khiêu vũ quay tròn. Một cuộc tiếp tân, dường như tất cả chỉ là thế. Không có cuộc xuất hành hàng loạt của các viên chức công đoàn, các thành viên ban nhạc hay của phụ nữ. Trong mức độ mà mười ba người mới đến có thể đoán, thì đã có một lúc mấy người kia có mặt nơi đây. Tiếp đến, những thành viên cũ của Gia đình Corleone đang mang hai chiếc bàn dài được phủ khăn trải bàn bằng len trắng đến sàn nhảy bằng gỗ và từng mỗi người bên ngoài đều đi ra.
Ai đó tắt hết đèn.
Khắp cả phòng, người ta đặt tay lên vai những người được bổ nhiệm và chúc mừng họ bằng những lời thì thầm khàn khàn (lẽ ra phải là mười bốn người nếu như Fredo không làm cho Figaro lỡ chuyến bay). Đây là những con người mà đám lính mới ngước nhìn lên từ bao năm - những kẻ mặc các bộ côm -lê đặt may, lái những chiếc xe sang trọng, đéo những cô nàng chân dài đài các, ban phát ân huệ và tìm kiếm ân huệ cho mình, sinh hoạt trong một thế giới dường như huyền bí, đầy quyền lực và không thể vươn tới. Bên ngoài phòng khiêu vũ đang chìm trong bóng tối kia, những du khách tìm lãng quên đang nghịch nước nơi hồ bơi trên sân thượng.
Khi những ngọn đèn trong phòng khiêu vũ sáng trở lại, bàn đã được bày biện: mười ba bộ lễ khí, mỗi bộ gồm một cây nến tạ ơn, một thiệp tên thánh, một con dao găm, và - trong một cử chỉ nhằm nói lên sự bành trướng của Gia đình về Miền Viễn Tây (một ý tưởng của Fredo, nói cho công bằng), một khẩu Colt 45 lấp lánh.
Mười ba người mới được chỉ vào chỗ ngồi. Những người khác -khoảng năm mươi người, một số từng dự sô diễn, một số vào thành phố và vào Lâu Đài Trên Cát chỉ vì vụ này - ngồi ở những chiếc ghế chung quanh vòng tròn.
Michael Corleone ngồi với số còn lại của đám thuộc hạ. Anh tạo ra yên lặng. Anh không phải là một người mê tín, nhưng anh đang làm việc với những người mê tín và anh biết rằng họ đang đếm đi đếm lại số người ngồi ở giữa và không thích sự kiện con số vẫn là mười ba. Nhưng nguy cơ để cho tâm trí họ loay hoay với sự trùng hợp ngẫu nhiên kia dường như đáng với sự tưởng thưởng để mặc kệ cho những người hiện diện cảm thấy bất an trong nỗi bối rối cố che giấu của họ. Đối với một người, họ rõ ràng đang cố gắng để làm như đây chính là một thời điểm đặc biệt ngoại lệ trong cuộc đời họ, nhưng họ lại không mấy thành công trong cố gắng đó. Họ biết anh là ai và anh đóng vai trò gì ở đây, và do vậy hơi tức cười khi thấy họ cố gắng không nhìn vào anh. Anh có thể nghe giọng của Trung sĩ Bradshow, huấn luyện viên cũ của anh trong quân đội: Ngươi bác bỏ nỗi sợ hãi. Một Thủy quân Lục chiến không sợ phải chấp nhận nỗi sợ hãi. Ngươi cười nhạo và chế giễu nguy hiểm. Ngươi phớt lờ nguy hiểm. Đối mặt với nguy hiểm, một THỦY QUÂN LỤC CHIẾN... PHỚT LỜ... KHÔNG CÁI GÌ CẢ!
Cuối cùng, Michael đứng lên.
“Tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện của một cậu bé,” anh nói, vừa tiến gần lại các bàn. “Cậu bé sinh ra trước đây một ngàn một trăm bốn mươi năm ở một miền quê trên đảo Sicily, gần thị trấn Corleone. Thời niên thiếu của cậu trải qua trong giàu có và hạnh phúc cho đến khi cậu mười hai tuổi, thì những đoàn quân Á rập trên đường bắc tiến qua các rặng núi, đã tàn sát tất cả già trẻ lớn bé trên đường chúng đi qua, trong đó có bố mẹ của cậu bé. Cậu bé núp trong một cái chum bằng sành, lén nhìn ra ngoài và thấy lưỡi gươm cong của quân man rợ chặt bay đầu mẹ mình nhưng từ đôi môi nơi chiếc đầu đã đứt lìa của bà vẫn thét lên những lời yêu thương dành cho đức con duy nhất của mình. Những cuộc chém giết đó chỉ là những hành động bạo tàn thuần túy. Bọn Á rập giết người vô tội chẳng phải để bảo vệ cái gì hay để trả thù cho cái gì. Chúng coi việc giết người chẳng qua cũng như hái một trái cà chua nơi vườn cây, hái một chùm nho nơi cánh đồng, một trái ô -liu từ khu rừng nhỏ. Chuyện vặt. Chúng ông đây giết người vì chúng ông khoái giết người. Sao, bọn giun dế chúng bây có thắc mắc khiếu nại gì không? Ra đây, lưỡi gươm của quí ông đây sẽ giải đáp cho! Khà khà! Chúng mày tức hả? Uất ức hả?Thì cũng làm đéo gì được chúng ông nào? Khà, khà, khà!
Rồi chúng nghênh ngang tiến về mục tiêu, thành phố Palermo.”
Michael rút một điếu xì gà từ cái túi ngực của chiếc áo tuxedo. Hơn một người trong số những người hiện diện chùi bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lên chỗ đùi mình.
“Tên của cậu bé,” Michael nói,” là Leolucas.” Michael dừng lại, đốt điếu xì -gà và để cho tầm quan trọng của cái tên vừa được xướng lên đó ngấm sâu vào đầu óc người nghe. “Mặc dầu mới mười hai tuổi cậu không chỉ xoay xở để quản lí điền sản gia đình mà còn làm việc đồng áng nặng nhọc với thời gian dài chẳng kém một chàng lực điền gấp đôi tuổi mình. Nhưng rồi với năm tháng qua đi, chàng trai nghe ra, trong nỗi cô đơn giữa những cánh đồng, ơn kêu gọi cho chàng biết thiên mệnh đích thực của mình. Chàng bán hết gia trang điền sản, đem tiền của cứu giúp người nghèo khó, và vào dòng tu. Sau nhiều năm, trở thành tu sĩ, ông quay về ngôi làng thời tuổi trẻ, hành vô lượng công đức và được mọi người biết đến ông yêu mến. Ông ra đi trong thanh thản yên bình khi đã thành một vị bách tuế thượng thọ.
“Cent’anni!” (Một trăm tuổi!) Clemenza kêu to lên. Mọi người cạn ly chúc mừng.
“Năm trăm năm sau,” Michael kể tiếp, đi vòng mọi người quanh các bàn, “lời cầu xin hộ của Leolucas đã bảo vệ thị trấn Corleone khỏi cuộc bùng phát của Trận Dịch Đen. Và vào năm 1860, hơn một ngàn năm sau khi ông mất, Leolucas báo thù những kẻ giết cha mẹ mình bằng cách hiện ra như một tháp lửa trắng trước đạo quân xâm lược, làm cho chúng hoảng sợ tháo chạy khỏi Corleone và rơi vào vòng vây của đại quân Garibaldi và người anh hùng này đã đuổi quân xâm lăng khỏi Sicily. Những phép lạ này, và nhiều phép lạ khác tại di chỉ phần mộ của ông, đã được Đức Thánh Cha ở La mã xác chứng. Leolucas giờ đây và mãi mãi là -” Michael rít một hơi đầy khói xì -gà thượng hạng, sải bước từ bàn này đến bàn kia, từ từ nhả ra từng đợt khói thơm lừng, và cầm lấy tấm danh thiếp thiêng liêng từ trước mặt Tommy Neri vốn là một trong mười ba môn đệ tân tòng. Anh trân trọng hôn vào tấm thiệp rồi đặt xuống lại. “- vị thánh bổn mạng của Corleone. Này quí đạo hữu?”
Anh làm một chuyển động quét với bàn tay. Từng người một trong đám mười ba người cung kính hôn bức ảnh bằng giấy bồi của Thánh Leolucas.
“Chỉ ít năm sau lần xuất hiện gây kinh hoàng trong hình trạng tháp lửa trắng của Thánh Leolucas,” Michael nói, “nơi một túp lều tranh giáp với những cánh đồng xưa kia thuộc quyền sở hữu và được canh tác bởi bậc thánh nhân Leolucas, một đứa bé khác ra đời. Tuổi thơ của cậu bé cũng vui vẻ hạnh phúc cho đến, cũng vào độ tuổi mười hai, có những kẻ đến giết bố cậu. Cuộc mưu sát hoàn tất với ba phát từ lupara. Mẹ cậu bị đâm chết rồi bị moi ruột, như đối với một con vật. Bị tử thương, bà cũng cố gào lên những lời yêu thương dành cho con mình. Cậu bé chạy trốn. Những kẻ sát nhân chạy đuổi theo cậu, biết rằng một ngày nào đó cậu sẽ tìm cách giết chúng. Tên của người đó -”
Michael lại rít một hơi dài từ điếu xì -gà. Anh cảm nhận định mệnh của chính mình chảy xuyên qua người đó. “ - là Vito Andolini. Chàng trai đó một mình di cư đến những bờ biển lạnh giá của nước Mỹ, ở đó, để cho những kẻ sát nhân không tìm ra mình, chàng ta đổi họ, lấy tên làng cũ làm họ của mình. Đó là một trong những cử chỉ tình cảm hiếm hoi mà ông từng thể hiện, tất cả đều phải phù hợp với la famiglia (gia đình) - và đến đây anh dùng nắm tay vỗ vào ngực -”với figliolanza (đứa con) yêu quí của ông” -và đến đây anh chạm vào cằm mình. “Chàng trai làm việc cật lực, giúp đỡ bạn bè, xây dựng nên cơ ngơi đồ sộ và không bao giờ dung dưỡng một tư tưởng thiếu khiêm tốn. Ngày nọ ông thực sự quay về Sicily và báo thù cho cái chết của cha mẹ mình. Vito Corleone, người mới đầu năm nay đã
ra đi thanh thản nơi khu vườn yêu thích của ông, là cha tôi. Tôi, Michael Corleone là con trai của ông. Nhưng” - và anh chỉ những người ở vòng ngoài - “những con người danh dự này, cũng là la famiglia Corleone. Nếu các bạn mong muốn cùng một nhà với chúng tôi, chúng tôi mời các bạn tái sinh như thế.”
Michael ngồi xuống. Fredo đã được dự định để thực hiện phần kế tiếp. Bất kể những gì mà những người như Geraci nghĩ, việc Michael lập anh mình làm sotto capo (phó tướng) vẫn là một phương tiện để khích lệ hơn là một công việc. Fredo đã được giao cho một ít trách nhiệm được định nghĩa một cách hạn hẹp, một đám nhỏ những người tin cậy nhưng tầm thường, một nhà thổ trong sa mạc, mà anh ta, với tính khí thất thường, đã thoái thác. Michael phải ẩn nhẫn chuyện này. Bạn có đánh đập, có huấn luyện thế nào cũng không thể biến một con lừa thành con ngựa đua được.
Clemenza cắm cây gậy xuống sàn, càu nhàu lớn tiếng và đứng lên.
Chắc chắn là từng người trong số mười ba người này đều đã hiểu những thủ tục của buổi lễ. Nhưng có những qui ước phải tuân thủ. Clemenza bắt đầu bằng cách giải thích cơ cấu của Gia đình. Michael Corleone là Nghĩa phụ, là Cha đỡ đầu với uy quyền tuyệt đối. Frederico Corleone là sotto capo. Rocco Lampone và chính ông, Pete Clemenza, là các caporegimes. Clemenza không nhắc đến vai trò của consigliere. Chuyện này là một trường hợp kể từ khi cái chết của Genco Abbandando, trước tiên bởi vì Hagen, vốn không phải là dân Sicily, không bao giờ có thể tham dự vào, quan sát, hay ngay cả được nêu lên trong những nghi lễ này, và rồi trong thời gian ngắn mà Vito làm consigliere, sổ sách vẫn còn đóng lại. Clemenza chẳng nhắc nhở tí gì đến Nick Geraci.
“Trước khi các bạn đến với chúng tôi,” Clemenza nói,” các bạn cần hiểu rõ một số điều.” Ông đổi sang tiếng Sicily và tiếp tục, đi cà nhắc quanh chu vi mười ba người. “Chuyện chúng ta sắp nói đây không phải là chuyện làm ăn mua bán mà là một vấn đề danh dự. Nếu bạn đồng ý gia nhập, thì chuyện của chúng ta phải đến trước cả chuyện của đất nước. Trước cả Chúa Trời. Trước cả chuyện vợ con bạn, trước cả cha mẹ bạn. Nếu bạn được triệu tập và lúc đó mẹ bạn đang trên giường lâm tử, bạn cũng chỉ hôn bà rồi từ biệt để thi hành nhiệm vụ cấp trên giao phó.”
Ông dừng lại trước chiếc ghế nơi ông đã bắt đầu. Ông nghiêng người về phía trước, tựa lên chiếc gậy, xa đến nỗi có vẻ như ông sắp ngã lộn mèo. “Các bạn hiểu chứ? Các bạn đồng ý không?”
Những người kia không ngần ngại chấp thuận.
Đáp lại, Clemenza chầm chậm gật đầu và ngồi xuống.
Michael lại đứng lên và, như thể là bù trừ cho vẻ yếu ớt của Clemenza, anh tiến đến các bàn bằng những bước sãi dài, manh mẽ, oai vệ. Anh đã ăn quá nhiều, uống quá nhiều, làm việc quá nhiều và ngủ quá ít. Acid dâng lên nơi cổ họng anh.
“Có hai điều luật,” anh nói, “mà các bạn phải phục tùng không điều kiện. Các bạn không bao giờ được phản bội những bí mật của hội kín chúng ta, phải tuân thủ truyền thống omerta (luật im lặng) từ xa xưa.
Hình phạt đối với việc vi phạm điều luật này là cái chết. Các bạn không bao giờ cưỡng hiếp vợ hay con của một thành viên khác. Hình phạt đối với việc vi phạm điều luật này cũng là cái chết. Các bạn có thề, bằng chính mạng sống của mình, giữ những điều luật này không?”
“Xin thề!”
Những người lớn tuổi hơn có lẽ nhận ra sự vắng mặt của điều luật thứ ba, được nêu lên trong mọi lễ khai tâm mà Vito Corleone từng thực hiện:Bạn không bao giờ dính líu vào việc buôn bán ma túy. Không ai nói lời nào về chuyện này, ngay cả một tiếng xầm xì cũng không.
“Các ngươi đi vào là người sống,” Michael nói, “và các ngươi đi ra là tử thi” (You come in alive and you go out dead).
Ngày anh cầu hôn em, Kay, anh nói rằng những việc kinh doanh của chúng ta sẽ trở thành hợp pháp trong năm năm nữa.
Michael tiến gần lại Tommi Neri. “Những công cụ giúp bạn sống và chết là khẩu súng” - đến đây Michael cắn giữ điếu xì -gà và một tay cầm khẩu Colt lên - “và con dao.” Tay kia anh nắm lấy con dao găm. Anh sắp hai vũ khí đó xuống trước mặt Tommi, đặt chúng chéo vào nhau.
“Các bạn có đồng ý,” Michael nói, “rằng, khi được kêu gọi đến, các bạn sẽ sử dụng súng và dao để giúp Gia đình này?”
“Vâng, thưa Nghĩa phụ”
Michael rít mạnh một hơi xì -gà và dùng đầu điếu thuốc để châm cháy ngọn nến dâng cúng của Tommi Neri. Rồi anh chỉ vào tay phải của Tommi. Tommi xòe rộng bàn tay ra. Michael cầm con dao găm lên, chích máu nơi ngón tay lẫy cò của Tommi, kẹp ngón đó trong lòng bàn tay anh và bóp thật chặt, cẩn thận ấn sức ép xa khỏi vết thương và nhờ vậy tăng cường số lượng máu nhỏ ra.
Từng người một, mười hai người kia đưa ra cùng câu trả lời giống vậy và phục tùng cùng nghi lễ đó.
Michael quay lại phía cuối bàn. Anh vỗ lên nắm tay khép của Tommi. Tommi mở nó ra rồi để hai bàn tay lại gần nhau, bàn tay nhỏ máu phía bên phải và bàn tay sạch phía bên trái, quay lòng bàn tay lên và khum lại thành hình chén. Michael nhặt lên tấm thiệp tên thánh của Thánh Leolucas, đốt cháy tấm thiệp bằng ngọn nến dâng cúng tạ ơn và thả nó rơi vào hai lòng bàn tay của Tommi Neri. “Qua lại liên tiếp,” anh thì thầm.
Tommi tung hứng ảnh vị thánh đang cháy từ tay này qua tay kia.
“Nếu có khi nào bạn phản bội bạn bè mình,” Michael nói, “bạn sẽ cháy thiêu.” Anh thổi một hơi nhỏ khói xì -gà vào khuôn mặt không nao núng của Tommi. “Giống như bức hình vị thánh bổn mạng yêu kính của chúng ta hiện đang đốt cháy lòng bàn tay đã chích máu để hội thề của bạn. Bạn chấp nhận
điều này không?” “Vâng, thưa Nghĩa phụ.”
Michael trông chừng cho tấm thiệp hoàn toàn thành tro tàn. Sau đó, dịu dàng như một người tình, anh xoa tro vào hai lòng bàn tay của Tommi, rồi hôn chàng ta, dịu dàng, lên mỗi bên má.
Từng người một, mười hai người kia phục tùng cùng nghi lễ đó và đưa ra cùng câu trả lời đó.
“Gli uomini qualificati” (Giờ đây các bạn đã là những con người đủ phẩm chất), Michael nói. “Nào các bạn, hãy tự giới thiệu với huynh đệ của mình.”
Căn phòng nổ bùng ra trong một hỗn hợp tạp âm của những lời chúc tụng, nút sâm banh nổ lốp bốp, những lời reo hò chúc mừng bằng tiếng Ý. Những người ở vòng ngoài giữ nguyên vị trí của họ để bảo đảm rằng các thành viên mới thực sự đi vòng quanh phòng đúng như qui định để tự giới thiệu họ, hôn vào má của mọi người ở vòng ngoài, không để sót em nào. Michael đã hôn họ cả rồi. Anh chuồn ra cửa sau và xuống cầu thang. Anh biết rằng điều đang chờ đợi anh ở nhà có thể là tin tức về sự leo thang những rắc rối của anh. Nhưng cũng may là ngày trọng đại này cũng qua đi suông sẻ. Cũng may là anh có thể nghỉ ngơi đôi chút để ngày mai còn tiếp tục lao vào cuộc chiến với một đầu óc tỉnh táo hơn. Anh đã cảm thấy đỡ hơn nhiều khi bước ra khỏi căn phòng đó, xa rời mùi khói thuốc và mùi rượu nồng. giờ đây, những nụ hôn duy nhất mà anh mong muốn là những nụ hôn từ vợ con mình.
Bạn đi ra là tử thi.
Anh đi đến chiếc xe. Trong khi chờ Al Neri thu gom các khẩu súng ngắn và giao nộp lại cho anh, Michael bỗng thấy bao tử mình nhộn nhạo. Anh cố chống chọi lại. Nhưng rồi không chịu nổi anh phải quì gối xuống và bắt đầu nôn. Mọi thứ tuôn trào ra - rượu strega, rượu whiskey, những thức ăn mà Enzo đã chăm chút chế biến cho thật ngon miệng, mọi thứ từ cuộc đi chơi dã ngoại, cho đến cả những hạt bắp rang cuối cùng ăn trong lúc xem phim.
“Ông ổn rồi chứ, thưa ông chủ?” Những khẩu súng ngắn nằm sát vào nhau trong hộp có gối lót và Al Neri đã mang chúng phóng xuống bao nhiêu bậc cầu thang, qua nhiều phòng khách và nhiều hành lang. Mệt phờ người.
“Ồ, vâng,” Michael đáp. Người anh đầm đìa mồ hôi. Dầu còn loạng choạng, lảo đảo, song anh vẫn cố đứng lên. Anh làm rách gối chiếc quần. “Tôi ổn rồi. Đi thôi.”
Những con dao găm từng được dùng để chích ngón tay lãy cò của người nào thì người ấy giữ luôn bên mình. Những con dao găm bằng thép cực tốt, ánh lên sắc xanh lạnh, tay cầm nạm mấy viên đá quí. Một tặng phẩm đặc biệt của Gia đình và trở thành vật bất ly thân trọn đời cho gia môn tử đệ.